Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018
Tâm Thanh: Người Rơm
Khi mùa
đông buốt giá tột
độ ở
đây, tôi biết nơi
xa xôi bên kia là mùa xuân. Người nhắc
nhở tôi điều
này không phải cha mẹ
tôi (ông bà chết
trên đường
vượt biên từ Hải
Phòng sang Hồng-công, lúc tôi năm tuổi), mà một
cô giáo người Thụy-điển,
cô Anita. Nhưng từ ngày tôi bỏ
học, xa cô, tôi không
biết khi nào là mùa xuân ở
bên kia. Nhiều lần tôi mỏi mệt
nghề ăn cắp, định
về thăm cô. Nhưng năm
nay lại xảy ra nhiều chuyện.
Là đứa duy nhất trong băng có quốc tịch,
và có cái xe ôtô con, tôi
chuyên việc cầm vôlăng
trong các chuyến ăn cắp
'butích', được
gọi nghiêm túc là 'đi
chợ.’ Địa bàn
hoạt động
của chúng tôi chủ
yếu là các thành
phố miền đông Thụy-điển
như Stockholm,
Uppsala, nhưng nếu có mối
bở béo chúng tôi có thể đi
sang miền tây như Gưteborg,
Bohus. Được
hai năm, hình như gần
ba năm, cảnh sát thuộc lòng
số xe của tôi và nhẵn
mặt cả bọn sáu
đứa, nhiều
khi chúng tôi vào cây xăng mua cái xúc-xích cũng bị theo dõi. Chúng tôi
phải tìm đồng
cỏ bên nước láng
giềng Na-uy. Sang
Na-uy mới biết việc đi chợ thanh nhàn như đi ăn
đám giỗ. Thằng Tư đại
huynh, nói "Chẳng trách Liên Hiệp
Quốc xếp đây là nước sống sướng nhất thế giới, năm năm liền." Trong chuyến đi chợ bên Na-uy, tôi gặp Tuyết Anh.
Tuyết Anh là tên ghi trong thẻ
đăng ký
tị nạn do cảnh sát Na-uy cấp, đương nhiên là tên giả. Tên thật của
nó chắc phải đẹp
hơn — đấy,
cứ coi nước da trắng như thế, đôi mắt
to như thế, và bộ
ngực căng như thế! Nó chỉ có
mỗi một cái khó coi là
cao, cao hơn tôi cái đầu, cẳng lại dài; hôm đi giới thiệu các địa
điểm làm ăn
với nó, tôi phải
chạy mới kịp. Nó từ
quê Quảng Ninh, đi xe lửa sang Trung Quốc, từ
Trung Quốc sang
Ukraina, ở Ukraina
chừng sáu tháng thì được
chở bằng xe thùng qua nhiều nước, cuối cùng tới Na-uy. Ấy
là nó kể
với tôi như vậy,
như đã khai với cảnh
sát, nhưng tôi biết trong mười
điều nó
nói có bảy
điều dối.
Nó là 'người
rơm' mà!
Một người đàn ông Việt
Nam nhưng tên Jon cho nó ở
nhờ miễn phí trong cái buồng
mười hai mét vuông. Khi chúng
tôi sang, ông nhét chung vào
đó luôn. Chúng tôi
ngăn buồng thành hai chuồng, bằng tấm vải nhựa, chuồng đực
đặt hai tấm
nệm cho bốn thằng đực
— Tư, Hỉ,
Long và tôi; chuồng cái
với một tấm nệm, cho Tuyết và Nam. Chuồng đực có một
đài tivi và máy chơi
điviđi, chuyên
chơi phim lợn. Thỉnh thoảng chúng tôi có chơi phim động
và phim hình sự để
trau dồi nghiệp vụ.
Hôm nay
nghỉ chợ vì mấy
đứa kia có việc
về Thụy-điển,
trong phòng chỉ còn lại
hai đứa. Tuyết kể tiếp về chuyến đi của
nó, sau tấm màn:
"Thằng dịch vụ tịch thu hết
giấy tờ rồi mới
thả em xuống một cái siêu thị,
bảo vào ăn
cắp cái gì thì tự động
được nhập
trại."
"Vậy là em có duyên với nghề đi chợ ngay từ thuở ban đầu,"
tôi ngắt lời. Tuyết không bình phẩm
câu nói lảng nhách
của tôi, tiếp:
"Em
làm y như nó bảo
— ăn cắp
cái xì-líp, cảnh
sát tới bắt, em xin tị nạn. Thế
là nó chở em về bót, lăn
tay, chụp hình, làm việc,
rồi chở vào trại
tị nạn. Ấy, trước khi đủn
em ra khỏi xe, thằng dịch vụ nó còn khám người em…"
Tôi
lại ngắt lời:
"Nó
khám những chỗ nào?"
Tuyết vẫn không để
ý lời tôi,
tiếp:
"Nó
thấy tấm hình mẹ em chụp
chung với hai chị em em và hình thằng
bạn giai, chửi rủa thậm tệ rồi bắt
xé đi luôn."
“Sao vậy?"
"Đã bảo
là người rơm mà lị,
làm gì được
có bố mẹ!"
Nhưng thằng dịch vụ và Tuyết
vẫn hớ hênh — cảnh sát di trú khám túi quần con Tuyết,
thấy cái vé xe lửa
khởi hành từ Mnchen biết
nó đã từng
xin tầm trú ở
Đức, nên đưa
nó vào trại
Tanum giam lỏng, chờ xác nhận
lý lịch với
cảnh sát Đức
và thu xếp giải giao về Đức. Nó
trốn trại, gia nhập bọn tôi. Trong lúc đi chợ,
nó ít bị
bọn an ninh nghi ngờ, nhờ vẻ lành
thánh.
"Thằng cảnh sát nó khám quần em làm sao?" tôi hỏi.
"Thì
nó bắt tụt ra. Một con, không phải thằng… Anh hỏi linh tinh thế!"
"Thì…
thì bây giờ không linh tinh nữa: Tại sao không bị trả
về Trung Quốc hay Ukraina?"
"Việt Nam còn không nhận
người rơm, huống hồ mấy nước
kia. Chỉ có mấy
thằng tư bản nó
nhận," nó đáp. "Vẫn
là linh tinh."
Ngửi mùi nước hoa, tôi ngồi
dậy hỏi:
"Anh
sang bên đó thăm em
nhá?"
"Không!
Em đang thay đồ."
Nếu đó là con
Nam, tôi đã ghé mắt
vào cái lỗ đục bằng thuốc lá để
dòm, nhưng không hiểu tại
sao đối với con Tuyết, tôi không dám.
Từ hôm gặp nó,
ban đêm tôi hay nằm mơ
về nó, và lẫn
lộn nét mặt của
nó với cô
Anita. Tôi nằm trở lại, úp
cuốn Playboy lên bụng.
"Bạn giai em tên gì?" tôi
hỏi.
"Hỏi làm gì?" nó
hỏi lại. Tôi tưởng tượng
nó đang ngồi
trên đệm thoa son phấn, vú cơi
ra ngoài cái singlet, như tấm hình
trong Playboy.
"Hỏi cho biết…" tôi
trả lời, chắc là vớ
vẩn lắm; cha mẹ nó còn phi
tang, tại sao nó lại
khai tên bồ của nó
cho tôi. Để đỡ
phần vớ vẩn, tôi
thêm: "Hừ, chẳng nên hỏi."
Có tiếng gõ cửa mạnh và cửa
mở ra ngay, không chờ ai mời
vào gì cả
— ai có đủ
tư cách như thế
ngoài ông chủ nhà?
Ông Jon là con người đầy bí mật,
không ai biết ông tiền
rừng bạc biển hay là khố rách
áo ôm chuyên
nghề giật hụi, ai là vợ
con ông ta; không ai biết ông
gốc Việt, Tầu hay Căm-bốt. Thằng Hỉ nói thấy
ông cặp kè với
đào nhí trong quán nhảy
Phi Thuyền ở Sài Gòn tuần trước, thằng Tư thề
là cùng ngày đó thấy ông
đứng trước
khách sạn Radisson giữa Oslo. Cả hai thằng đều
cả quyết mình không thể
nhầm người được,
cả hai cùng thấy một người phì nộn
đội mũ
phớt, đeo kính râm và hút tẩu.
"Tuyết Anh đâu?" ông Jon hỏi. Nghe giọng
hơi xấc, tôi không trả
lời, chỉ hất hàm
sang chuồng bên, nói to:
"Em
nghe rồi đấy
nhá!"
"Nghe.
Tôi ra ngay!" Tuyết
nói.
Tuyết vạch màn đi ra. Áo
lông gấu đen, giầy ủng
đen, lộng lẫy.
"Đi luật sư lo việc tị nạn!" ông nói với Tuyết, nhưng tôi có cảm
giác ông phân trần
với tôi. Việc đéo
gì phải phân trần, tôi
nghĩ thầm trong đầu.
Tuyết không nhìn tôi, ưỡn ngực theo ông Jon xuống lầu,
để lại
cho tôi mùi nước hoa. Tôi bất bình,
đồng thời
cảm thấy mình bất xứng,
bất lực. Tối, tôi tới Viện
tắm hơi Alibaba ở số 3427C đường
Tronheim chở về một con Thái-lan để giải tỏa ba cái 'bất' kia, và cái mùi nước hoa của
con Tuyết. Một đêm bay hết
'tiền chợ' của tôi, hết luôn
mấy trăm lẻ tụi nó
giao tôi đi mua hai chục cái 'Norgespakken'. Cái thùng giấy
có cái tên rất hách đó — 'Hộp Na-uy', đúng là siêu kỹ, bên Thụy-điển không có, chỉ
có Bưu điện Na-uy biết chế ra, khoe rằng rất bền chắc, rất tiện lợi, lại in tem sẵn, nhét bao nhiêu tùy ý,
đừng quá mười
kilô. Nhưng còn một điểm tinh vi mà chính người
sáng chế cũng không
biết hay không ngờ: nó
cản được
mắt thần; hàng hóa để bên trong, máy
rà ở quầy
tính tiền và cửa
ra không phát hiện được. Tuy chưa được
đăng ký
bằng sáng chế, thật
sự người đầu
tiên trên thế giới
khám phá ra khả năng
tuyệt vời của cái Norgespakken là lão chú
con Nam. Lão bán bản quyền
sản phẩm trí tuệ cho chúng tôi với ba chục ngàn kroner, theo giá tình nghĩa
với con cháu. Đáng
tiền, bởi vì việc đi
chợ từ đó trở nên vô cùng giản đơn, chỉ hai lần đã đủ vốn. Trước
kia chúng tôi bị bắt
lia chia, từ ngày có cái thùng, trong vòng ba tháng chỉ
bị bắt bốn lần. Tất nhiên, mấy thằng
gác cửa hiệu bắt, giao cho cảnh sát, cảnh sát
giải về bót, hỏi
mấy câu vớ vẩn
rồi lại thả.
Phiên họp trong chuồng đực.
Thằng Tư cằn nhằn
tôi trong lúc cả bọn
hút cần sa, cuối cùng nó vẫn
thảy cho tôi năm trăm.
"Đi mua thùng đi, đồ con khỉ!" nó nói. "Mua ở
hai ba nơi khác nhau ấy, bị
để ý
rồi đấy."
"Đéo! Để
ý thì làm đéo gì?" con Nam sủa.
Nó cà lăm,
nhưng lạ lắm, hễ
đệm 'đ.'
vào thì bớt
cà lăm. Tôi
nhìn nhanh con Tuyết đang ngồi
ôm cái gối
đen in hình chữ thọ
vàng của tôi. Nó không hút.
"Câm
mồm!" thằng Tư quát con Nam.
"Cũng phải biết để
đề phòng,"
Tôi trầm giọng. "Mày nói đi, Tư!"
"Hừ, Long Trảo thấy mình bắt đầu khấm khá, đã nhắn
khéo đòi bảo vệ.
Lại còn báo chí nữa, nó đăng
rầm lên rồi. Chúng
mày đéo chịu
đọc báo
gì cả." Cả
bọn cười hô hố.
"Mày
làm như mày biết đọc báo," thằng Hỉ nói.
"Thôi,
không nói linh tinh nữa,"
Tư vo tròn. "Đánh
vài lần nữa, đủ
tiền về Việt Nam mỗi đứa
cưới con vợ, rồi tạm nghỉ."
"Tao
cưới vợ Việt Nam ra tiền, chứ đời
nào lại tốn tiền!" thằng Long thêm.
"Nhất là tiền mồ
hôi nước mắt," thằng Hỉ nhất trí.
Hôm nay
Thằng Tư và con Nam, hai đứa có tay nghề cao, đi 'siêu thị'.
Còn tôi, Tuyết và
thằng Hỉ chơi đồ
tầm thường như dao cạo râu Gillette, son phấn Max Factor, nước hoa Elisabeth Eden, bút chì kẻ
lông mày Mascaca, dầu cá do Na-uy chế tạo. Được
bao nhiêu, tôi lại chở
đi giao cho 'chị Năm', bao nhiêu mụ
cũng cân tất. Mụ
làm gì với
những thứ đó, quả
tình tôi không biết.
Con Tuyết và thằng Hỉ vào tiệm,
thằng Hỉ đứng
một chỗ với cái
thùng, con Thuyết đi lượm
đồ chất
vào thùng, lưng thùng
thì thằng Hỉ lấy một
xấp băng vệ sinh 'siêu mỏng siêu
thấm' (tôi học được câu quảng cáo
trong đài Việt Nam) phủ lên trên,
hai đứa cùng ra quầy tính
tiền. Trong khi con
Tuyết móc tiền, thằng
Hỉ làm bộ hổ
thẹn vì phải dính
tới cái đồ
đàn bà con gái, nói ấm ớ tiếng
Thụy-điển
"Ba cái…" và chỉ
vào xấp băng vệ sinh nằm trên, con ngồi két
thấy chỉ có một
xấp mà khách hàng
nói ba thì tin là khách
quá thành thật, không
mở thùng ra coi, hoan hỉ tính tiền
ba xấp băng, Tuyết trả tiền, hai 'vợ chồng' ung dung ra xe ôtô tôi chờ sẵn. Còi
báo động
ngủ im thin thít.
Nhưng tôi vừa mở
máy xe thì một
xe cảnh sát lao tới chận
ngay trước đầu
xe tôi. Bị bắt là
chuyện thường, nhưng lần này Hiệp hội
nhà buôn đã nhân
danh ba mươi tám cửa hàng
tố cáo một tổ
chức ăn cắp làm thiệt hại
hàng triệu bạc của họ. Khi mụ thông dịch đọc cho tôi nghe lời tố
cáo đó, tôi
thấy mình oan vô
cùng.
"Làm
gì nhiều như thế!" tôi nói.
"Vậy là bao nhiêu?" thằng
cảnh sát hoạnh lại.
"Đéo biết
bao nhiêu," tôi nói với
mụ thông dịch. "Chị
dịch lại cho nó nghe như thế,
nhá."
Ra tòa, cảnh sát cóc tìm được
bằng chứng về những vụ trước, nên thằng cha chánh án chỉ phạt
mỗi đứa
15 ngày tù hoặc phạt
vạ 5000 kroner, muốn chọn đàng nào
thì chọn. Chúng tôi chọn
trả tiền thay vì ngồi tù.
Xong, nó tống chúng tôi lên xe
bít bùng chở về
Thụy-điển.
Trừ con Tuyết.
Tôi đổi ôtô, quay
lại Na-uy, âm thầm, không
cho mấy đứa
bạn biết. Không phải để đi chợ,
mà đi tìm
con Tuyết. Thú thật: tôi
thích nó mất
rồi.
Mobil của nó đóng, sáng
trưa chiều tối, lúc nào cũng
phát ra một câu đáng ghét
'Điện thoại tắt hoặc ở ngoài
tầm.' Ngoài tầm, hai chữ đó tôi
nghe thường, nhưng bây giờ cảm thấy
đau xót. Nó không còn ở
nhà ông Jon ở
Toeyen nữa, không ở trại
tầm trú Tanum, không ở trại
tầm trú Gardermoen, không ở nhà
chính của ông Jon ở
Vika. Vậy nó đã bị
trả về Đức rồi.
Nó ở ngoài
tầm. Tôi buồn bã
tới nhà tắm
hơi tìm con Thái điệu nghệ hôm trước,
tên Lili.
"Lili
bận, mày chờ được không?" mụ cai gà béo trả
lời.
"Chờ bao lâu?" tôi hỏi và
thả người xuống sopha, làm như sẵn
sàng chờ bao lâu cũng được. Ở Oslo này tôi không
có nơi nào
để về;
bên Thụy-điển,
xã hội đã
đòi lại căn hộ vì tôi không chịu
bán ôtô để
trả tiền nhà.
Mụ béo mở
sổ hẹn coi, có điện
thoại reo, mụ trả lời vắn
tắt. Xong quay lại với cuốn sổ to như cuốn sổ hẹn bác
sĩ, trả lời:
"Có
thể khuya ạ!"
Tôi không
trả lời, ngoảnh mặt ra cửa sổ có treo cái
đèn ông sao. Qua cửa
kính tôi thấy cây thông hình
chóp ở sân sau lấp
ló đèn xanh đỏ trong tuyết. Tôi biết sắp
tới lễ Giáng Sinh. Tôi nghiêng đầu nhìn thấy một
khoảnh trời đen kịt.
Tôi nhìn đồng
hồ, mới ba giờ chiều. Giáng Sinh, thiên hạ lại
sắp lên cơn sốt.
Phần tôi rất dửng
dưng. Tôi chỉ cảm thấy
hơi nhớ cô giáo
Anita, người đã tặng tôi
cái mũ len đan tay mầu nâu,
"Để hợp với mắt Con", cô nói. Còn
gia đình nuôi, tôi nửa
nhớ nửa giận. Đã ba bốn
Giáng Sinh tôi không trở
về gia đình đó, không
biết con Linda lớn tới đâu. Tôi
hay bóp vú nó, nó không chống cự, nhưng một lần tôi bóp nó ở bờ suối,
bố mẹ nuôi bắt gặp,
đuổi tôi.
Tôi vào nhà tập
thể ở chung với bọn Tây con, Tây con cũng
không chơi với tôi. Đủ mười
tám tuổi, tôi đòi xã hội cho ra ở riêng. Nhưng ở
riêng tôi càng thấy
cô độc
hơn. Người Việt gốc Hoa không chơi với
tôi, người Sài Gòn cũng
không chơi với tôi.
Tôi ra
ngoài, đứng dưới cây thông châm điếu
cần sa. Sương đặc,
tôi thấy mình như con gà bị
vặt lông chưa cắt
tiết, đứng
trong cái tủ lạnh đang
bốc hàn khí, xung quanh là
bốn bức tường cao, cửa sổ đèn mờ,
mà tôi tưởng
tượng thành những ngăn
tủ đựng
cà chua thối, trứng gà thối, xà-lách thối,
phô-mai mốc. Hút xong điếu
thuốc, tôi mất hứng,
định đi
ra.
Đi sao? Chơi đỡ
con kia được không? Tôi đoán mụ béo
nói vậy khi mụ hất hàm
theo một đứa
con gái đang đi lên cầu thang. Mụ nói tiếp
cái gì đó, tôi bắt được
hai chữ 'Thái-lan.'
Nhìn cái
áo lông gấu đen, tôi nghĩ
tới con Tuyết, vội vàng nói:
"Ok,
ok…"
Đứa con gái quay lại —
Á đông, nhưng
không phải Tuyết! Nhưng đã lỡ, tôi
bước lại cầu thang, tính theo lên lầu.
Nhưng nó nhìn tôi từ đầu
tới chân, lắc đầu nói gì đó với mụ béo mà tôi hiểu là
nó từ chối đi với
tôi. Qua ánh mắt hai con đàn bà, tôi đọc
thấy sự khinh thị. Nói xong con đĩ
quay đi, không thèm nhìn tôi. Máu nóng
trào lên đầu,
tôi rút con dao bấm, bật lưỡi ra, chĩa vào con điếm
đứng trên
cao.
"Địt mẹ! Đĩ mà
đòi khinh người hử?" tôi quát. Bằng tiếng
Việt.
Con điếm thối dừng bước và quay lại, ngơ
ngác. Con mụ béo há hốc mồm. Con điếm
đứng trên
cầu thang, trông càng cao hơn,
như một con gấu đen. Tôi ước có thể san bằng
những bậc thang, để
con điếm lăn xuống, nằm dưới chân tôi, rên rỉ. Tôi bước lên,
vẫn chĩa mũi dao về phía trước. Tiếng
quát tháo từ họng
tôi tuôn ra tự nhiên
bằng tiếng Việt trơn tru. Còn bốn năm
bậc nữa thì nó quay đầu chạy, hô cầu
cứu. Một thằng bảo vệ khệnh khạng đi ra, đá bay con dao trên
tay tôi, và khóa tay tôi
lại. Mấy phút sau có còi hụ xe cảnh sát.
Đồng hồ đã bị
tịch thu, cùng với con dao và cái bóp, tôi không
biết mấy giờ. Tôi nằm trên
đệm trải
thẳng trên sàn ximăng,
số tôi nằm đệm nhiều hơn nằm giường. Tự nhiên tôi muốn
tự tử. Tôi tự tử
để cho mấy
thằng cảnh sát mang tội đối xử thô bạo
với tôi, cho mụ mập
và con điếm
mang tội kinh rẻ tôi, cho báo
chí loan ầm lên rằng tôi
bị ức hiếp. Tôi nhìn lên trần xà lim cao và bốn
bức tường xi măng phẳng lì, không có một cái đà, cái móc để
treo dây thòng lọng. Lao đầu
vào cái cửa sắt
sẽ rất đau đớn mà chưa chắc
chết, lại thành trò cười
cho chúng nó — hóa ra
cả đời
tôi làm trò cười!
Có nên viết
một lá thư tuyệt
mệnh không? Hiện giờ
trên mình không có bút giấy, tôi
có thể đập
cửa xin con mẹ gác; tôi cũng có thể viết
bằng máu lên tường.
Nhưng tôi sẽ viết
gì? Tôi đọc
những chữ viết sẵn trên tường của
những thằng tù… tiền nhiệm,
hiểu được
một chữ: ĐỊT! Có
lẽ tôi cũng sẽ
viết chữ đó — vắn tắt, đầy
đủ. Nhưng,
như những thư tuyệt mệnh thê thảm khác,
tôi cũng phải nhắn nhủ thế nhân điều
gì. Câu trước tiên tôi nghĩ
tới là 'Ở
đời đừng bao giờ hất hủi
ai.' Câu này có yếu
đuối không?
Không. Khi nó đi kèm với cái chết thì
không thể gọi là
yếu đuối
được. Dù
sao nó không ổn với
tôi, vì nó tố
cáo tôi mang chút mặc
cảm. Tôi nghĩ ra rồi,
một câu không mặc
cảm mà oai hơn, đó
là 'Không ai có quyền
xét xử tôi!' Lâu
lắm tôi không đọc sách, cuốn sách
cuối cùng tôi đọc là cuốn học
bạ, tôi đọc
khi còn ở với gia đình nuôi,
nhưng tôi đọc
có một trang thì bỏ,
vì viết dở quá; bởi vậy,
ai nói cái câu khí phách kia, tôi quên mất; nhưng hôm nay viết vào
thư tuyệt mệnh thì rất
hợp. Tôi tưởng tượng
trưa thứ hai, khi thằng chánh án ngồi
chễm chệ trên ghế giữa
tòa, bên dưới, tay phải
là thằng kiểm sát đằng
đằng sát
khí, bên phải là
con mẹ luật sư vô tích sự, chờ mãi không thấy
tôi, cuối cùng thằng gác
tù hoảng hốt chạy vào báo cáo
"Thằng bị cáo chết
rồi!" Thằng chánh án nện
búa tuyên bố "Trắng
án!"
"Ngạt quá!" tiếng rên từ phòng
giam bên cạnh. Tôi lắng tai chờ
đợi xem có phải
mình nghe tiếng người hay chỉ tiếng rít của bản
lề, tiếng dội cầu xí, hay tiếng tưởng
tượng. Tôi nghe tiếng rên
tiếp:
"Ngạt quá! Hãm lại,
cho tôi ra ngoài…" Tiếng
thét đàn bà, bằng
tiếng Việt. Tôi đập
rầm rầm vào cửa phòng
giam, tôi định
hô to 'Có người chết
ngạt! Mở cửa mau!" nhưng tôi
không biết 'chết ngạt' tiếng Thụy-điển
là gì, huống
hồ tiếng Na-uy. Thay cho ngôn ngữ, tôi
tiếp tục đập
mạnh vào cánh cửa
sắt để
gọi lính gác. Nhưng
cửa sắt dầy quá, tôi đập tới rát bàn tay mà
chỉ nghe tiếng bèn bẹt. Kết
quả, chỉ có tiếng
cằn nhằn từ buồng đối
diện của một
thằng bị
nhốt cùng một lúc
với tôi, thằng Na-uy mặt
mày sưng vêu, chắc là
đánh lộn. Tiếng rên cũng im luôn.
"Ai
bên đó đấy?" tôi lên tiếng.
Gọi ba lần, mỗi lần lớn hơn, cuối cùng bên đấy hỏi lại:
"Ai
đấy?"
"Việt Nam!" tôi đáp.
"Đây cũng
Việt Nam."
"Nghe
đằng ấy than bị ngạt. Ngạt thở?"
"Có
than à?"
"Nghe
đằng ấy rên."
"Thật à! Có rên… rên to
thế cơ à?"
"Ừ… Này,
nghe giọng quen quen… Có phải
Tuyết Anh đấy
không?"
"Cổn, phải không?"
"Cổn đây," tôi
vui mừng đáp. "Không rủ mà
vào đây cả
lút. Bên đấy
ngạt à?"
"Anh
nói em mới để
ý, trong này hơi ngột
ngạt. Nhưng em không rên đâu,
chắc em nằm mơ đấy."
"Mơ cái gì?"
"Ác
mộng…"
"Kể lại nghe."
"Thôi."
"Em
nói gì? Nói to lên tí nữa.
"
"Em
nói thôi, không kể
làm gì nữa."
"Cứ kể cho anh nghe! Trong này toàn Tây cả, có ma nào hiểu
mình nói gì đâu mà sợ
nào."
Tuyết ho, tôi xót ruột.
Ho xong, nó nói:
"Em
mơ còn nằm trong cái xe thùng
chở em sang đây. Đứa con gái nằm
ngay bên cạnh em chết ngạt."
"Chết!?"
"Chết. Bị nhốt trong thùng xe hai ngày hai đêm. Khi bọn
đầu gấu
mở cửa xe ra, thấy bốn người chết từ bao giờ. Con ấy thân với em nhất.
Chúng em đã từng chia phiên nhau kề
mũi vào cái lỗ
nhỏ để
thở. Thương hại nó hay nhường cho em thở
lâu hơn. Dọc đường
nó cứ đòi
về, không muốn đi
nữa. Nhưng em biết về thế nào được với bọn đường
dây. Nó mà sống
sót cũng bị đường
giây hành tới chết
về cái tội đòi
về… Anh có nghe không
đấy?"
"Nghe
rõ cả."
"Nó
nói khổ đều
quanh năm chịu được,
dồn vào một ngày
thì chết. Anh nghĩ có đúng không?"
"Chắc đúng."
"Mẹ nó bán ruộng, bán vườn để chung tiền cho nó đi, cứ
mong nó mang đôla về chuộc
đất, xây
nhà như những người có thân nhân
Việt kiều. Bây giờ nó
chết, chưa kịp nhìn thấy tờ
đôla xanh. Trước khi chết nó tựa
vai em lầm bầm 'Mẹ ơi! Con không muốn
làm Việt kiều. Con muốn về nhà. Con muốn cơ
cực ở nhà với
mẹ suốt đời.'
Giọng nó như đứa trẻ con ba tuổi."
"Cô ấy mấy tuổi?"
"Tuổi rơm, ai hỏi làm gì!"
"Còn
em? Em có muốn về không?"
"Không,
thà chết!" Tuyết nói không do dự.
Chắc nó đã cân nhắc kỹ rồi.
"Nhất trí!" tôi nói, hồ hởi.
Tôi không
hiểu tại sao tôi lại hồ
hởi như thế. Mươi phút sau, bọn gác
gác tù mang nó đi đâu, tôi không
biết. Nó không trở
lại.
Tôi bị phạt tù ba mươi mốt
ngày về tội mang vũ
khí và toan hành hung. Trừ
chín ngày tạm giam, tôi chỉ
còn phải ngồi tù ba tuần, ở
một nhà tù khác, cũng gần bót cảnh sát.
Ra tù tôi bị giải
thẳng về Thụy-điển.
Như cóc bỏ đĩa, ba hôm sau tôi lại
sang Na-uy tìm Tuyết. Tôi hy vọng nó
vẫn kiên định
lập trường hôm trước 'thà chết
không về.' Tôi cố tìm
nó trước khi nó đổi
ý hoặc có
tai ương gì xảy
ra cho nó. Cũng mất hơn một tháng tôi mới
truy ra nó đang ngồi trong nhà tù nữ ở Rdvedt. Vì nó khai
tứ cố vô thân,
không ai được
phép thăm nó. Vì vậy
tôi phải giả mục sư
đi thăm tù. Đó là một
ngày sau lễ Nôen, mặt
trời xuống thấp, chiếu thẳng vào mặt, lái
xe cứ như là đâm vào những mũi
tên lửa, không nhìn thấy
xe ngược chiều. Một ngày thứ tư,
ngày thăm tù thường xuyên của
các thượng tọa Phật giáo, mục sư
Tin lành, linh mục Công giáo, giáo
sĩ Hồi giáo. Tôi bảo
là điều
may, vì cảnh sát không hỏi
linh tinh gì cả. May
nữa là những năm
ở trong gia đình nuôi, tôi đã học được cách cầm và
mở Thánh Kinh. Nhưng cái không may là
tôi gặp một bà Việt Nam trong phòng đợi.
"Chào
cha," bà cung kính, "cha cũng
đi thăm tù ạ?"
"Chào
bà," tôi đáp, và tự
nhủ chớ có văng
tục. Trong đời
cũng phải có một
ngày ăn nói lịch sự
văn minh.
"Con
là xơ, thưa cha," bà đáp.
"Đ… , xin lỗi,
con… tôi là mục
sư, không phải cha."
"Hân
hạnh gặp mục sư. Mục sư có biết
mục sư Trần Trung Trinh không?"
Chán thật, bố mẹ ruột
mà có người
còn không biết tên, huống hồ
ông Trần Trung Trinh trời ơi đất hỡi ở đâu
ấy, tôi nghĩ trong đầu,
nhưng miệng nói bừa:
"Có
biết sơ, nhưng chúng tôi không
quan hệ nhiều. Tôi ở… Phần Lan sang. Còn ma xơ
có biết giáo hoàng Giăng
Bôn không ạ?"
"Dạ, Ngài qua đời
rồi!" Mặt bà xơ
xịu xuống, không biết bà
buồn thương vị giáo hoàng quá cố hay thất vọng vì tôi. Nếu
bà thất vọng, tôi phải làm
cho bà biết tôi không đến nỗi tệ lắm, tôi
nói:
"Ngài
Giăng Bôn Hai qua đời
rồi, tôi biết chứ,
xơ. Người tôi muốn nói
đây là vị
giáo hoàng mới, ngài Giăng Bôn
Ba ấy…" Sau này tôi mới
biết lẽ ra tôi không nên
khoe khoang nhiều quá về
kiến thức tôn giáo của
tôi.
Cũng may, cuộc giao lưu tôn giáo sắp
tới hồi cuồng lưu thì một
mụ gác tù mở
cửa vào, hỏi chuyện
bà xơ, chắc
hỏi đi thăm ai. Nhân tiện,
tôi nhờ bà xơ
thông dịch giùm tôi đi thăm một nữ tù nhân tên Tuyết Anh. Bà xơ
giúp tôi xong, chợt nhớ ra điều
gì, tươi cười nói:
"Không
biết lát nữa có
gặp lại nhau không, xin chúc mừng năm
mới mục sư!"
Tuyết mặc cái áo len cao cổ,
dầy, màu tím rịm,
váy trắng có thêu ren ở
gấu, dài tới gót
chân. Nó gầy,
hai mắt quầng thâm, ngước lên
nhìn tôi. Nó cao hơn
tôi, muốn tạo ra cái vẻ ngước
lên đó, nó phải cong lưng xuống, tay chống cằm. Nó cố
ý làm như
vậy, hay tự nhiên như thế,
tôi đều
thấy là thanh cao và tôi biết ơn.
"Chúc
mừng năm mới Tuyết Anh!" tôi nói.
"Tết rồi hả anh? Em không biết! Hôm
nay mùng mấy, anh?"
"Anh
cũng không biết nữa.
Ban nãy gặp một bà xơ
Việt Nam ngoài phòng đợi, bà ấy
chúc Tết, nên anh đoán hôm nay Tết ta. Thảo
nào, tiệm Việt Nam có bán bánh chưng, anh lại tưởng họ gói bánh
chưng quanh năm, không ngờ ngày
Tết. Không Mồng Một
thì ngày Rằm."
"Vậy em mừng tuổi anh," Tuyết nói, chắp hai bàn tay kẹp
vào đùi như
một đứa
trẻ lễ phép. Cái lưng
dài vẫn cong, như cổ con nai uống
nước.
"Ở cổng nó giữ
cái ví tiền với
cái điện
thoại, không thì bây giờ anh có thể lì-xì tiền mừng
tuổi cho em…"
"Anh
không cần mừng tuổi em. Anh tới thăm em, nhắc em ngày Tết là
quí rồi, anh ạ."
Tuyết càng dịu dàng,
tôi càng lo âu. Biết
đâu lần sau tới đây không
thấy Tuyết nữa. Đã ngoài tầm.
"Tình
trạng em bây giờ ra sao?" tôi hỏi.
"Em
sẽ bị trả về Đức."
"Cái
đó anh biết rồi."
"Nhưng Đức chưa xác nhận."
"Nếu Đức không
xác nhận thì sao, có bị
trả về Việt Nam không?"
Tôi
hy vọng Tuyết được
ở lại Na-uy. Đêm qua, trong lúc tuyết
đổ trắng
xóa trời đất,
tôi nghĩ tôi có thể xin cưới Tuyết và bảo
lãnh cho nó vào Thụy-điển.
Cùng lắm là tôi ước
hẹn với Tuyết, để
nó về Việt
Nam, rồi tôi làm thủ
tục kết hôn và đoàn tụ sau. Chúng tôi sẽ lập lại
cuộc đời,
sẽ sống lương thiện bên nhau. Tại sao tôi lấy
Tuyết mà không về
Việt Nam lấy vợ như thằng Tư, thằng Hỉ, cho giản tiện? Đó là vì tôi muốn
được sống
thật. Tôi muốn lập
lại cuộc đời
với một người cũng có quá khứ
đen tối như tôi, biết
tôi bê bối
chừng nào, từng nhìn
tôi ăn cắp
vặt, thấy tôi nằm dưới đáy xã hội.
Tôi không cần nói
dối có bằng
kỹ sư, phó tiến sĩ.
Không cần đóng kịch
mục sư.
"Họ không trả em về
Việt Nam được
đâu," Tuyết nói. "Em không được
ở Đức thì cũng
được ở
Na-uy." Nó đặt
tay lên bụng: "Tùy theo cái thai này
của ai…"
Câu trả lời của
Tuyết làm cho tôi lạnh
người từ đầu
tới chân. Thế là
người rơm cũng ngoài tầm tôi.
Bên ngoài
nhà tù, nắng phản chiếu trên tuyết sáng
lòa, lạnh ngắt. Tôi bơ vơ
nheo mắt nhìn quanh. Ngọn tháp nhà thờ
gần đó nhắc tôi
nhớ tới một nơi nào, rất xa. Tôi cứ
đứng yên
lục lọi ký ức.
Bỗng nhớ ra ngôi trường trung học
ở Uppsala, nơi tôi học hành
chẳng ra gì, một ngày
mùa đông đầy nắng, cô Anita nói với
tôi trong giờ chơi "Con ơi! Hôm nay là Tết
Việt Nam, cô chúc mừng
Con." Cô không đọc
được tên
Cổn của tôi, nhưng tôi
thích nghe cái chữ không
bỏ dấu của cô trong một buổi
sáng nắng thấp. Cô là người
đã khóc khi tôi báo
tin bỏ học.
Tôi quyết định
trở về Uppsala gặp cô Anita. Rồi tính
sau.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét