Thứ Năm, 22 tháng 2, 2018
Phạm Phú Minh: Các ý nghĩ từ một buổi sinh hoạt văn học
(Bài dưới đây nguyên là bài
nói chuyện của tác giả tại buổi sinh hoạt văn học của Viện Việt Học, vào ngày
28 tháng 9, 2014. Bài nói sau đó đã được bổ sung thêm một số tài liệu nhằm minh
họa thêm cho chủ đề đã được trình bày.)
Buổi sinh hoạt hôm nay của
Viện Việt Học tuy có hai chủ đề khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một. Chủ đề
thứ nhất là giới thiệu một công tác quan trọng của Thư viện Viện Việt Học, đó
là việc số hóa các sách bản gốc của Tự Lực Văn Đoàn và đưa lên Online của Thư
viện để mọi người có thể sử dụng. Chủ đề thứ hai là ra mắt cuốn Kỷ Yếu của cuộc
triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn tổ chức
tháng 7 năm ngoái, mãi đến bây giờ mới in xong. Rõ ràng là hai chủ đề này rất gần
gũi nhau, có thể nói có cùng một bản chất, ấy là sự cố gắng sưu tầm, khôi phục,
và phổ biến để gìn giữ những cái vốn quý giá của một mảng văn học Việt Nam của
thế kỷ 20, mà qua nhiều năm tháng và biến cố chính trị, có nguy cơ bị hư hoại hoặc
bị biến đổi để trở thành dị dạng.
Trước hết tôi xin phép nói
về các nguy cơ, trước hết là sự hủy hoại của thời gian, và thứ hai, sự hủy hoại
của chế độ chính trị đối với báo Phong Hóa Ngày Nay và tác phẩm TLVĐ.
Như chúng ta đều biết, số
báo Phong Hóa đầu tiên do Nhất Linh điều khiển ra đời vào ngày 22 tháng 9 năm
1932, cách đây đúng 82 năm. Và trong vòng một thập niên từ ngày đó, nhóm TLVĐ
tiếp tục xuất bản hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay, đồng thời dựng nhà xuất bản
Đời Nay để ấn hành sách của các thành viên và một số tác phẩm giá trị của người
ngoài nhóm. Nói chung, sách hay báo thời đó cho đến ngày nay đều đã trở thành
những thứ “xưa nay hiếm”, vì đã quá cũ. Nhưng sách thì vào các thời kỳ sau vẫn
được tái bản nhiều đợt, riêng báo thì dĩ nhiên không bao giờ được in lại, chỉ
được gìn giữ trong các thư viện tư gia hay công cộng. Trong một xứ nhiệt đới ẩm
thấp như Việt Nam, sự hủy hoại báo giấy đến rất nhanh. Một số thư viện tại Việt
Nam và trên thế giới trước đây đã chụp micro film để lưu giữ các số báo PHNN,
nhưng với một phẩm chất không mấy tốt. Cho mãi đến vài ba năm gần đây, một nhóm
người ở California mới cùng nhau cố gắng dùng phương tiện điện tử hiện đại để
“số hóa”, tức scan, chụp hình lại từng trang báo, coi như vĩnh viễn cứu vớt
toàn bộ báo PHNN ra khỏi họa diệt vong.
Bây giờ đến cái họa thứ
hai, do con người gây ra đối với sách TLVĐ. Như chúng tôi vừa nói, sách TLVĐ
nguyên thủy được xuất bản trong thập niên 1930 và kéo dài đến năm 1945. Khi chiến
tranh với Pháp bùng nổ sách này được dần dần in lại tại các thành thị, đặc biệt
từ đầu thập niên 1950 với nhà xuất bản Phượng Giang tại Sài Gòn, được chính nhà
văn Nhất Linh coi sóc việc tái bản. Cho đến năm 1975, các sách TLVĐ được tái bản
ở miền Nam trên tổng thể coi như trung thành với nguyên bản của nhà xuất bản Đời
Nay, có thể tin cậy được.
Riêng đối với chế độ cộng sản
thì ngay trong cuộc chiến 9 năm với Pháp, từ năm 1950 đã có lệnh cấm đoán các
tác phẩm TLVĐ. Sau 1954 tại miền Bắc không những cấm đoán, mà các nhà lý luận
văn học còn ra sức công kích, hạ thấp, bôi nhọ giá trị của văn đoàn này. Hoàn
toàn không có việc dạy tác phẩm TLVĐ trong trường học, sách TLVĐ bị coi là thứ
phản động, bị cấm trong xã hội. Nhiều người không hề biết TLVĐ là cái gì, tên của
một số các tác giả TLVĐ không theo cộng sản trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội,
dù đó là những nhà văn có thực tài. Từ 1975, dù sách TLVĐ không bị đốt ở miền
Nam nhưng vẫn không được tái bản, cho mãi đến khi “đổi mới” từ 1986 trở về sau.
Từ khoảng đầu thập niên 1990 chúng ta chứng kiến việc nở rộ việc in sách TLVĐ
trở lại, từ những nhà xuất bản của trung ương hay các thành phố lớn cho đến các
nhà xuất bản tỉnh lẻ đều đua nhau in lại sách TLVĐ. Nhưng thoạt đầu ít ai biết
được việc tái bản ồ ạt sách TLVĐ chính là một nguy cơ phá hoại sách TLVĐ, nguy
cơ này được khám phá ra từ từ, và cho đến ngày hôm nay được ý thức như là mối họa
đối với nền văn học Việt Nam. Sau đây là trích đoạn thư của ông Nguyễn Huệ Chi,
một nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam gửi cho tôi về vấn đề này:
Nhà văn
Trúc Chi kể cho tôi nghe một câu chuyện lý thú nhưng đáng rơi nước mắt. Một số
năm trước đây nhà văn về thăm Hà Nội, một buổi dạo chơi bờ hồ Hoàn Kiếm, ghé
vào một hiệu sách mua cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng mà ông rất thích thời
trẻ tuổi. Mang về khách sạn đọc, ông tìm mãi không thấy đoạn tả cảnh chùa Long
Giáng mà ngày xưa ông rất mê, đọc hết cuốn sách cũng không thấy đoạn ấy ở đâu,
cuối cùng phải kết luận là đoạn ấy đã bị cắt bỏ. Vì sao mà cắt bỏ, ai có quyền
cắt bỏ thì ông không thể nào biết được.
Năm ngoái
trong cuộc hội thảo về TLVĐ do chúng tôi tổ chức tại báo Người Việt, cô Tanaka
Aki trong phần phát biểu của mình, đã kể rằng trong chương trình học văn học Việt
Nam tại đại học Tokyo, cô đã được giáo sư Kawagichi giao cho dịch một phần cuốn
Đời Mưa Gió của Khái Hưng và Nhất Linh sang tiếng Nhật, và cô đã khám phá ra có
sự khác biệt giữa ấn bản mới mà cô mua tại Sài Gòn do Hội Nhà văn xuất bản năm
2010 khi so với ấn bản do nhà xuất bản Đời Nay in trước năm 1975. Và sau đó cô
phải vứt bỏ cuốn do Hội Nhà văn xuất bản để chỉ dùng cuốn của Đời Nay.
Thêm một
trường hợp phải vứt bỏ khác do nhà văn Ngự Thuyết, người thuyết trình về cuốn Hồn
Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng trong hội thảo năm ngoái kể trong một email gửi
chúng tôi:
Khi soạn về Khái Hưng tôi có đọc cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên
in ở VN, có nhiều chỗ sai, nên tôi không dùng cuốn ấy nữa, phải mua
một cuốn khác tại nhà sách Tự Lực, và vất cuốn cũ.
Nói chung, trong hiện tại,
khi in lại sách TLVĐ các nhà xuất bản ở Việt Nam không để nguyên vẹn một cuốn
nào cả. Có tình trạng này là do các nhà xuất bản phải lo “tự kiểm duyệt”, hễ thấy
có chữ nào, câu nào có thể bị cấp trên của ngành văn hóa không hài lòng thì cứ
tự tiện cắt bỏ trước, như thế cho chắc ăn hầu tránh khỏi lệnh tịch thu sách có
thể được ban ra bất cứ lúc nào, khiến vốn liếng bỏ vào việc in sách một sớm một
chiều biến ra mây khói.
Nhưng sách TLVĐ không phải
là loại sách duy nhất bị cắt xén, sửa đổi. Nhiều sách khác cũng chịu cùng số phận.
Một số sách của miền Nam trước 1975 được in lại cũng bị cắt xén sửa chữa, như
trong email trước của nhà nghiên cứu trong nước đã đề cập đến: Tuấn
chàng trai nước Việt của Nguyễn Vỹ, hồi ký của Nguyễn Hiến Lê. Hoặc
bài Thụy Khuê phỏng vấn Hoàng Xuân Hãn cho đài RFI, sau đó đăng trên tạp chí Hợp
Lưu thì đã được trong nước in lại trong cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn trong
64 trang (từ trang 422 đến trang 486) với tình trạng như sau do Thụy Khuê viết
lại trong lời nói đầu cuốn Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn và
Tạ Trọng Hiệp do Văn Nghệ (California) xuất bản:
Về văn bản in lại trong tập La
Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập I, Con Người Và Trước Tác (phần I) (nhà
xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1998) do Hữu Ngọc và Nguyễn Ðức Hiền biên soạn; để
bài phỏng vấn Hoàng Xuân Hãn có thể in được ở Việt Nam, chúng tôi đồng ý với
yêu cầu của ban biên tập (4) là có thể cắt bỏ một vài chữ, vài đoạn, với điều
kiện là phải để ngoặc [...] thay thế những đoạn hay những chữ bị cắt, và đề rõ
xuất xứ, nếu lấy trên Hợp Lưu, như vậy độc giả có thể tìm lại được bản gốc để
biết chỗ bị cắt.
Khi sách in ra, chúng
tôi thấy có một vài thay đổi: như tiểu tựa Hoàng Xuân Hãn, Chứng Nhân Lịch
Sử được đổi thành Những Cuộc Tiếp Xúc Khó Quên, có những
đoạn bị cắt, một vài câu thêm vào, những chữ Nôm để trống và không đề xuất xứ từ
Hợp Lưu, không in bài dẫn nhập với những dè dặt của chúng tôi... Do đó, trong lần
in này, chúng tôi sẽ chú thích để độc giả biết đoạn nào đã bị cắt trong La Sơn
Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, hoặc câu nào không có trong nguyên văn lời nói của Hoàng
Xuân Hãn.
Đây là ví dụ một đoạn lời
phát biểu của học giả Hoàng Xuân Hãn bị cắt và thêm thắt:
Được cái
người Pháp khinh địch, khinh mình, cho nên không dè họ thua. Nhưng đến lúc Điện
Biên Phủ, thì nói thực, lúc ấy không có súng ống tối tân không đời nào mà đánh
được Pháp. Pháp lúc ấy được Mỹ giúp ghê lắm rồi, về súng ống ghê rồi. Chỉ có
bom nguyên tử họ không giúp, hay là 100 máy bay họ không giúp một lần, họ chỉ
giúp lẻ tẻ thôi. Hồ Chí Minh, lúc ấy tụi
Tàu đặt vấn đề ra, nếu không theo nó, không nghe nó về mặt chính trị, nó không
cho súng ống thì cũng chết. Cho nên nó đưa những tụi cải cách ruộng đất ở bên Tầu
vừa xong, nó đưa sang, nó cầm một vài ông -gọi là Bộ Trưởng lúc ấy- những người
lúc ấy không phụ thuộc Hồ Chí Minh. Sự cải cách gọi là địa phương nhưng mà lên
đến huyện, lên đến tỉnh đã có người Tàu điều khiển cả rồi. Thành ông kia là phải
nuốt chuyện ấy để mà nó giúp cho súng ống[53]. Họ cũng biết là được Điện Biên Phủ thì mới có chuyện
gì, chứ thua Điện Biên Phủ thì lúc ấy thua hoàn toàn.
[53] Trong cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, sđd, đoạn gạch
dưới trên đây không những bị cắt bỏ, lại còn thêm câu: "Hồ Chí
Minh, lúc ấy đã phải dùng nhiều cách, và nhiều con đường: chính trị, ngoại giao
sáng suốt và mềm dẻo để có súng ống mà đánh Pháp."
Chúng ta có thể tự hỏi: những
người thực hiện cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn có phải là những người đang
làm công việc văn hóa hay không? Hay là đang làm công việc tuyên truyền cho đảng
cộng sản, làm công việc đánh bóng cho ông Hồ Chí Minh? Họ dùng bài phỏng vấn
Hoàng Xuân Hãn do một người khác thực hiện, và tự tiện gạch bỏ và viết lại theo
ý họ. Chúng tôi nghĩ, nếu thấy bài có điểm không vừa ý mình thì thôi, đừng dùng
đến, có ai bắt buộc phải dùng đâu? Hay là chỉ muốn dựa vào tên tuổi của Hoàng
Xuân Hãn để tuyên truyền mà làm công việc đáng sỉ nhục là gạch bỏ và sửa lời
nói của ông?
Nhưng Hoàng Xuân Hãn dù sao
cũng là người của thời nay. Người cộng sản sẵn sàng gạch bỏ tác phẩm của tổ
tiên từ nhiều thế kỷ trước nữa kìa! Câu chuyện này do ông Nguyễn Minh Cần kể lại
với tác giả bài này qua một bức thư:
Hồi những năm 60-70 thế
kỷ trước, Trường Chinh và Tố Hữu lúc đó phụ trách về tuyên huấn,
văn hóa, giáo dục... Các ông ấy cho rằng trong nguyên bản tờ Bình Ngô
Đại Cáo ở đoạn cuối, trước chữ " Than ôi !" có một câu
mà các ông cho là "duy tâm", " mê tín" quá là
câu "Thế là nhờ trời đất, tổ tông khôn thiêng che
chở, giúp đỡ cho nước ta vậy" (bản dịch của Trần Trọng
Kim), thế là các ông quyết định bỏ đi, mà mập mờ cho ba chấm vào
trước câu sau. Thế là những sách có in Bình Ngô Đại Cáo trong thời
đó đều bỏ câu đó đi, có khi họ quên để cả ba chấm nữa.
Hiện nay, tôi còn tìm
thấy trong tủ sách của tôi cuốn LỊCH SỬ VIỆT NAM (hồi đó coi là
cuốn sách lịch sử quan trọng nhất), ghi rõ "sách biên soạn dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam"
(tức là do các ông Trường Chinh và Tố Hữu duyệt
mới được cho in), xuất bản năm 1971, thì đúng là người
ta bỏ câu đó thật. *
Đến Bình Ngô Đại Cáo do một
đại anh hùng dân tộc là Nguyễn Trãi viết ra mà các ông Trường Chinh, Tố Hữu còn
dám thò tay vào gạch bỏ lời văn, thì trên đời này còn có cái gì mà người cộng sản
không dám bóp méo, xuyên tạc? Nghĩ đến một ngày kia khi không còn chế độ cộng sản
trên đất nước ta nữa, công việc thanh lọc trở lại những gì họ đã cố tình sửa đổi,
tô vẽ hay xóa đi trong các lãnh vực văn hóa như lịch sử, văn học, văn chương,
phong tục v.v... của nước ta sẽ là một công việc vô cùng khó khăn, phức tạp.
Công cuộc phá hoại văn hóa ấy của người cộng sản e rằng còn lớn lao nguy hiểm
hơn của một đạo quân xâm lăng từ nước ngoài, vì nó tinh vi, tỉ mỉ do chính người
Việt Nam thực hiện theo lời dạy bảo của một chủ thuyết mang từ xa về.
Chừng đó ví dụ cũng đủ cho
thấy là chế độ toàn trị của cộng sản không coi những giá trị gốc của dân tộc ra
cái gì cả. Họ chỉ nhằm tới một việc là làm lợi cho chế độ của họ, chỉ có cái đó
là có giá trị đối với họ, họ sẵn sàng thêm bớt sửa chữa các vốn văn hóa có trước
họ, không biết hổ thẹn, không cần nhân cách, danh dự gì cả. Và như thế, với tư
cách một nhà cầm quyền, họ đã phá hoại không biết bao nhiêu là sách vở tài liệu
bản gốc.
Người Việt Nam đi tị nạn cộng
sản trên thế giới có nhiệm vụ bảo tồn các di sản văn hóa của tiền nhân khỏi bị
tiêu tán hoặc bóp méo bởi các hành vi phi văn hóa của người cộng sản. Mỗi người
trong khả năng của mình, cố gắng sưu tầm, lưu giữ các di sản tìm được bằng các
phương tiện điện tử tân tiến, và phổ biến cho mọi người sử dụng miễn phí. Đó là
cách cứu lấy văn hóa nước nhà. Từ một thập niên qua cho đến hiện tại việc số
hóa toàn bộ báo Nam Phong, Phong Hóa-Ngày Nay, Tri Tân, Thanh Nghị, Tập san Sử
Địa, toàn bộ sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và nhiều tài liệu sách vở khác đã là
những ví dụ cụ thể. Dĩ nhiên hậu thế của dân tộc Việt Nam cần những bản gốc này
hơn là những sách vở tài liệu do đảng cộng sản sửa chữa, xuyên tạc, bóp méo cho
vừa riêng chủ thuyết của đảng mình. Di họa của việc làm gian dối này thì rất
nguy hiểm, gây nên những sai lệch mất mát khôn lường cho dân tộc trong hiện tại
và tương lai.
Sửa chữa xong vào giữa
tháng 11-2014.
Phạm Phú Minh
* Để rõ hơn
thái độ của giới sử gia tại Việt Nam hiện nay về chuyện Bình Ngô Đại Cáo này,
xin mời độc giả xem thêm phần Phụ lục sau đây, của cùng tác giả bài trên.
Một
điểm gây ngạc nhiên từ bộ Lịch Sử Việt Nam vừa phát hành tại Việt Nam
Gần đây vào giữa năm 2017 này, học
giới của các cộng đồng người Việt tại hải ngoại chú ý đến tin Viện Sử Học tại
Việt Nam vừa tái bản có bổ sung, sửa chữa bộ Lịch Sử Việt Nam. Điều làm người tại
hải ngoại lưu ý nhiều nhất là thông tin về chính thể miền Nam Việt Nam trước
1975 nay được bộ sử mới tái bản này gọi đúng tên là Việt Nam Cộng Hòa chứ không
gọi là “ngụy” như trước kia nữa. Nhiều người mong mỏi muốn xem bộ sử mới này,
mà họ hy vọng là có nhiều sửa chữa quan trọng trong cách nhìn lịch sử có phần
“thoáng” của giới sử gia trong nước.
Một người bạn chúng tôi vừa gửi
mua được một bộ Lịch Sử Việt Nam gồm 15 tập mới được phát hành tại Việt Nam. Được
xem tận mắt, tôi thấy đó là một công trình đồ sộ, in ấn rất đẹp và rõ, ghi chép
lịch sử nước ta từ khởi thủy cho đến năm 2000, tức là chấm dứt thế kỷ 20.
Nhưng trước 15 tập sử lớn lao và
đẹp đẽ này, điều tôi muốn tìm ngay là một sai sót và sai trái tôi cho là quan
trọng từ các bộ Lịch Sử Việt Nam xuất bản năm 1971 và 1976, nay đã được sửa chữa
chưa. Tôi xin trình bày lại sự việc.
Cách đây bốn năm, vào năm 2013,
ông Nguyễn Minh Cần ở Moscou nước Nga, nhân trao đổi với Tòa soạn chúng tôi về
vấn đề sách cũ tái bản ở Việt Nam bao giờ cũng bị sửa chữa, không có quyển nào
giữ đúng được nguyên bản gốc, có gửi một bức thư như sau:
“Hồi những năm 60-70 thế
kỷ trước, Trường Chinh và Tố Hữu lúc đó phụ trách về tuyên huấn,
văn hóa, giáo dục... Các ông ấy cho rằng trong nguyên bản tờ Bình Ngô
Đại Cáo ở đoạn cuối, trước chữ " Than ôi !" có một câu
mà các ông cho là "duy tâm", " mê tín" quá là
câu "Thế là nhờ trời đất, tổ tông khôn thiêng che
chở, giúp đỡ cho nước ta vậy" (bản dịch trong bộ Việt Nam
Sử Lược của Trần Trọng Kim), thế là các ông quyết định bỏ đi, mà mập
mờ cho ba chấm vào trước câu sau. Thế là những sách có in Bình Ngô
Đại Cáo trong thời đó đều bỏ câu đó đi, có khi họ quên để cả ba
chấm nữa. NMC”.
Hồi đó tôi cố gắng tìm được bản
in Lịch Sử Việt Nam 1976, xem bài Bình Ngô Đại Cáo được in trong đó rồi đem so
sánh với Bình Ngô Đại Cáo trong quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thì
quả đúng như ông Nguyễn Minh Cần đã viết, thiếu đi một câu. Trong khi đó Việt Nam
Sử Lược có in đủ ba bài: nguyên văn bằng chữ Hán, phần phiên âm và bản dịch
nghĩa. Sau đây là hình chụp đoạn cuối bài Bình Ngô Đại Cáo, của cả ba dạng ấy :
Nguyên văn chữ Hán:
Phần phiên âm:
Phần dịch nghĩa:
Chúng ta thấy bản chữ Hán và bản
phiên âm có câu : “Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu,
nhi trí nhiên dã”, và ở bản dịch, câu này đã được chuyển thành : “Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng
che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.” Đó là Bình Ngô Đại Cáo trong Việt Nam Sử
Lược của Trần Trọng Kim.
Nhìn vào trang 261 quyển Lịch sử
Việt Nam bản in 1976 chúng ta thấy ngay trước câu “... Ôi! Một gươm đại định, dẹp
phăng giặc giã...” có đánh ba dấu chấm. Ý nghĩa của ba dấu ấy là chỗ đó có một
câu hoặc một số chữ được bỏ đi. Ba chấm ấy cho thấy một chút lương thiện của
người soạn bài, mặc dù việc tự tiện cắt bỏ một phần của một bản văn quan trọng
như thế của tiền nhân thì không thể nào chấp nhận được, nhất là trong một quyển
sách về lịch sử.
Bây giờ chúng ta xem lại bài Bình
Ngô Đại Cáo trong tập 3 của bộ Lịch Sử Việt Nam in năm 2017 thử coi có được “bổ
sung, sửa chữa” gì hay không. Trong phần Phụ Lục, trang 539 có bài Đại Cáo Bình
Ngô là bản dịch của Bình Ngô Đại Cáo, và cuối bản dịch có chú thích: “Theo bản
dịch trong Nguyễn Trãi toàn tập. Sđd,
tr. 77-82”. Không có nguyên văn Hán văn và bản phiên âm. Và đây là bản chụp đoạn
cuối của bài dịch:
Bài này đã loại bỏ dứt khoát câu “Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng
che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy” với thái độ “kiên định” hơn, là bỏ hẳn ba
cái dấu chấm trước chữ “... Ôi !”. Ba dấu chấm đó chứng tỏ thái độ tôn trọng tối
thiểu khi sử dụng một bản văn. Với bản mới này, những người biên soạn bộ sách Lịch
Sử Việt Nam tái bản 2017 nói với người đọc rằng : “Đấy nguyên bản dịch bài Bình
Ngô Đại Cáo là thế”. Nghĩa là bài ấy vốn chỉ có bấy nhiêu, không hề bị cắt bỏ
lôi thôi gì cả. Và đó là một câu không đúng sự thực, nói cách khác, né tránh sự
thực. Cái câu chú thích dưới bài “Theo bản
dịch trong Nguyễn Trãi toàn tập. Sđd,
tr. 77-82” không thể chối bỏ trách nhiệm của mình trước một văn bản mình
đưa ra được, vì rõ ràng nó thiếu một câu. Người biên soạn sách Lịch Sử Việt Nam
không thể “đổ lỗi” cho người soạn Nguyễn
Trãi Toàn Tập được, vì trước khi dùng một tài liệu nào, thì phải coi tài liệu
mình dùng có đúng không, có đủ không. Nếu biết mà vẫn dùng thì đó là “toa rập”,
không xứng đáng với công việc rất trí tuệ mà các vị ấy đang làm, là soạn cả một
bộ sử lớn cho dân tộc của mình.
Đây là một chi tiết rất nhỏ thôi,
nhưng ý nghĩa của nó rất lớn.
Các ông Trường Chinh, Tố Hữu có
thể tin vào thuyết vô thần của chủ nghĩa cộng sản, đó là quyền của các ông. Các
ông có quyền phủ nhận những gì tổ tiên của dân tộc Việt Nam tin vào “trời đất tổ
tông khôn thiêng che chở” nếu các ông hoàn toàn không tin điều đó. Nhưng các
ông có quyền dựa trên niềm tin của các ông mà đi “sửa sai” tiền nhân như thế
chăng ? Sửa sai một cách trắng trợn ngay trên sử sách lưu truyền.
Chủ nghĩa cộng sản hiện nay đã biến
thành cái gì trong con mắt của nhân loại, cái đó khỏi cần nói tới. Chuyện đó giờ
đây đã cũ quá rồi. Nhưng điều làm cho mọi người Việt Nam kinh ngạc là những nhà
trí thức hiện nay đang viết lại lịch sử nước nhà lại sẵn sàng theo vết xe cũ để
thỏa hiệp với những sai trái đối với lịch sử Việt Nam như thế. Đối với một nhân
vật lịch sử hùng vĩ như Nguyễn Trãi từ thế kỷ 15 mà quý vị đối xử kiểu đó thì
mong gì quý vị có cái tâm công chính với những giai đoạn gần với chúng ta ngày
nay hơn?
PPM