Trong bài Bên lề
Hiến pháp tương lai: “Quốc thiều, Quốc kì, Quốc huy” (B.K. số 179, ngày
15-4-1964), anh Đoàn-Thêm có nhắc lại những cuộc bàn cãi của các vị dân biểu
Quốc hội Lập hiến năm 1956 trong việc thay đổi quốc thiều và quốc kì, trong đó
có đoạn:
“Bài quổc thiều
hiện nay, thực ra chỉ là bài Tiếng gọi sinh
viên mà Lưu-Hữu- Phước làm cho Tổng hội Sinh viên Hà-nội (AGEl)
hồi 1938.
“Về sau, có phong
trào thanh niên ái quốc, nhất là sau ngày 9-3-1945, khi Nhật đánh đổ Pháp trên
khắp Đông-dương ; Thanh niên phải có bài đồng ca mạnh mẽ, trong những cuộc mét
tinh lớn ; vì chưa kịp soạn bản nhạc khác, L.H. Phước chỉ cho đổi lời ca
thành Tiếng gọi Thanh niên (...)”
Có ba điểm không
đúng:
1 - Bài quốc thiều
hiện nay thực ra không phải hẳn là bài Tiếng gọi Sinh viên,
2- Bài này không
phải soạn năm 1938 (lúc bấy giờ tác giả còn là học sinh nội trú ban Tú tài, năm
thứ nhất, trường Trung học Trương-Vĩnh-Kí) và Lưu soạn nó không phải vì “Sinh
viên” mà vì “Quốc dân”.
3- Không phải
Lưu-Hữu-Phước cho đổi lời ca Tiếng gọi sinh viên ra Tiếng gọi Thanh niên.
Nghĩ rằng đa số
đồng bào có thể hiểu lầm như các vị dân biểu nói trên, và cũng nhơn Quốc hội
Lập hiến 1966-67 đang soạn thảo Hiến pháp mới, tôi xin thử kể qua lịch sử bản
hát lịch sử này, theo chỗ tôi được biết, phối hợp với những điều gom góp đó
đây, do vài bạn đồng lứa thuật lại từ lâu. Và sau đó, thêm vài ý nghĩ.
*
Năm học 1940-41, có
ba người bạn thân nhau lâu từ Hậu-giang ra Hà-nội để vào Đại học. Họ trọ chung
một gác ở phố Thể dục cũ (phố Wiélé). Ba
người sinh viên cùng nặng tình với đất nước ấy là : Lưu-Hữu-Phước, Mai-Văn-Bộ
và Nguyễn-Thành-Nguyên.
Tháng 5 năm
1941 họ có gặp một cán bộ cao cấp của một đảng cách mạng dân tộc; họ
biết qua đường lối, chủ trương và có cảm tình với đảng cách mạng này. Sau đó,
một đảng viên cao cấp khác, sinh viên trường Luật, tìm người bạn nhạc sĩ dân
tộc họ Lưu lúc bấy giờ đã nổi tiếng với những bản “Sông Bạch-đằng, Kinh
cầu nguyện”..., tỏ bày cặn kẽ lí tưởng đảng mình để rồi nhờ Lưu soạn cho một
bài hát hô hào đồng bào, một bài hát mà nay mai có thể trở thành một hành khúc
của Quốc dân. Lưu nhận lời, vì từ lâu, Lưu ôm ấp ý định đặt một bài hành khúc
hùng mạnh để kêu gọi toàn thể Quốc dân. (Sau này, chính Lưu nói nửa đùa nửa
thật với vài bạn thân rằng mình đã cố ý làm cho tiết tấu câu thứ nhì bản nhạc mình tương tợ như tiết tấu
câu nhạc thứ nhất của bản La Marseillaise).
Những phút dằn vật,
khổ sở của thời đặc biệt sáng tạo, Lưu đều nếm đủ. Tâm, trí chẳng khác lúc nào
yên, và tiềm thửc cũng âm thầm góp sức. Rồi sự giải thoát. Một đêm nọ, đang ngủ
say, Lưu bỗng thức giấc, lại bàn học, ghi lại một hơi bản nhạc hoàn thành trong
tiềm thức, với chiếc măngđôlin. “Quốc dân hành khúc” chào đời. Nhưng phải đợi ngày tựu trường mới có lời, gồm ba ca
khúc: Tranh đấu, Khải hoàn và Kiến thiết.
Người bạn làm cách
mạng nọ đến gặp lại Lưu, được nghe bài hát mong chờ, rất đỗi vui mừng. Nhưng
sau cuộc gặp gỡ hôm ấy, anh đi không trở lại: anh mất tích. Dạo ấy, người cách
mạng Việt ở vào cảnh một cổ đôi tròng: thực dân Pháp và quân phiệt Nhật ; sự
sống và tự do, mất chẳng biết lúc nào. Bài hành khúc soạn cho Quốc dân đành nằm
yên vậy. Chẳng ngờ sau đó không lâu, nó phải thay hình đổi dạng.
Số là cuối năm ấy,
hoàng đế Bảo-Đại định ra thăm đất Bắc. Chốn ngàn năm văn vật lo chuẩn bị cuộc
tiếp rước. Học sinh tập diễn hành và tập hát
“Allons, enfants de la patrie,
“Le jour de gloire est arivé...”
(La Marseillaise)
“Kìa núi vàng bể bạc,
Có sách trời, sách trời định phận...”
(Đăng đàn cung) (1)
Nghĩ mình là lớp
đàn anh, phải có cái gì hơn bọn đàn em sinh viên thấy cần phải có một bài hát
cho trường Đại học. Ban Âm nhạc của Tổng hội Sinh viên tích cực hoạt động.
Người trưởng ban, Nguyễn-Tôn-Hoàn (cũng người miền Nam và bạn thân với
Lưu-Hữu-Phước) sực nhớ đến bài hành khúc nằm chờ thời, bèn bàn với Lưu
lấy Quấc dân hành khúc làm Sinh viên hành khúc. Như thế là thu hẹp quá nhiều phạm vi bản nhạc mến yêu,
(dân ta hai chục triệu, mà sinh viên lúc ấy chưa tới số ngàn!) nên Lưu soạn
ngay một bản nhạc khác cho anh chị em sinh viên. Nhưng ban Âm nhạc không ưng ý
: bài nầy không bằng bài kia, và đòi lấy Quấc dân hành
khúc làm hành khúc của
giới mình cho được mới nghe. Vốn giàu tình cảm và đặt quyền lợi đoàn thể lên
trên, Lưu đành nhượng bộ, và Quốc dân hành khúc đành ra mắt quốc
dân với cái tên tạm
Sinh viên hành khúc
Ca khúc
Này Sinh viên ơi! Chúng ta kết đoàn
hùng tráng.
Đồng lòng cùng nhau ta đi đến nguồn
tươi sáng.
Vì tương lai quấc gia, vì tương lai quấc dân,
Từ nay ta tiến lên, từ nay ta rán cần.
Làm sao cho tiên nhân không hổ
Dù khó thế mấy, cùng nhau cố
Rèn đúc chí khí dũng cường thuở xưa,
Đoàn Sinh viên ta quyết đồng tâm hứa ;
Bền chí, cố gắng sức đoàn ta tiến lên.
Trau chuốt từ tấm thân cho tới tâm
hồn.
Sinh viên ơi ! Ta quyết đi đến cùng !
Sinh viên ơi ! Ta nguyền đem hểt lòng
!
Tiến lên ! Đồng tiến ! vẻ vang đời
sống,
Chớ quên rằng ta là giống Lạc-Hồng !
*
Tổng hội sinh viên
Đông-Dương (AGEI : association générale des étudiants de l’Indochine) còn
có sinh viên Miên, Lào, Pháp nên Mai-Văn-Bộ và Nguyễn Thành-Nguyên đặt lại lời
ca cho thích hợp.
La Marche des Etudiants
Musique: Lưu - Hữu Phước
Paroles: Mai-Văn-Bộ & Nguyễn-Thành-Nguyên
COUPLET
Étudiants ! Du sol l’appel tenace,
Pressant et fort retentit dans
l’espace.
Des côtes d’ Annam
aux ruines d’ Angkor,
À travers les monts, du Sud jusqu’au
Nord,
Une voix monte ravie :
Servir la chère Patrie,
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’ avenir meilleur
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines des fermes promesses.
REFRAIN
Te servir, chère Indochine !
Avec cceur et discipline,
C’est notre but, c’est
notre loi,
Et rien n’ébranle notre foi.
Tạm dịch :
CA KHÚC
Sinh viên ! Từ lòng đất, tiếng gọi
dai dẳng,
Thúc hối và mãnh liệt dội vang trong
không trung.
Từ miền duyên hải nước Việt đến cảnh
hoang tàn Đế-Thiên Đế Thích,
Qua núi non trùng điệp, từ Bắc chí
Nam,
Một tiếng vút lên, hân hoan :
Phụng sự Tổ quốc thân yêu,
Mãi mãi không hề biết ngại và không
hề biết sợ
Để làm cho tương lai xán lạn
Niềm vui đời, lòng nhiệt thành và
tuổi trẻ
Đều đầy những hứa hẹn vững mạnh
ĐIỆP KHÚC
Hỡi Đông-dương thân yêu ! Chúng tôi nguyền
phụng sự
Với lòng dũng cảm và tinh thần kỉ
luật,
Đó là mục đích, đó là luật của chúng
tôi,
Và không gì làm lay chuyển đức tin
này của chúng tôi.
Tiếc thay, hoàng đế
của cái “đế quốc An-nam” không được nghe bản... quốc thiều tương lai của nước
Việt-Nam... Cộng-hòa mà ông sẽ là quốc trưởng, tại cố đô Thăng Long, năm ấy :
đế quốc Nhật châm ngòi chiến tranh ở Thái-bình-
dương, cuộc Bắc du phải hoãn lại đề rồi bãi bỏ.
Sẵn nói đến vua chúa với bài hát lịch sử này, cũng xin ghi lại đây
một hiện tượng: một sinh viên đem “La Marche des
Étudiants” về phổ biến ở Nam- vang, được ông Jekyll, trưởng ban Âm nhạc
nhà vua thích, tập cho ban này và trình bày cho Sihanouk. Sihanouk nghe xong,
rất lấy làm thích thú và nhờ ông Jekyll dạy ông ta hát:
. . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Des côtes d’ Annam
aux ruines d’ Angkor,
À travers les monts, du Sud jusqu’ au
Nord,
Une voix monte ravie :
Servir la chère Patrie...
Ta hãy trở về
Hà-nội, thăm lại Tổng hội Sinh viên.
Để dễ bề phổ biến
ra ngoài giới sinh viên, lời ca Việt và Pháp được đưa đi kiểm duyệt. Lời Pháp
được qua ải, lời Việt thì không. Đáng ghi là câu chót của Điệp khúc, mà cũng là
câu chót của bài hát, bị đến năm gạch chì đỏ phũ phàng gạch bỏ.
Lúc bấy giờ là
khoảng đầu năm 1942.
Tổng hội Sinh viên
bèn mở cuộc thi đặt lời ca (gồm có ba đoạn). Giải nhất về Lê-Khắc-Thiền, giải
nhì về Đặng-Ngọc-Tốt. Cả hai đều là sinh viên trường Thuốc, lời ca của hai
người trúng giải được hợp lại — Điệp khúc thì lấy từ bài Sinh viên hành khúc - để rồi bay
đi, từ thành thị đến thôn quê, từ ải Nam- quan đến mũi Cà-mau.
Tiếng gọi Sinh viên (2)
(Bài hát chánh thức
của trường Đại học Đông-dương)
Nhạc: LƯU-HỮU-PHƯỚC
Lời: LÊ-KHẮC-THIỀN & ĐẶNG-NGỌC-TỐT
Đoạn I
Này Sinh viên ơi ! Đứng lên đáp lời
sông núi !
Đồng lòng cùng đi đi đi mở
đường khai lối.
Vì non sông nước xưa truyền muôn năm
chớ quên,
Nào anh em Bắc, Nam ! cùng nhau ta
kết đoàn
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin rán.
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dù muôn chông gai, vững lòng chi sá !
Đường mới, kíp phóng mắt nhìn xa bốn
phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can
trường.
Điệp khúc
Sinh viên ơi ! ta quyết đi đến cùng !
Sinh viên ơi ! ta nguyền đem hết lòng
!
Tiến lên ! Đồng tiến ! vẻ vang
đời sống !
Chớ quên rằng ta là giống Lạc-Hồng !
Đoạn II
Này Sinh viên ơi ! Nhớ xưa dấu còn
chưa xóa,
Hùng cường trời Nam, ghi trong bảng vàng bia đá !
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công
Nam tiến luôn;
Bình bao phen Tống, Nguyên, từng ca
câu khải hoàn;
Hồ Tây tranh phong, oai son phấn ;
Lừng tiếng Sát Đát ! Trần-Quốc-Tuấn ;
Mài kiếm cứu nước, nhớ người núi Lam
!
Trừ Thanh, Ọuang-Trung giết hằng bao
đám.
Nòi giống có khí phách từ xưa, chớ
quên,
Mong thấy ngày vẻ vang, ta thắp hương
nguyền.
(Qua Điệp khúc)
Đoạn III
Này Sinh viên ơi ! Muốn đi đến ngày
tươi sáng,
Hành trình còn xa, anh em phải cũng
nhau gắng
Ngày xưa, ai biết đem tài cao cho núi
sông,
Ngày nay, ta cũng đem lòng son cho
giống dòng,
Là Sinh viên, vun cây Văn hoá
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá...
Đời mới, kiến thiết, đáp lòng những
ai
Hằng mong ta ra đứng cầm tay lái.
Bền chí, cố gắng sức, đoàn ta tiến
lên,
Dù sấm, dù gió mưa, không núng gan
bền.
(Qua Điệp khúc)
Điệu “Tiếng gọi sinh viên” được hoan nghinh
và phổ biến đến đỗi người ta nhiều lần cất lời ca theo nó để nhắm những mục
đích mà tác giả nó không bao giờ nghĩ đến, tỉ dụ như để ca ngợi Quốc trưởng...
Pétain ! Và trong một tờ báo cũ, mấy dòng này in sau bài hát có tiếng nói trên
chứng minh điều ấy : “Bài hát này mới thật là bài hát chánh thức của Tổng hội
Sinh viên trường Đại-học Hà-nội gửi cho chúng tôi và hội cấm đặt bài hát khác
theo điệu này”.
(Nam-kì
tuần báo, số 37, ngày 18-3-1943)
Tuổi trẻ thích nó
đến đỗi học sinh trường Bưởi (tức Lycée du Protectorat; trường Trung học Bảo
hộ) có bài hát chánh thức do ông xếp kèn Parmentier đặt, lời bằng tiếng Pháp,
bài Lypro mà không chịu hát, chê
dở, và mặc dầu chưa phải là sinh viên, vẫn hát, khoảng cuối 1941 đầu 1942 :
“Étudiants ! Du sol l’appel tenace...”
Và sau khi bài hát
chánh thức bằng tiếng Việt được công bố :
“Này Sinh viên ơi ! Đứng lên đáp lời sông núi...”
Hoan nghinh “Tiếng
gọi sinh viên” hăng nhất và trước hết là học sinh các trường Trung học ở Bắc
cũng như ở Nam, ở Trung. Để hợp với mình, họ đổi hai tiếng Sinh viên ra Thanh niên, còn hướng đạo
sinh thì: “Này Anh em ơi !” Chính anh chị em sinh
viên cũng thấy dùng hai tiếng sinh viên ngoài giới
của mình, nó có hơi hẹp, nên khi phổ biến ra ngoài, cũng:
- Này Thanh niên ơi ! đứng lên đáp lời sông
núi...
- Này Thanh niên ơi ! Nhớ xưa dấu còn chưa xóa...
- Này Thanh niên ơi! Muốn đi đến ngày tươi
sáng...
Và khi nó chánh
thức ra mắt công chúng tại Đại giảng đường trường Đại học Hà-nội, năm 1942,
nhân dịp lễ hằng năm của sinh viên, thì được hoan nghinh nhiệt liệt. Mà lần
trình bày ấy, giàn nhạc sinh viên do Trần-văn-Khê điều khiển chỉ gồm có vĩ cầm
và trống nhịp ! Trên hai mươi năm qua, nhiều người chưa quên bầu không khí gây
cấn lúc ấy : Sau hai bài La Marseillaise và Đăng đàn cung, cử tọa ngồi xuống, trừ anh chị em sinh viên. Hành khúc của
Sinh viên trổi lên. Quan khách đứng dậy, trừ viên toàn quyền
Đông-dương. Rồi trong lúc tất cả mọi cặp mắt đều hướng vào phó thủy sư đô đổc
Decoux thăm dò cử chỉ của y thì ông ta từ từ đứng dậy.
Rồi hè năm ấy, Hành
khúc của sinh viên ra mắt công chúng miền Nam tại nhà hát Tây Sài-gòn trong đêm
kịch của sinh viên, lại được hoan nghinh hết sức, và cả cử tọa cũng đứng nghiêm
chào bài hát của những ai quyết “đứng lên đáp lời sông núi”.
Ở Nam vốn dễ dãi
hơn — xứ thuộc địa có khác xứ bảo hộ ! — nên anh em đưa bài hát kiểm duyệt, thì được chấp nhận. Sài gòn đã cho phép thì sau đó,
Hà-nội cũng cho luôn.
Và từ đó, nó theo
những hoạt động văn hóa và xã hội của Tổng hội Sinh viên đã ý thức vai trò mình
trước lịch sử sắp đến khúc quanh, mà lên tiếng gọi khắp cùng : những đêm hát
Thanh niên và Lịch sử, những cuộc truyền bá quốc ngữ, truyền bá vệ sinh và tân
y học, những trại sinh viên, học sinh, hướng đạo, thanh niên...
*
1942 — 1943 — 1944 — 1945.
Tháng ba, mùng 9, Nhật lật Pháp.
Tinh thần ái quốc được nung cao hơn bao giờ hết.
Lúc bấy giờ, Lưu-Hữu-Phước, Mai-Văn-Bộ, Nguyễn-Thành-Nguyên đã về Nam từ năm trước cũng như hầu hết sinh viên miền Nam, miền Trung, khi “Hà- thành nay suốt năm còi rú, báo động hoài trưa sớm, hoài ngày xuân”... (3) Một sinh viên trong số ít sinh viên
người Nam ở lại Hà nội, cũng là bạn của Lưu,
thừa vận hội mới này, tung ra “Tiếng gọi thanh niên” (còn có tên : Thanh niên hành khúc), chắc nghĩ rằng
nay là lúc cần phải kêu gọi thanh niên, với những lời quyết liệt hơn ; mà còn phương tiện nào nhanh và có hiệu quả bằng nhờ điệu hát cũ hay, có tiếng, được nhiều người trong nước biết—nhất là giới có đầy nhiệt huyết là giới học sinh, thanh
niên ; lại thêm điều lợi này, là người ta sẽ cho đó là lời ca
mới đo tác giả, hoặc do đoàn thể của tác giả : Tổng hội Sinh viên, đưa ra, mà tác giả, được mọi người quí, còn Tổng hội Sinh viên được mọi người mến.
Quả nhiên bài hát Tiếng gọi Thanh
niên hay Thanh niên hành khúc theo điệu Tiếng gọi Sinh
viên hay Sinh viên hành khúc được phổ biến rất mau, nhất là khi nó được Phan-Anh, trong chánh phủ Trần-Trọng Kim, dùng nó làm bài hát chánh thức cho phong trào Thanh niên tiền
tuyến. Lời nó như sau :
CA KHÚC
Này Thanh niên
ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng !
Đồng lòng cùng đi, hi sinh, tiếc gì thân sống.
Vì tương lai
quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi
sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi
trên gươm dáo,
Thù nước, lấy máu đào
đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người thanh niên luôn vững bền tâm trí
Hùng tráng, quyết chiến
đấu, làm cho khắp nơi
Vang tiếng người
nước Nam cho đến muôn đời.
ĐIỆP KHÚC
Thanh niên
ơi ! mau hiến
thân dưới cờ !
Thanh niên ơi!
mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn
phá, vẻ vang nòi giống,
Xứng danh nghìn năm dòng giống Lạc-Hồng.
*
Các tác giả “Quấc dân hành khúc” (người soạn nhạc và người đặt
lời) biết được thì sự đã rồi. Buồn và bực, nhưng đối phó cách nào giờ ? Cũng là anh em với nhau; đường đi tuy có khác, nhưng đích là một : nước nhà độc lập, nòi giống vinh quang. Đánh chữ làm thinh, chờ cơ hội vậy. Cơ hội ấy đến mấy tháng sau, khi mấy bạn thân đã “Mau về Nam” đoàn tụ ở Sài-gòn chung sức với vài bạn khác mở nhà xuất bản Hoàng - Mai - Lưu, với biểu trưng : hoa Mai Vàng Trôi trên dòng Nước, ở 40 đại lộ Bô-na (Lê-Lợi bây giờ), khởi đầu việc xuất bản nhạc phụng sự dân tộc.
Khoảng tháng 8, Quấc dân hành khúc mới ra đời, in tại nhà Xưa - Nay, bìa do Dỉệp-Minh-Châu trình bày : đại dương nổi sóng, lời của Hoàng-Mai-Lưu (họ ba bạn thân cùng chung chí hướng) ; các bạn không lạ gì Mai, Lưu, còn Hoàng là
Huỳnh-văn-Tiễng! (một lãnh tụ Thanh niên tiền phong). Mời các bạn nghe
QUẤC DÂN HÀNH KHÚC
Âm nhạc : Lưu-Hữu-Phước
Lời ca : Hoàng-Mai-Lưu
L — CA KHÚC TRANH ĐẤU
Nào dân Việt-Nam ! Tiến lên đến ngày giải phóng !
Đồng lòng cùng !
đi ! đi ! đi ! sá gì thân sống !
Nhìn non sông
nát tan, thì nung tâm chí cao ;
Nhìn muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào.
Liều thân xông
pha ta tranh đấu,
Cờ nghĩa phất phới vàng pha máu,
Cùng tiến quét nát những loài dã man !
Hầu đem Quê hương thoát vòng u ám
Thì quyết lấy
máu nóng mà rửa oán chung,
Muôn thuở vì núi
sông lưu tiếng anh hùng.
ĐIỆP KHÚC
Anh em ơi ! (Nào dân Việt-Nam!) Mau tiến theo bóng cờ !
Anh em ơi ! (Nào dânViệt-Nam !)
Quật cường nay đến giờ !
Tiến lên ! Đồng tiến ! Sá chi đời sống !
Chớ quên rằng ta là giống Lạc-Hồng !
II - CA KHÚC KHẢI HOÀN
Nào dân Việt-Nam ! nước ta
thoát vòng u ám,
Hùng cường
từ đây chung nhau sống ngày tươi sáng.
Cờ Nam tung gió mây, lừng bay trên núi sông !
Lòng muôn dân
đắm say, hò reo trong nắng hồng.
Đầu non vinh
quang vương hơi máu,
Luồng gió đắc thắng
rèn gươm dáo.
Nghìn bóng chiến sĩ thác vì núi sông,
Truyền ta thiên thu giữ lòng anh dũng.
Đồng hát khúc chiến thắng mừng cho nước non,
Thân ái dìu dắt
nhau nung đúc tâm hồn.
(Qua Điệp khúc)
III.— CA KHÚC KIẾN THIẾT
Nào dân
Việt-Nam ! Hãy mau tiến cùng Thế giới !
Kìa nhìn trời xa
kêu nhau đón trào lưu mới.
Làm sao cho quốc
dân hòa vui trong sáng tươi
Làm sao khi sống
chung người không uy
hiếp người
Đời dân nâng cao
thêm sung sướng,
Nền móng Đất Nước càng yên vững.
Đồng tiến phá nát những thành kiến xưa
Và xây Tương lai
chói loà muôn thuở.
Đoàn kết, rán kiến thiết nền công lí chung !
Mong thấy toàn
chúng dân vui sướng tưng bừng.
(Qua Điệp khúc)
“CHÚ Ý.— Từ trước tới nay, chúng
tôi chưa bao giờ xuất bản bài TIẾNG GỌI SINH VIÊN, vì chúng tôi mong in được bài ấy lời ca đặt cùng một lúc với nhạc.
“ — Chỉ có những lời ca này là nhứt định. Tất cả các lời ca khác đều đặt sau và chỉ là tạm thời. Có bài chỉ là “Ca khúc tranh đấu” của bài này mà đã bị người khác sửa đổi.
“Nhà xuất bản “HOÀNG-MAI-LƯU”
Sau đó ít lâu là toàn dân khởi nghĩa (4), rồi quân Anh đến, rồi Nam bộ kháng chiến. Bản Quấc dân hành khúc chưa
được phát hành trong khắp nước. Chắc nhiều bạn nay đọc bài này mới biết nó mới chính là “thứ thiệt”, còn “Tiếng
gọi Thanh niên” hay “Thanh niên hành khúc” là “thứ... không phải chánh hiệu con Nai”.
Và hẳn vì chẳng rõ ngọn ngành, hoặc không được còn trong tay bản nhạc Quấc dân hành
khúc để chú ý, mà thủ
tướng Nguyễn-Văn-Xuân của nước Việt- Nam cộng hoà ra sắc
lịnh số 3 ngày
2-6-1948, điều 3 :
“Biểu hiệu quốc gia là một lá cờ...”
“Quốc thiều là bản “Thanh niên hành khúc”.
Cử nhạc, thì muôn người đều im. Cất lời (mà
nghĩ cũng kỳ : "Quốc ca là lời của “Thanh niên hành
khúc”, mà hai tiếng thanh niên lại đổi khi thì công dân, khi lại dân Nam) thì là điềm nước ta chưa thể thống nhất ?
Chớ quên rằng ta là giống
Lạc-Hồng !
*
Mười năm về trước, khi Quốc hội lập hiến nêu lên vấn đề thay đổi quốc kỳ và quốc ca, nhiều báo đã góp ý. Tôi để dành lại bài ông Trần-Trọng-San đăng ở tuần báo Văn nghệ tiền-phong, số 12, ngày 23-8-1956, để nay xin trích đoạn cốt yếu:
“Về việc hủy bỏ lá cờ nền vàng ba gạch đỏ hiện nay, theo ý chúng tôi, không có điều gì đáng thảo luận. Vì lá cờ này đã được chế ra bởi một chế độ chính trị lỗi thời thối nát, không hợp với nguyện vọng của nhân dân.
“Nhưng về việc thay thế bài “Tiếng gọi Thanh niên” bằng một bài quốc ca mới, chúng tôi có
một vài ý kiến muốn trình bày. Trước hết, chúng tôi xin đặt hai câu hỏi:
“Có nên bỏ bài quốc ca hiện nay, tức là bài Tiếng gọi Thanh niên của Lưu-
Hữu-Phước không ?
“Chúng tôi cho rằng không nên, vì mấy lý do sau đây :
1. - Nhạc điệu của bài này có đủ tính chất của một bài quốc ca.
2. - Bài này đã từng có công thức tỉnh tinh thần ái quốc của thanh niên
Việt-Nam, đã đánh dấu một giai đoạn tiến bộ của lịch sử dân tộc.
3. - Bài này đã được làm ra trong lúc tác giả có xúc động mạnh mẽ vì quốc gia, dân tộc. Ngày nay, tuy Lưu-Hữu-Phước ở bên kia bờ Bến-hải, song không phải vì thế mà ta bỏ bài nầy. Chúng ta giữ bài nầy vì nó là sản phẩm của cao trào giải phóng của toàn dân Việt, vì nó là tác phẩm của Lưu-Hữu
Phước năm ấy, một chiến sĩ quốc gia hăng hái, nhiệt thành (...)
“Một bài quốc ca không phải chỉ cần có sự tuyệt xảo về nghệ thuật là đủ, mà lại cần phải có
một thành tích lịch sử ! Vì vậy nên
theo ý chúng tôi, cũng là ý kiến của một số độc giả “Văn nghệ tiền
phong” Tiếng
gọi Thanh niên rất nên được giữ lại làm quốc ca.”
Theo anh Đoàn-Thêm, (5) thì lúc ấy, Quốc hội chia làm hai phe, phe đòi đổi cả quổc kì lẫn quốc thiều, phe quyết giữ lại quốc ca, quốc kì. Những lí lẽ đưa ra thật là vì nước vì dân, nhưng Đoàn-quân có
cho một chú thích bất ngờ này:
“Hai bên cãi nhau rất hăng. Song ngoài những luận điệu vừa kể, hình như còn ẩn ý mà hai bên không muốn phơi bày, mãi về sau, ẩn ý đó mới được lộ ra cho một vài người : nhóm chủ trương thay đổi, thực ra tranh đấu cho cờ “Bụi Trúc” và bài “Suy Tôn”; nhóm đòi giữ cờ và
bài ca cũ, vì biết thóp mục đích kia, mới cố gắng, chớ chẳng binh vực gì Lưu-Hữu-Phước, và cũng chẳng ao ước một lá cờ nào đẹp hơn”.
Nhưng nay, bàn đến việc nên giữ hay nên đổi quốc thiều, quổc kì, hẳn các dân biểu không vì người nào trong dòng họ nào. Tôi xin miễn bàn đến quốc
kì, mà chỉ góp ý về quốc ca. Trong một lá thư, cách đây mười năm, một bạn cùng lứa chuyên về nhạc
cổ truyền mà cũng hiểu nhiều về nhạc Mĩ-Âu, có nhận xét như sau :
“Về ý kiến quốc ca thì bạn không nên nhọc công mà binh vực một bài này hay chỉ
trích một bài khác, cái đó tùy nhiều nhất nơi chánh phủ và chánh thể của một giai đoạn. Nếu là một
nghị sĩ hay một nhóm nghị sĩ trong quốc hội, chưa chắc giải quyết được vấn đề đó. Bài đó theo tôi thì có một lịch sử và về nhạc thuật cũng đáng làm một bài quốc ca. Nhưng nó đã vì Bắc, Nam chia rẽ mà người cha đẻ nó ra đã lên tiếng phản đối việc
dùng nó làm quổc ca miền Nam. Chuyện ấy ra
ngoài phạm vi nghệ thuật và đứng hẳn trong lĩnh vực chánh-trị.”
Người nghệ sĩ có thể trách nó thiếu tánh cách
dân tộc, tiếc nó có một câu tương tợ một câu ở quốc thiều Pháp về tiết tấu. Người chính khách sẽ đặt nặng vấn đề tác
giả nó hiện ở bên kia vĩ tuyến, đi theo chủ nghĩa Mác-Lê rồi cũng nên và đã từng lên tiếng phản đối việc nó bị Chánh phủ Cộng hòa
Việt-Nam sung công làm bản quốc thiều.
Nhưng tôi chỉ đứng ở địa vị một người công dân thường, một người mà khi nó ra đời, vừa độ thanh xuân, đã thấy giá trị lịch sử lớn lao và đặc biệt của nó mà có một thái độ phải chăng :
Hai mươi năm xưa, ở thủ đô nước Việt-Nam dân chủ cộng hòa, tại nhà Hát lớn, tôi đã âm thầm nuốt nỗi bất bình vì chứng kiến một bất công lịch sử. Không một đại biểu Quốc hội lập hiến nào trong số hai trăm mười người có mặt nhắc đến bản “Quấc dân hành khúc — Tiếng gọi Sinh viên — Thanh
niên” khi xét đến khoản quốc ca.
Và giờ đây, ở thủ đô nước Cộng hòa Việt-Nam, khi một trăm mười bảy dân
biểu Quốc hội Lập hiến đang bàn xét những điều khoản bản Hiến pháp tương lai, tôi lại công khai mong rồi đây lúc Bắc Nam hợp lại một nhà sẽ có
một cái gì cao cả, thiêng thiêng thấm qua bao lớp vỏ tạm thời dày, mỏng, cứng,
mềm khác nhau để làm rung động cái tâm, cái hồn, duy
nhất và vĩnh viễn của những lớp người từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mau đã “đứng lên đáp
lời sông núi” và dầu ra sao, vẫn chưa quên mình là
giống Lạc-Hồng, và dù thế nào, cũng còn “thương nhau nhớ nhau...” (6)
Điều mong này, bạn có thể cho là ngây thơ hay không tưởng ; nhưng nếu không nói nó lên, thì lại e mình lại phụ mình.
Nguiễn Ngu-Í
Chú thích :
1. “Đăng đàn cung” vốn !à một bản nhạc
thường dùng khi nghinh giá trong thành nội. Nó chẳng có gì đặc sắc. Năm 1933,
Pháp mở cuộc đấu xảo thuộc địa ở Paris. Việt, Miên, Lèo có một khu vực
riêng để triển lãm, gọi là khu vực Đông-Pháp. Ngày khánh thành nó mà nước Việt
ta không có bài Quốc thiều để cử “thì coi sao được” nên người đội trưởng phường
quân nhạc của Nam triều lúc bấy giờ, thầy đội Tú, mới lấy bài nhạc rước vua nói trên mà lo ghi nó lại theo kí âm nhạc Tây-phương. Mãi
đến khi tàu vào Hồng-hải, việc nầy mới xong. Thầy đội Tú mới trình cùng nhạc
trưởng mình là ông Fournier. Ông này mới hoà âm “Đăng đàn cung” rồi đội nhạc tập dượt. Và ngày khánh thành khu vực
Đông-Pháp, bản “La Marseillaise” vừa dứt thì đội nhạc Việt cử bài “Đăng đàn
cung” với lời giới thiệu cùng thiếu vương Bảo-Đại và quan khách đó là Quốc
thiều của “đế quốc An-Nam”.
(Theo tài liệu của
Lê-Thương)
2. Nhan này
vốn của Đặng-Ngọc-Tốt.
(3) Trong bài hát “Mau về Nam” của
Lưu Hữu Phước.
(4) Xin sao lại đây những
dòng cảm tưởng này của Nguyễn-Hoàng-Tư, một thanh niên tài hoa đã đứng lên đáp lời sông núi và đã hiến thân cho Tổ quốc, những dòng này viết ngày 26-8-1945, sau khi anh dự cuộc
biểu tình và mết tinh vĩ đại mừng Độc lập ở Sài Gòn và đăng ở tuần báo Tiến, cơ
quan của Thanh niên tiền phong số 3-4 ra ngày 1-9-1945. Giữa lúc mấy vạn người
tụ họp và đang mong chờ một cái gì giữa cờ xí trang
nghiêm phất trên trời cao như tiêu biểu cái ý chí muốn vượt gió để tiến thủ của dân ta, điệu
nhạc Quấc dân hành khúc (trước là Tiếng gọi sinh viên) được
tấu lên với tất cả cái tính cách hùng dũng, cái phấn khởi của nó. Bài ấy, tôi
đã nghe bao lần, nhưng hôm nay sao mà nó làm tôi cảm thế? Trường hợp nghiêm
trọng chăng? Nhạc khí hoàn hảo chăng? Tôi không biết rõ. Tôi như thấy một luồng
cảm xúc chạy rờn rợn trong người. (Ắt hẳn một người dân nước khác phải cảm xúc
như tôi khi họ được nghe quốc thiều của họ).
(5) Trong bài “Bên lề Hiến pháp tương lai, Quốc thiều, Quốc
kỳ, Quốc huy’ nhắc ở đoạn đầu.
(6) Nguyễn Mỹ Ca: “Xin giữ lời nguyền”.
Nguồn: Báo Bách Khoa số 244
ngày 1-3-1967 và 245 ngày 15-3-1967.