Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Water, water, every where,
Nor any drop to drink.
Samuel Taylor Coleridge [1772-1834]
Thế kỷ 21 của tỵ nạn môi sinh, đã có 2 triệu người
phải rời bỏ quê hương ĐBSCL ra đi tìm kế sinh nhai
Hình 1: Hình ảnh một dòng sông đang chết dần; cũng để hiểu tại sao đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai; từ phải: TS Lê Anh Tuấn, Th.S Nguyễn Hữu Thiện. [photo by Ngô Thế Vinh}
XỨ SỞ CÂY THỐT NỐT VÀ NGƯỜI KHMER HIỀN HÒA Tới An Giang, tới hai quận Tịnh Biên và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt nốt nổi bật trên những cánh đồng lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa học Borassus flabellifer, có nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả trăm năm dài hơn tuổi thọ một đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây đực không trái, cây cái cho tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen, nhỏ hơn trái dừa bên trong có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt nốt cho nước ngọt có vị thơm, có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu Quảng Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường phèn thì An Giang, vùng Tịnh Biên Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu xanh nấu với đường thốt nốt ngọt dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi thành phần cây thốt nốt đều có công dụng: thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái. Trong nền văn hóa cổ Khmer, các Chùa chiền còn lưu giữ được những văn bản viết trên lá cây thốt nốt. Cây thốt nốt cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [Hình 2]
Hình 3: trên trái, hàng cây
thốt nốt huyện Tri Tôn tỉnh An Giang; phải, bà Ngoại ngồi chặt đống trái cây
thốt nốt; dưới phải, con gái Ngoại thì đang gỡ những
múi thốt nốt
trắng mềm để mời khách, đây là quán Thốt Nốt Võng cho khách đường xa
ghé uống ly nước thốt nốt mát và tạm ngả lưng; từ phải, TS Lê Anh Tuấn, TS
Dương Văn Ni, TS Lê Phát Quới, Th.S Nguyễn Hữu Thiện, KS Phạm Phan Long; trên
mặt bàn là hộp đường thỏi thốt nốt. [photo by Ngô Thế Vinh & Phạm Phan
Long]
Hình 4: trái, được ăn những chiếc
bắp nóng trên đường đi, phải, vựa dứa thơm ngon nổi tiếng quận Châu Thành, tỉnh
Sóc Trăng, từ trái: TS Dương Văn Ni, Ngô Thế Vinh, TS Lê Phát Quới. [photo by
Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Hưng]
Hình 5:trái, những giề lục bình phủ kín kinh rạch do
nước tù đọng; phải, cảnh khói đồng do nông dân đốt rạ và dùng tro than như phân
bón thiên nhiên.
Hình 6: giữa, cùng bác nông dân với bài học đập lúa đầu tiên trên ĐBSCL, kết quả người viết bị đánh rớt / disqualified ngay, vì đập không hết hạt và lúa thì vương vãi ra tứ tung, học làm nông dân khổ và khó lắm. [photo by Nguyễn Văn Hưng]
Hình 7: trái,từ ruộng hành xã
Vĩnh Hải huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng những thố hành tím được chất thành
ngọn lên xe tải để phân phối tới các chợ; phải: TS Lê Anh Tuấn đứng bên túi trữ
nước ngọt lấy từ giếng bơm, anh Lê Anh Tuấn cũng cho biết: 100% nước tưới ruộng
hành được lấy từ các giếng bơm, [photo
by Ngô Thế Vinh]
CÓ MỘT NỀN VĂN HOÁ NƯỚC
LỢ
Trên đường dọc theo
Sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua con kênh lớn
Gành Hào [được xây từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của
Nhật].
Bấy lâu, các chuyên gia
Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái
sông nước Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch
làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt.Từ suy nghĩ giản đơn ấy,
họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ luỵ cho hệ sinh thái ĐBSCL như hiện nay.
Đoàn đứng trên cầu phía
hướng ra Biển Đông, nơi có cống đập ngăn mặn.Ngoài mặn trong ngọt. Anh Dương
Văn Ni sinh ra và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi nói về nhịp đập của hệ
sinh thái ĐBSCL, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ tay của chính mình; với một
giọng thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng:
"ĐBSCL
chỉ nói riêng phía Biển Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt.
Hỏi người nông dân thì họ biết rất rõ. Thuỷ triều từ Biển Đông là bán nhật triều,
sáng và chiều hai lần trong ngày; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng,
mực nước lên xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết chừng
nào thì "nước rong" vào ngày rằm, khi nào "nước kém" vào cuối
tháng âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa "nước nổi" và mùa "nước
hạn".
Từ mấy trăm năm, trải
qua bao thế hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với nhịp đập thiên
nhiên ấy của những dòng sông: trong ngày, trong tháng, trong năm và đã hình
thành một nền "văn minh sông nước."
Họ đã quen chung sống với cả ba tình huống: nước ngọt, nước lợ và nước mặn.
Lãnh đạo bộ Nông nghiệp đa số mang theo họ một nền văn hoá từ châu thổ sông Hồng,
biết rất ít về hệ sinh thái ĐBSL vốn rất đặc thù. Với đầu óc duy lý giản đơn, với
những con số thống kê, nhưng họ có biết đâu rằng chuỗi những con số đó chính là
những tín hiệu đã nằm ngay trong nền "văn
hoá sông nước" mà người nông dân từ đời này sang đời nọ vẫn đọc được.
Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của thiên nhiên để chung sống.
Văn hoá sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác Sông-Biển-Châu thổ-Con người cùng hoà nhập nhau theo từng nhịp đập.
Một ví dụ, chỉ riêng
chuyện di chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết tính trước khi nào
thì cho ghe xuôi theo con "nước
ròng", khi nào thì ghe ngược theo con "nước lớn", và cũng để thấy cấu trúc của lòng ghe bấy lâu
là làm sao dùng sức đẩy tối ưu của dòng chảy.
Và rồi trong tháng họ
biết lúc nào thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào thì thả con giống
cá tôm... mà không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu tát nước hay phải
dùng tới máy bơm.
Chính nhịp đập của "mẹ thiên nhiên / natural pulse"
là bạn đồng hành thân thiết bấy lâu của họ.Và nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một
cách thô bạo.
Cũng từ bao trăm năm, nông
dân ĐBSCL biết rất rõ là sông rạch nối liền với biển, có thuỷ triều lên nên mới
có được con nước lớn, và thuỷ triều xuống mới có con nước ròng, và cũng nhờ đó
mà sông rạch được làm sạch, có cá tôm và đã hình thành cả một nền văn hóa sông
nước.
Chúng tôi cùng hiểu rằng:
với cống đập kia, con sông bị cắt làm hai: chỉ còn một bên ngọt, một bên mặn, mất
hẳn một vùng nước lợ / blackish. Bên trong không còn nước lớn, nước ròng mà
sông biến thành hồ tù đọng, tích luỹ đủ mọi loại ô nhiễm, và không còn cá tôm. Bên
ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng bị nghèo đi và nông ngư dân cho biết, từ ngày
có cống đập không còn đâu nguồn tôm cá phong phú của cả một vùng nước lợ. Đó là
chưa nói tới tình trạng gián đoạn giao thông trên sông.
Rồi anh Ni đưa ra một
ví dụ rất tượng hình: "Cũng giống
như khai quật được một kho tàng cổ sử, người không chuyên môn thì chỉ thấy được
đó là những mảnh đá mảnh sành, cùng lắm là thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn
ngoèo vô nghĩa trên đó, nhưng với con mắt của nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết
và tín hiệu của cả một nền văn minh."
Và tôi cũng hiểu rằng,
bấy lâu với các chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào, chưa từng chung sống
và chết với nền văn minh sông nước ấy, họ đã có những chánh sách can thiệp thô
bạo chống lại mẹ thiên nhiên để phải trả giá rất đắt và nạn nhân không ai khác
hơn là chính ngót 20 triệu cư dân phải ngày đêm sống với những bất cập ấy như
hiện nay.
CÔNG TRÌNH CỐNG ĐẬP BA
LAI: MỘT HỐI TIẾC
Hai Mươi Năm qua
1997-2017, lãnh đạo Bộ Nông Nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 bộ trưởng:
1/ Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ
7 năm, 1997-2004
2/ Cao Đức Phát, nhiệm
kỳ 12 năm, 2004-2016
3/ Nguyễn Xuân Cường, nhiệm
kỳ 2016 đương nhiệm
Họ đến từ miền Bắc đã
và đang có những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh thái ĐBSCL, một
vùng thổ nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.
Chỉ thấy đơn giản nơi
ĐBSCL có triều cường triều kiệt, coi nước mặn là kẻ thù nên đã có một chiến lược
ồ ạt xây những đại công trình mà người ta gọi là Cống Đập Ngăn Mặn,mà Cống đập Ba Lai là một điển hình.
Được khởi công ngày
27.02.2000, dự án công trình cống đập Ba Lai chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã
Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng
VN. Con đập dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ 84 m được vận hành bằng một hệ thống
van tự động hai chiều. Quy hoạch trên lý thuyết, thì cống đập Ba Lai có chức
năng: ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho 115,000 hecta đất trong đó có 88,500 hecta
là đất canh tác, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến
Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với
phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic]
Hai năm sau, từ ngày
30.04.2002 cống đập Ba Lai được đưa vào hoạt động, được vinh danh là một công
trình thuỷ lợi lớn nhất của ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 9 cửa
của Cửu Long chính thức bị ngăn lại.
Hình 9: từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa
sông Ba Lai nhánh thứ 8 bị chính con người đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp
từ cả trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long.
[photo by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị]
Tính cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận
hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình Cống đập Ba Lai ấy ra sao? Chỉ
có những lời ta thán.
Hàng trăm cống ngăn mặn không đạt mục
đích vì còn chằng chịt những cửa
sông kinh
rạch không có cống ngăn mặn đã tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập đã xây.
Hình 10: Bến Tre nước ngọt khan hiếm, phải
dùng cả xe máy kéo để chở nước, có nơi dân phải mua 100,000 đồng / mét khối nước
[photo by Bình Đại, Zing VN 20.02.2016]. Bệnh
viện lớn nhất tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt. Mỗi ngày được xe tải cung cấp 10
mét khối nước ngọt, chỉ đủ cho các khoa phòng chia nhau từng lít nước. [photo
by Mậu Trường, TTO 14.03.2016]
Sông Ba Lai ngừng chảy.Thay
vì biến sông Ba Lai thành một hồ nước ngọt thì cư dân Bến Tre phải sống với nước
sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu
nước ngọt, đưa tới tình cảnh bệnh viện lớn nhất Bến Tre mỗi ngày được xe tải
cung cấp 10 mét khối nước ngọt chỉ đủ cho các khoa phòng chia nhau từng lít nước,
còn người dân thì sống trong tình trạng thiếu nước ngọt kinh niên, phải mua nước
ngọt có khi phải trả tới 100,000 đồng VN/ mét khối. [Tuổi Trẻ online
22.02.2016]
Giải thích của nhà nước
về "hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là:
do thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo, trong đó có hai hạng
mục quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền* trên hai con sông
Giao Hoà và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào "hồ
nước ngọt Ba Lai".
*Âu thuyền / canal lock: là một từ tương đối mới, chỉ một công trình chắn
ngang sông hoặc kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc giảm mực nước, giúp cho thuyền
hay tàu đi qua nơi có mực nước chênh lệch nhiều.
Theo phóng viên TTXVN
Phan Văn Trí, trích dẫn: "Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết để thi
công hai hạng mục đập và âu thuyền và một số hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng
200 triệu USD. Vì vậy, tỉnh đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn tranh thủ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho biết
tổ chức JICA (Nhật Bản) đã đến Bến Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và âu
thuyền. Tuy nhiên, việc khởi công có thể
còn phải chờ đến… năm 2020. Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe máy cày hay
xe bò kéo chở nước đem đổi cho người dân, với giá từ 70,000 đồng đến 100.000 đồng/m3,
chắc chắn vẫn còn diễn ra trong những mùa khô cho tới 2020. Điều đáng nói là nước
đó được lấy từ những chiếc giếng đào trên giồng cát, chưa qua xử lý…" [2]
Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng nay
chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất Nữ Cửu,
như hình ảnh một ĐBSCL bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu:
Ba Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Một
câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai - Bộ Nông nghiệp
& Phát triển Nông thôn, hay Bộ Tài Nguyên Môi trường hay chánh phủ trung
ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách "đem con bỏ chợ" như hiện nay,
phải chờ cho tới 2020 cho đến khi ODA của Nhật chịu rót vốn vào?
Từ bài học thất bại của đại
công trình cống đập Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi sinh như một
"think tank" đã không ngừng
lên tiếng cảnh giác rằng: nếu không có một đánh giá môi sinh chiến lược cho
toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình hạn mặn, rồi lập ngay quy
hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông
lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả sẽ khôn lường.
Khảo sát của nhóm IUCN /
International Union for Conservation of Nature Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên
nhiên tại VN đưa ra nhận định là do hệ thống cống đập khiến hai bên bờ sông Ba
Lai đang khép lại dần.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hận, ĐH Cần Thơ đã dùng một cụm từ rất gợi
hình để chỉ hệ thống cống đập Ba Lai khi ông gọi đó là "dòng sông bị cưỡng bức." Sông nay biến thành hồ chứa, ô
nhiễm thì tích luỹ nước đổi màu do rong tảo sinh sôi phía trong cống đập.
Th.S Nguyễn Hữu Thiện,
chuyên gia về nước ngập/ Wetlands cho rằng hàng năm vào mùa mưa do lượng nước
mùa lũ đổ về, toàn thể phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng xuống đáy sông Ba Lai
- nay trở thành hồ và với thời gian sông Ba Lai sẽ chết hẳn do bị bồi lấp.
[1]
Khi đưa ra cái nhìn toàn cảnh
hiện trạng và tương lai ĐBSCL, các anh trong
đoàn đưa ra một cái nhìn tổng quan không mấy lạc quan:
Đất bị mất do sạt lở bờ
sông bờ biển, trong
những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với nước biển dâng, và đất đai
còn lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ, từ nước thải sinh hoạt, công
nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng lớn phân bón, thuốc trừ sâu
từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.
Theo một nghiên cứu về lịch sử đất lún do nhà khoa học Minderhoud và một nhóm
chuyên gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental Research Letters, độ lún và vận tốc lún tại châu thổ ĐBSCL
đã xuống sâu 25 cm và thậm chí đến 50 cm theo biểu đồ KS Phạm Phan Long trích dẫn
chú thích và cung cấp sau đây. [Hình 10]
Trong những thập niên tới, biển dâng được dự đoán với vận tốc 5 cm/năm, như
vậy mặt đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt biển có thể đến 1 m trong vòng 100 năm nữa.
Trước tác động kép do sinh hoạt con người và do biến đổi khí hậu, ĐBSCL sẽ rơi
vào tình huống xấu nhất toàn cầu. Một đối
sách có tên “ASR, aquifer storage and reuse” đang được Viet Ecology Foundation đề bạt thảo luận
là lọc và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa ngăn mặn tập kích vào thềm lục địa,
vừa có nước ngọt sinh hoạt canh tác và tránh cho mặt đất tiếp tục lún xuống.
Sông Cửu Long. [nguồn: Environ.Res.Lett. 12 (2017) với ghi chú của
KS Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation]. Hiện nay, rất nhiều giếng tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm
mặn nhiễm phèn, nước giếng không còn dùng được, và nay người nông dân phải
khoan sâu 400-500m để tìm được nguồn nước ngọt, mặt bằng ĐBSCL đang bị sụt lún
nhanh chóng vì các tầng nước ngầm đang bị tận cùng khai thác.
Đã thế nhiều sông ngòi, bị
kế hoạch cống đập đã biến sông rạch thành hồ tù đọng, tích lũy ô nhiễm. Nước
sông ngòi không còn dùng được phải chuyển sang xài toàn nước ngầm nên tầng nước
ngầm cũng cạn kiệt nhanh và đất lún.
Còn có hiện tượng "tỵ nạn môi sinh/ ecological
refugees" của người dân ĐBSCL rời bỏ quê hương đi tới vùng đất khác,
tha phương cầu thực. Con số gần 2 triệu người đã đi khỏi vùng đất này trong hai
thập niên qua thì phải có những lý do như môi trường sống bị suy thoái, nguồn
tài nguyên ngày càng cạn kiệt.
Thủy điện thượng nguồn từ
Vân Nam Trung Quốc rồi Lào làm mất ngót 90% nguồn phù sa, không có gì thay thế;
biến đổi khí hậu với nước biển dâng có thể phần nào thích ứng nhưng còn vấn đề phát triển tự huỷ / destructive
development do tự mình gây ra đang là một nan đề lớn do chính sách "duy lý
và thiếu tầm nhìn chiến lược" đến từ trung ương đã gây nhiều tổn thương
cho ĐBSCL, gây trở ngại cho phát triển.
TỪ CỐNG ĐẬP BA LAI TỚI
SÔNG CÁI LỚN - SÔNG CÁI BÉ
Bài học thất bại của công
trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp &
Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ châu thổ
Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng
tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020,
từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập
Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công
trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu
quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Rõ ràng có những khoảng trống
của Dự án Cống đập SCL-SCB và các câu hỏi:
1/ Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi trường [ĐTM/ EIA] về Dự án Cống đập
SCL-SCB
là do Viện Kỹ Thuật Biển thuộc Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực
hiện, nhưng không thấy công bố ở đâu hết, với sự không minh bạch /
transparency như vậy thì làm sao có được sự góp ý của giới chuyên gia.
2/ Dự án SCL-SCB bao giờ khởi công và tình hình tới đâu chỉ
diễn ra sau những cánh cửa Bộ NN & CTNT ngoài ra không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3/ Và cũng là điều vô cùng ngạc nhiên là với gần 2 triệu
người di cư ra khỏi ĐBSCL trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc
điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ.
Hình 12: Sơ đồ dự án hệ thống
cống đập chắn mặn trên Sông Cái Lớn-Sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích
toàn ĐBSCL và ảnh hưởng tới đời sống hơn một triệu cư dân trong vùng. (6) [nguồn:
Ánh Sáng và Cuộc Sống]
Rõ ràng Dự án cống đập
Sông SCL-SCB đã thiếu hẳn một đánh giá chiến lược tác động môi trường [ĐTM/
EIA/ Environmental Impact Assessment] toàn diện và khách quan, bị ảnh hưởng bởi
quan điểm của chủ đầu tư/ nhóm lợi ích
chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, trong khi mà ai cũng biết
là dự án sẽ tác động tới toàn hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng
diện tích của ĐBSCL [hơn 1 triệu hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản
xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao
nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo. Và khi đã gây huỷ hoại trên hệ
sinh thái thường rất khó đảo nghịch.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Việt
trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ [Viện DRAGON] nhận định: cắt
đứt trao đổi nước giữa sông và biển chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới canh
tác sản xuất của nông dân quen sống theo nhịp thuỷ triều, giảm nguồn thuỷ sản
bên trên và bên ngoài cống đập, và do nước tù đọng sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.
Một chuyên gia Khoa Môi
trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần Thơ, nhận định về sự khác biệt của hai
chế độ thuỷ triều phía Biển Đông và Biển Tây. Phía Biển Đông là bán nhật triều:
nước lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển Tây là chế độ nhật triều, nước lên xuống
ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam Sông Hậu chế độ thuỷ văn phức tạp hơn nhiều,
chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật triều và bán nhật triều khác nhau. Trong
khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành theo một mô hình thô thiển: đóng cổng đập
khi triều cường, mở cổng đập khi triều kiệt. Hệ thống cống đập trên SCL-SCB sẽ
gây rối loạn cho chế độ thuỷ văn vùng này, làm "mất lực hút-đẩy" của
chế độ thuỷ văn thiên nhiên [sic] nước sẽ tù đọng tích luỹ ô nhiễm từ các chất
thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước thải không được xử lý đổ xuống từ các
khu gia cư.
NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN ĐÃ MỘT LẦN NÓI KHÔNG
TS Lê
Phát Quới, người Long An, giảng dạy tại Khoa Tài nguyên & Môi Trường ĐH Quốc
gia TP HCM, anh có giọng nói lớn, có nét trực tính của người dân Nam Bộ, anh
nói: "Sau công trình cống đập Ba
Lai, trung ương có kế hoạch xây thêm hệ thống cống đập trên cửa con sông Vàm Cỏ
là kết nối của hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Long An. Anh
Lê Phát Quới thuật lại: "Trong một cuộc họp với trung ương và cấp lãnh đạo
tỉnh cùng với các nhà khoa học - trong đó có thằng Quới, anh tự gọi mình là thằng,
cuộc họp có cả ông Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó. Khi tỉnh Long An
được hỏi ý kiến, thì lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời: sau khi phái đoàn tỉnh đi
thăm cống đập Ba Lai trở về, sau khi tham khảo ý kiến nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long An có câu trả lời là
không. Lưu ý các anh, là câu trả lời không phải từ tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân
dân mà là toàn dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân dân,
thì trung ương có thể dùng quyền lực đảng hay quyền lực trung ương để áp đặt,
nhưng là tiếng nói của toàn thể nhân dân Long An thì khác. Và rồi sau đó, kế hoạch
bị gác lại."
Anh Lê
Phát Quới đi tới kết luận: "nếu cứ để
thực hiện hệ thống cống đập trên con Sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa cho
toàn hệ sinh thái tỉnh Long An sẽ khủng khiếp như thế nào." Và anh Quới
không giấu được nét hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân tỉnh
hạt mình.
UỶ HỘI MEKONG VN, VẪN
MÃI MỘT ĐỊA CHỈ NGHỊCH LÝ
Từ sau 1975, đất nước
này nói chung trong đó có ĐBSCL đang được điều hành với những "đầu óc nghịch
lý".
Đứng từ trên một chiếc
phà đi ngang nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong ráng chiều chập choạng
của hoàng hôn, tôi quay sang hỏi một anh trong đoàn: "Hỏi thật lòng anh, là hiện nay người dân ĐBSCL có cảm thấy hạnh
phúc hơn không so với trước 1975." Chỉ có một câu trả lời khẳng định,
nếu có thì là các gia đình không còn bị ly tán và đất nước không còn chiến
tranh.
Tôi đã không hỏi anh
thêm nữa vì thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng tôi thì vẫn cứ bị
ám ảnh với con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương ĐBSCL đi tìm kế sinh
nhai. Cách biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng có 700 ngàn người mới
tới, không phải là một câu trả lời rốt ráo.
Hình 14: Vẫn một địa chỉ nghịch lý: Uỷ Hội
Quốc gia Sông Mekong Việt Nam, vẫn từ bao năm, vẫn toạ ngự tại địa chỉ 23 phố
Hàng Tre Hà Nội, nơi châu thổ Sông Hồng cách xa ĐBSCL hơn 1,600 km, thay vì là
Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, ĐH Cần Thơ. [tư liệu Ngô Thế Vinh, photo by
LN Hà]
Từ hơn hai thập niên, người
viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ của những con đập khổng lồ Vân Nam
của Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự
án đập của Cambodia: ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi
các hồ chứa và nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới nguy cơ của một tiến
trình đảo ngược khiến một ĐBSCL đang dần dần tan rã.
Những mối nguy cơ từ thượng
nguồn, gần như không làm gì được. Nhưng quá trình phát triển tự huỷ /
destructive development ngay nơi ĐBSCL trong mấy thập niên qua cũng phải kể là
những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên sự sống còn của cả một vùng
châu thổ. Có thể kể, từ sau 1975:
_ Xây đê đắp đập chắn
lũ mở rộng khu gia cư để làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên Tứ Giác
Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
_ Xây hệ thống cống đập
chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái ĐBSCL biến sông rạch
thành một hệ thống hồ ao tù đọng.
_ Xây dựng 14 nhà máy
nhiệt điện than nơi ĐBSCL gây ô nhiễm đất, nước, không khí trên toàn vùng.
Phát triển với những bước
không bền vững / unsustainable development như trên đã làm tổn thương trên toàn
hệ sinh thái ĐBSCL và các nguồn tài nguyên thì cứ nghèo dần đi.
Để thay kết luận, người viết
gửi tới ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, người thay thế Bộ trưởng
Cao Đức Phát sau 12 năm tại nhiệm, câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của
một sinh viên vào học Y khoa: Primum Non Nocere / First do no harm / trước
hết là không gây hại. Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một lượng
giá chiến lược ảnh hưởng môi trường [ĐTM] khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ
đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh/ fragile của một
vùng châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu có nhất
trên hành tinh này.
Qua kinh
nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng
bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm làm đê
ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt,
những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng vì
dòng chảy không lưu thông, tù đọng. Xây dựng cống đập Ba Lai đã rất tốn kém,
nhưng khi phát hiện sai lầm - nếu có thiện chí sửa sai, thì việc phá bỏ, làm sạch
môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất tốn kém và không thể
mau chóng và không phải là dễ dàng.
Tiếp tục
biện pháp xây dựng công trình cống đập ngăn mặn rất tốn kém sẽ cắt đứt thô bạo
mối liên hệ cân bằng hệ sinh thái sông - biển - đồng bằng, qua công trình cống
đập Ba Lai đã chứng minh là không tạo được lợi ích và giải quyết được chuyện gì
cho cư dân ĐBSCL mà còn đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái của
cả một vùng châu thổ.
Như một nhắc nhở và nhấn mạnh,
người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ Tướng chánh phủ kiến
tạo Nguyễn Xuân Phúc: hãy cho hoãn ngay
Dự án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn - Sông Cái Bé một thời gian/ time
frame ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân sách 3,300 tỷ dự trù cho dự án để
thành lập ngay một nhóm nghiên cứu ĐTM độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên
gia Hoà Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình
khảo sát cơ bản cho ĐBSCL], và bảo đảm rằng Đánh giá Tác động Môi trường được
thực hiện một cách công tâm, thận trọng bởi những người không có liên hệ gì tới chủ đầu tư hay nhóm lợi ích, để sau thời
gian 5 năm đó, nhà nước sẽ có được một bản
tường trình lượng giá ảnh hưởng môi trường đầy đủ khách quan và minh bạch,
với tất cả mọi tình huống pros &
cons để từ đó mới có quyết định "nên
hay không nên" triển khai dự án được mệnh danh là công trình của Thế Kỷ
ấy. Cũng trong bản tường trình ấy, cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về
nguyên nhân nào đã khiến 2 triệu cư dân ĐBSCL phải
rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai. Được như thế
thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về ĐBSCL [17/11/2017] trong
đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên tắc: “thuận
thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên
nhiên.”
NGÔ THẾ VINH
ĐBSCL 12.2017 - 02.2018
Tham
Khảo:
1/ Có còn con sông nước lớn, nước ròng? Lê Quỳnh. Báo Người
Đô Thị online Thứ hai, 20/06/2016
http://nguoidothi.net.vn/co-con-con-song-nuoc-lon-nuoc-rong-4042.html
2/
Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba Lai trở thành ...
mặn quá. Phạm Văn Tri, TTXVN 06.08.2016 https://baomoi.com/thieu-von-du-an-ngot-hoa-song-ba-lai-tro-thanh-man-qua/c/20027474.epi
3/ Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án thuỷ lợi 3,300 tỷ đồng ở
Miền Tây. Huỳnh Xây, Dân Việt, 03.06.2017
http://danviet.vn/nha-nong/chuyen-gia-de-nghi-tam-dung-du-an-thuy-loi-3300-ty-dong-o-mien-tay-775724.html
4/
Phát triển ĐBSCL: Tốn tiền tỷ mà trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu Thiện;
VietnamNet 27.11.2017 http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-truong/phat-trien-dbscl-ton-tien-ti-ma-trai-quy-luat-thi-tra-gia-dat-413188.html
5/
Ngăn đập sông
Cái Lớn - Cái Bé: ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Phạm Anh; Tiền Phong
02.06.2017 https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ngan-dap-song-cai-lon-cai-be-dbscl-se-bi-anh-huong-khong-nho-1154506.tpo
6/ Băn khoăn xây cống Cái Lớn – Cái Bé, Sáu Nghệ; Ánh
Sáng và Cuộc Sống; 26.06.2017http://anhsangvacuocsong.vn/ban-khoan-xay-cong-cai-
Ngọc để trâu vầy...lũ khuyển mã này làm chết cả nước, từ Formosa tới Cửu Long. Ma quỷ.
Trả lờiXóa