Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2018
Đặng Tiến: Con chó dọc đường lịch sử
by Doan Hong
Loài chó đã kết nghĩa từ lâu đời với con người khắp thế giới, trong đó
có Việt tộc: di chỉ khảo cổ và truyền thuyết dân gian chứng minh dồi dào điều
đó.
Trong thơ văn, con chó đã góp mặt rất sớm qua bài thơ Vô Đề, mở đầu
Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, tác phẩm bình minh trong nền thi ca Việt Nam :
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn
Ngày xưa nước ta con chó không có tên, được ô theo màu lông, con vằn,
con vện, con mực, con khoang... Vằn, vện
cùng nguồn gốc ngôn từ, là chữ văn
trong Văn Lang, văn hóa, văn minh; có khi phát âm ra vân trong quả cau nho nhỏ,
cái vỏ vân vân... Câu thơ Nguyễn
Trãi: xú xứa nghĩa là xuề xòa, xuềnh
xoàng; ngại nuôi vằn vì bạn mình ưa lục lọi, nên tục ngữ có lời khuyên: chó treo, mèo đậy; nhà thơ mải lo tiếp mây khách
khứa, nguyệt anh em ắt không mấy để tâm đến việc đậy điệm, treo leo.
Tác phẩm Nguyễn Trãi còn lưu truyền đến nay là nhờ vua Lê Thánh Tông
giải oan và ra lệnh sưu tầm; Thánh Tông sống sót là do Nguyễn Trãi bao che, và
lên ngôi nhờ công Nguyễn Xí phù lập. Nguyễn Xí lập sự nghiệp bắt đầu từ việc...
nuôi chó: ông có tài điều khiển đàn chó săn hàng trăm con của Lê Lợi, trước khi
cầm quân thời khởi nghĩa Lam Sơn và trở thành danh tướng.
Bóng dáng, tiếng sủa của con chó gắn bó với phong cảnh làng mạc Việt
Nam, được Nguyễn Khuyến ghi lại bằng câu thơ tài tình :
Trâu già gốc bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người
Lời lẽ nôm na, toàn những tiếng đơn âm, gợi lên phong cảnh, khí hậu
buổi trưa hè Việt Nam trong những chi tiết độc đáo và chọn lọc, hơi thở mạnh
của con trâu trong khí nóng bức và im ắng, khiến một âm hao nào đó của con
người cũng đủ khuấy động không gian, làm giật mình con «chó nhỏ» thơ ngây. Câu
thơ nôm na như vậy dễ làm người đọc quên nguyên tác bằng chữ Hán:
Ngọa thụ bì ngưu hư thử khí
Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh
Bài này Nguyễn Khuyến làm để tặng người anh họ là Đặng Tự Ý và tự dịch
ra quốc âm. Có lẽ câu thơ dịch hay hơn nguyên tác, vì hợp tình hợp cảnh hơn.
Thời thế đổi thay, con chó cũng đổi thay. Có lần Tổng đốc Nam Định là
Vũ Văn Báo, theo lệnh chính quyền Pháp, vời Nguyễn Khuyến đến nhà, có ý mời ra
làm quan. Nguyễn Khuyến cùng đi với con cả là Nguyễn Hoan, vào đến cổng dinh
tổng đốc thì gặp viên công sứ Pháp đi ra, lại bị con chó tây chồm lên cắn;
Nguyễn Khuyến hoảng hốt đẩy con ra chắn chó. Sau đó, trong câu chuyện với chủ
nhân, ông đã làm thơ tức cảnh:
Hốt đáo nhĩ môn phùng nhĩ cẩu
Cấp tương ngô tử thế ngô thân
Tạm dịch :
Chợt đến cửa ngươi, gặp chó ngươi
Kíp đưa con mỗ thay thân mỗ
Không rõ đây là chuyện thật, hay là giai thoại, hư cấu theo chuyện
Nguyễn Khuyến từ quan nhưng đẩy con trai, phó bảng Nguyễn Hoan, ra tham chính
thay mình. Dù sao hình ảnh con chó tây xuất hiện ở đây, cũng đánh dấu một giai
đoạn xã hội khác, đời mới, người mới, chó mới, như trong bài văn tế Ri-vi-e
(Henri Riviere), chết tại trận Ô Cầu Giấy, năm 1883 :
Nhớ ông xưa
Mắt ông xanh lè, mũi ông thò lõ
Đít ông cưỡi lừa, mồm ông huýt chó
*
Chế độ thuộc địa Pháp cáo chung vào năm 1945 và dẫn đến cuộc chiến
tranh Việt Pháp. Người lính da trắng đầu tiên của Việt Minh là Erwin Borchers
lấy tên Việt Nam là Chiến Sĩ và có lẽ là công thần ngoại quốc số một. Ông là
lính lê dương gốc Đức, thuộc quân số Trung Đoàn 5 REI lừng danh, quan hệ với
phong trào Việt Minh từ 1944 vì chuyện... một con chó! Ông kể lại là đã chứng
kiến hai cảnh ngộ: một đầu bếp Việt Nam thịt con chó của ông chủ người Pháp,
thì lãnh một tháng tù; còn anh lính lê dương đâm chết một phu xe Việt Nam vì kì
kèo tiền xe thì lãnh 15 ngày tù: vậy sinh mệnh con người Việt Nam chỉ đáng giá
nửa con chó tây. Đây là khởi điểm một ý
thức chính trị đã đưa ông đến quyết định đào ngũ và hợp tác với phong trào
giải phóng, chủ yếu là viết bài cho báo Le
Peuple, về sau phụ trách huấn luyện, phục kích và địch vận, quân hàm thiếu
tá (1).
Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Quang Dũng là một tác giả hiếm
hoi ghi lại đôi mắt con chó, khi Trung Đoàn Thủ Đô rút quân:
Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Dân ta gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ chó gầy mắt hoang dại
(1947, Sử Một Trung Đoàn)
Khi phát động du kích, 1947, những hy sinh hằng loạt đầu tiên, là những
con chó, để bảo vệ bí mật chuyển quân. Hai mươi năm sau, 1968, trong vụ Tổng
công kích Mậu Thân, những ngày áp Tết, loài chó, một lần nữa lại nhất loạt hy
sinh. Sau trận tập kích, những con chó lạc chủ lang thang lại mất mạng. Cứ mỗi
lần đất nước có biến động lớn lao, loài chó là những nạn nhân tiền tiêu. Và món
thịt cầy cũng tùy nghi thăng trầm, phát triển, chúng tôi xin miễn dẫn chứng hay
lý luận chi tiết ở đây, e mất vui ngày Tết.
Lạ một điều: thơ đương đại ít khi tả chó, dù nó vẫn là bóng dáng và âm
vang quen thuộc của làng quê. Trong tập Bức
tranh Quê, 1941, Anh Thơ đã tả chó sáu lần. Huy Cận thường tả cảnh nông
thôn, nhắc đến nhiều súc vật, mà dường như không tả chó. Hay là nhà thơ Ngô văn
Phú, chuyên viên về đời sống nông thôn, trong một tuyển tập dày cộm gồm 400
bài, chỉ một lần tả chó, mà là chó đất làm đồ chơi, con tò he (2).
Người đọc khó bề giải thích sự việc này bằng chính sách, lập trường.
Trong thơ cổ điển, chó cũng ít xuất hiện, có lẽ vì con chó, và tên chó hàm ý
xấu, như tên Khuyển Ưng, chó săn chim mồi trong truyện Kiều. Từ đó ta có thể
nhận xét trong thơ đương đại, những tác giả bên lề đường lối, lại thường nhắc
đến chó. Ví dụ Hoàng Hưng có nguyên một bài thơ về đề tài này (3):
Chó Đen và Đêm
1
Con chó
Con chó đen
Con chó đen chạy vào đêm
Đêm gừ gừ, ấm ấm
2
Chó đen sủa bông sứ máu
3
Chó đen ngửa mặt nhìn trăng
4
Chó đen rin rít những điều khó hiểu
Hồn ai đang lang thang trong đêm
5
Buồn quá chó ơi
Ai cũng bỏ ta rồi
Phì phì mày ghếch mõm vào môi
6
Chó đen sùng sục suốt đêm
Nỗi ngứa ngáy tiền kiếp
Phát điên vì không nói được
Chó ở đây không phải là một súc vật có thật — nó sẽ là chó Mực — mà
biểu tượng cho bóng tối, đau thương, cô đơn, u uẩn, uất ức.
Cùng một cảm hứng như vậy, Tuệ Sĩ có bài Tĩnh Thất (4) dài 32 khổ, làm năm Tân tỵ, hai khổ 5 và 6 như sau :
Lon sữa bò nằm im bên chợ
con chó lạc
đến vỗ nhịp
trời mưa
Tôi lang thang
đi tìm cọng cỏ
Nó nhìn tôi
vô tư...
Trời cuối thu se lạnh
Chó giỡn nắng bên hè
Nắng chợt tắt
Buồn lê thê.
Trong các bộ môn văn học nghệ thuật, thơ là một thể loại nặng tính cách
chủ quan, riêng tây, nhưng ngược lại, cũng giàu chất đại đồng (universalité)
nhất; những câu thơ Tuệ Sĩ, Hoàng Hưng là cách nhìn, cảm xúc cá nhân, nhưng như
xé ra những mảng da thịt rớm máu từ lịch sử dân tộc. Những biểu tượng tù đày,
oan khiên, tuyệt vọng không nói nên lời. Để có cái nhìn thảm thiết kia, các tác
giả phải trải qua những nghịch cảnh, những oan khuất. Họ không làm thơ ngẫu
hứng, tự trào, ngâm vịnh buồn vui; họ cũng không đẽo gọt những hình ảnh văn
chương trác tuyệt lưu lại cho sử sách, do đó mà đã sử dụng hình ảnh con chó,
vốn được yêu thương và bị nguyền rủa và... thưởng thức. Nghiệm trong lịch sử
dân tộc gần đây, không ai, và không cái gì là vô tội, con chó cùng chung số
phận: chó là một gia súc bán hợp pháp, một hồ sơ chưa kịp, hay chưa cần thụ lý.
*
Hình ảnh con chó đa dạng, đa nghĩa, hàm súc, thâm trầm và hoa mỹ nhất
là trong thơ Tô Thùy Yên, tôi đếm được 15 lần trong hơn 30 năm - nhất định là
thiếu sót. Trong chừng mực nào đó, là con chó nhỏ của ca dao
... con chó nhỏ sủa dai
sủa nguyệt lâu đài, sủa bóng trăng lu
Hay trong thơ Tào Đường :
Thời thời khuyển
phệ động trung xuân
(Động xa chó sủa
rộn lòng xuân)
ĐT
lược dịch
Cả hai câu ca dao và thơ Đường
đều do Tô Thùy Yên trích dẫn để “ghi chú” thơ mình (5).
Bài Vườn Hạ tạo nên không gian an bình, hạnh phúc, như thiên đường xanh những mối tình thơ dại trong
thơ Baudelaire:
Mênh mang lưu thủy
trường trăng lạnh
Con chó tung tăng
giỡn bóng mình
Mương nước rì rào
sao sáng thở
Đài hoa sương nạm
hạt lân tinh (6)
Thơ Tuyển, tr.93
Tác giả không ghi thời điểm
sáng tác; tôi nhớ là khoảng 1974. Bài thơ gồm 17 khổ thật hay, về hạnh phúc của
quê hương thơ ấu miền Nam Bộ. Trong không gian thiên đường xa xôi ấy, cảnh tử
biệt sinh ly vẫn êm ả, thơ mộng:
Con chim lạc bạn
kêu trời rộng
Hồn chết trôi miền
dạ lý hương
Thơ Tuyển, tr.94
Nhưng chiến tranh đã ập đến.
Cuộc tranh chấp năm châu thế giới đã òa ập xuống đầu một dân tộc nhỏ bé, trên
quê hương mong manh trăng tơ và nắng lụa:
Xa nghe đợt gió lên
cơn bão
Nhân loại quay
cuồng biến đổi sâu
Bầy chó năm châu
cắn sủa rộ
Quỷ ma cười khóc
rợn đêm thâu...
Thơ Tuyển, tr. 46
Bài thơ làm tháng 7-1972, tên Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, gồm 24 khổ,
có những hình ảnh mới mẻ nổi tiếng:
Ta dậy khi gà
truyền nhiễm gáy
Chân mây rách đỏ
vết thương dài.
Thơ Tuyển, tr.59
Những đoạn thơ đánh dấu hoàn
cảnh đất nước và tâm trạng con người lúc đó:
Sống trên đời,
chuyện ghê gớm quá
Vậy mà ta sống, có
kỳ không?
Nước mắt ta tuôn
khi nghĩ tới
Những người đã
chết, chết như rơm
Thơ Tuyển, tr.43
Tiếp theo là hình ảnh con chó,
trong bài Mùa Hạn, 47 khổ, làm trong
trại tù Nghệ Tĩnh, năm 1979 :
Làng mạc giờ đây đã
trống trơn
Con dê con chó cũng
không còn
Người đi bỏ xác nơi
bờ bụi
Miếu sạt, thần
hoàng rũ héo hon
Con chó không còn, nhưng vẫn
còn tiếng tru rân:
Cái chết tru rân
giờ nguyệt tận
Máu bung từ mỗi lỗ
chân lông
Mọi người nghe
chính mình kêu rú
Liệu sáng mai còn
ai nữa không?
Thơ
Tuyển, tr.104-103
Sau 13 năm tù, tác giả sang
định cư tại Hoa Kỳ từ 1993. Bài Nhà Xưa,
Lửa cất ủ, trong Thắp Tạ, gồm 21 đoạn, làm năm 1997:
Nghe trong xanh
thẳm thời gian
Dai dẳng
Tiếng con chó nhỏ
bên hè
Sủa bóng trăng lu
...
Bàn thờ nhện giăng
Nói chi cơm cúng
Tội cho hồn con chó
nhỏ vẫn nằm chờ
Mơ màng người chủ
vừa ra đi.
Đây là cảnh ngộ của nhiều
người, tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử. Nhà thơ gửi thêm vào một hoài niệm
riêng:
Em đứng lại, khóc
cựu tình sơ ngộ
Nghe hồn con chó
nhỏ quấn mừng em.
Thắp
tạ, tr. 60,62 và 66
Sơ ngộ mà đã cựu tình, là một
cơ duyên tuy hiếm hoi, nhưng vẫn có thể xảy ra. Ngược lại, cựu tình mà hóa
thành sơ ngộ là chuyện thường xuyên ngày nay (lạc đề). Kẻ bất tài nhại thơ vớ
vẩn: con chó thủy chung vì con chó nhỏ, chó lớn lên, rồi chó sẽ khôn hơn. Tô
Thùy Yên với cái ý như vậy, làm thơ hay hơn:
Nắng mưa thấm thoát
đời ta
Mối mọt căn nhà rệu
rã
Đòi phen năm tháng
cũ dò về
Chó già lạ hơi sủa
Chuyện đời như thất
thiệt
Vàng đá còn không
giữ nổi mình
Biết nhờ đâu xác
chứng ?
... Quê nhà nghe
nói có
Chỉ dấu tìm không
ra
2002, Thắp tạ,
tr.100-102
Con chó đeo đẳng mãi với thơ
Tô Thùy Yên, càng ngày càng bi thiết. Trong bài mới làm hồi tháng 5-2005, ông
tự xem mình là “Khất giả”:
... Khất giả còn
đi
Lê mấy lời thương
thảm cổ đại
Vào sâu mãi xóm
trong?
Ra bữa xin chưa đủ
Thân đọa đày thân
phải chịu thôi
Chỉ mong đồng loại
chớ xua đuổi
Giờ này thế giới
kín khuya khoắt,
Còn cửa nào cho ta
gõ đây?
Lũ chó sủa rong
theo
Quả đáng ngờ vực,
mọi nhân dạng (7)
Câu cuối chua xót: con người
mất xứ sở, mất tài sản tinh thần, may còn
tiếng nói tùy thân, mất niềm tin,
nơi mình, nơi kẻ khác. Ngờ vực cả nhân gian, nhân dạng, cả nhân tình, nhân
tính. Lũ chó sủa rong theo là một biểu tượng cay nghiệt và cay đắng.
*
Chuyện ngày Tết, lẽ ra phải
vui, nhưng cuộc đời vẫn có chuyện không vui, cho dù ngày Tết. Trong tiếng Việt,
chó là lời nguyền rủa. Thường thường là nặng nề và oan ức. Con chó tự nó không
có gì xấu; cái ta cho là xấu là do con người sai khiến, luyện tập. Gần gũi với
con người, nó cam chia sẻ số phận của con người, “con không chê cha mẹ khó, chó
không chê chủ nhà nghèo.” Trong hoàn cảnh xã hội đảo điên, lịch sử nghiệt ngã,
chó trở thành biểu tượng u uất, đa nghĩa, như trong đoạn thơ Tô Thùy Yên dưới
đây, tôi mượn làm lời kết luận bài này:
Chuyện kể cốt qua
đêm, nề chi chuyện kể lại
Chó tru, miền xa
tối rợn gai
Nơi hốc đá một cành
hoa đợi sáng nở
Đi. Đi qua. Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa.
2003,
Thắp tạ, tr. 116
Orleans,
21/12/2005
Chú
thích
1. Jacques Doyan, Les Soldats Blancs de Ho Chi Minh (Những
người lính da trắng của Hồ Chí Minh) tr. 45-46, nxb Fayad, 1973, Paris.
2. Ngô Văn Phú, Tuyển Tập, tr. 407, nxb Hội Nhà Văn,
2000, Hà Nội.
3. Hoàng Hưng, Người đi tìm mặt, tr. 33, nxb Văn Hóa
Thông Tin, 1994, TPHCM.
4. Tuệ Sĩ, Giấc Mơ Trường Sơn, tr. 74-75, nxb An
Tiêm, 2002, Paris-San Jose.
5. Tô Thùy Yên, Thắp Tạ, tr. 128, 135, nxb An Tiêm,
2004, Houston.
6. Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tác giả xuất bản, 1995,
Minnesota.
7. Tô Thùy Yên, Khất giả, Tạp chí Gió Văn, tr. 4, số 5,
2005, Texas.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét