Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2018
ĐÀM TRUNG PHÁP: NGÁT HƯƠNG VĂN CHƯƠNG HOÀN VŨ: THE OLD MAN AND THE SEA CỦA ERNEST HEMINGWAY
Sinh năm 1899 tại Illinois, Ernest Hemingway được coi là một trong các nhà
văn lỗi lạc nhất của Hoa Kỳ trong thế kỷ XX, và
được thế giới biết đến nhiều nhất qua các tác
phẩm “A Farewell to Arms” và “The Old
Man and the Sea.” Ông tự kết liễu đời mình năm 1961 ngay trước cửa nhà tại Idaho. Dùng một khẩu súng
săn chim muông hai nòng,
Hemingway tự bắn vào trán
óc văng tung tóe,
sau những năm mải mê –
ngoài lãnh vực văn chương ra – với chiến trận, săn bắn dã thú,
câu cá ngoài
biển cả, toàn
là những hoạt động hiểm nguy đầy nam tính
và thách thức cuộc đời. Văn phong ngắn gọn và
trong sáng của ông
đã ảnh hưởng lớn lao đến lối viết của nhiều nhà
văn Hoa Kỳ và
Anh Quốc trong thời đại ông. Lối viết đó thường chỉ sử dụng các
câu đơn giản với ít
mệnh đề, tránh
xa các câu phức tạp dài
lòng thòng với nhiều mệnh đề. Các
câu ấy sử dụng danh từ và động từ nhiều hơn các
tính từ và
trạng từ có
mục đích
làm huê dạng câu văn; chúng cũng ít khi biểu lộ cảm tính. Đây là
một thí dụ trích từ tác phẩm này của Hemingway: “Every day is a new day. It is better to be lucky. But I would rather be
exact. Then when luck comes you are ready.” Lối viết độc đáo này
phản ánh trung thành
cái “Iceberg Theory” (Lý Thuyết Băng Đảo) của chính
Hemingway. Theo đó
phần đỉnh băng đảo trên
mặt nước là
nơi chứa đựng văn viết sơ sài
không trang điểm với nhiều yếu tố tác giả “cố tình bỏ lửng”
và phần đáy băng đảo chìm
dưới nước là
nơi người đọc tự tìm
ra hàm ý của những yếu tố đã bị tác giả khéo
léo “bỏ lửng”
ở bên trên. Kiệt tác “The Old
Man and the Sea” cũng là
sự đóng
góp sau cùng và
đáng kể nhất của Hemingway vào nền văn học Hoa Kỳ nói
riêng và văn học thế giới nói
chung.
Nội dung của tuyệt tác chỉ là câu
chuyện giản dị về một ngư phủ già (mang tên
Santiago) sau gần 3 tháng
không may mắn ngoài
biển thì câu
được một con cá
khổng lồ. Con cá
chống cự mãnh
liệt trong suốt 3 ngày
và đêm,
kéo thuyền của Santiago ra tuốt ngoài
khơi Cuba. Sau nhiều hiểm nguy và thương tích đầy người, Santiago không bỏ cuộc, để rồi cuối cùng đã giết con cá bằng cách dùng
cây lao dài đầu nhọn (harpoon) đâm vào
tim nó. Cột chặt con cá vào
sườn thuyền, ông
già dương buồm để vào
bờ. Nhưng máu
con cá hòa trong nước biển đã lôi
cuốn một bầy cá mập bơi tới, tranh nhau xỉa hết thịt nó.
Con cá mập nguy hiểm nhất cũng bị Santiago đâm chết. Ông cụ buồn bã
trở về cùng
với bộ xương con cá còn
cột vào sườn chiếc thuyền, rồi nằm ngủ một giấc dài
mơ thấy nhiều cảnh hạnh phúc. Nhiều người coi tiểu thuyết sơ sài này,
viết theo “lý
thuyết băng đảo,” là
một tập hợp các ngụ ngôn và
chuyên chở nhiều ẩn dụ cho tôn giáo
cũng như cho đời thường. Ta thấy về tôn giáo
thì Santiago là ẩn dụ rõ
rệt cho Đấng Cứu Thế – ba ngày vật vã
ngoài biển khơi với con cá lớn hơn cả chiếc thuyền của mình
nhắc ta đến ba ngày
mà Ngài bị đóng
đinh và chết trên một thánh giá
để chuộc tội cho nhân loại. Con cá mắc mồi câu
của Santiago hàm ý
những nét quý
phái, mạnh mẽ, đáng
nể phục. Bầy cá mập rõ là
hiện thân của phá hoại, của ma quỷ. Và Santiago một mình trong chiếc thuyền đánh cá
nhỏ bé cũ kỹ giữa biển cả cho thấy vị thế quá
mong manh (vulnerable) của con người trong thiên nhiên
vô tận.
“For Whom the Bell Tolls” được xuất bản năm 1940, tức là hơn một thập kỷ trước khi “The Old Man and the Sea” xuất hiện năm 1952. Trong khoảng thời gian 12 năm im lặng giữa hai tuyệt tác, Hemingway bị văn giới coi như đã “hết thời”
– một điều làm
ông khó chịu vô cùng.
Nhưng thành công
rực rỡ của “The Old Man and the
Sea” đã “giải tỏa”
được hết nỗi niềm bực tức bấy lâu cho ông.
William Faulkner (1897-1962, khôi nguyên
Nobel văn chương 1949) rất ngưỡng mộ “The Old Man and the
Sea” với nhận định rằng đã từ lâu Hemingway thường cho các nhân
vật trong tiểu thuyết tự tạo ra mình, được hay thua là nằm trong bàn
tay của mình để xem ai là nhân
vật “chì”
(tough) nhất trong đám.
Nhưng nay Hemingway đã
khám phá ra Ơn Trên mới là thẩm quyền tạo ra mọi sự, và đã biết đến lòng
thương xót (pity) –
như khi viết một cách thành
tâm về nỗi buồn của ông già
Santiago đã mất con cá lớn (đáng
giá một lợi nhuận to) vào
bụng lũ cá
mập dữ dằn.
Ông già Santiago trong truyện được Hemingway mô
tả dựa vào
nhân dạng thật của “Gregorio Fuentes” – thân mình khắc khổ gầy còm
với khuôn mặt phong sương –
là người bạn chí thân thường đi câu
cá lớn trên
biển cả với tác giả. Con cá khổng lồ Santiago “câu”
được tên tiếng Anh là “Atlantic blue marlin.” Marlin (Hán Việt: mã lâm
ngư 馬林魚) là một trong những loại cá
lớn nhất ở đai dương, có thể dài đến 14 feet và nặng đến 2 ngàn
pounds. Còn con cá mập dữ dằn đáng sợ đã
bị Santiago đâm
chết thì tên
tiếng Anh là “mako shark” (Hán-Việt: hôi
kình sa 灰鲸鲨). Loại cá
mập này bơi nhanh nhất và
uyển chuyển đến nỗi có
thể nhảy vào
thuyền để tấn công ngư phủ. Chúng
cũng đã
sát hại nhiều người, ngang ngửa với loại “great white
sharks” (Hán-Việt: đại bạch sa 大白鯊) thường được coi như là
bá chủ đại dương.
Nguyệt san LIFE tháng
9 năm 1952 có trích
đăng một đoạn của “The Old Man and the
Sea” và
chỉ trong có 2 ngày
thôi mà tất cả 5 triệu cuốn nguyệt san ấy đã bán
hết sạch! Giới phê bình
ca ngợi cuốn tiểu thuyết ấy lên đến trời xanh. Nó
cũng là lý
do chính để Hemingway được giải Nobel văn chương 1954 với lời giải thích súc
tích và chính
xác của ban tuyển chọn giải Nobel đầy uy tín:
“Giải Nobel văn chương 1954 được trao cho Ernest Hemingway căn cứ vào
khả năng viết văn kiệt xuất, như mới đây đã chứng tỏ trong The Old Man and the Sea và vào ảnh hưởng của ông
đến văn phong thời đại.”
Và ngay năm sau đó nó
cũng đã
được giới thiệu trong nghệ thuật điện ảnh, với tài tử Spencer Tracy thủ vai ngư ông Santiago một cách xuất sắc.
[ĐTP 09-02-18]