Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2018
Hoàng Xuân Trường: QUEN BIẾT ANH TRẦN VĂN NAM VÀ NHỮNG CƠ DUYÊN
Anh Trần Văn
Nam vừa ra đi. Nhiều bạn bè thân thiết của
anh chắc sẽ nhớ thương anh mà nhớ lại được nhiều hồi tưởng. Nhưng riêng đối với tôi, khi ngồi nhớ lại những
kỷ niệm, những trường hợp quen biết một người bạn hiền lành đáng quí, tôi nhận thấy giữa chúng tôi như có một sợi
dây nhân quả vô hình nào đó, đầy những cơ duyên để gặp được nhau và quen biết
nhau.
Thật ra, tôi
đã không phải là một trong những người bạn thân thiết nhất của anh. Tình bạn giữa
tôi và anh có thể ví như đạm thủy nhưng không thiếu sự đồng cảm và tương kính. Và hôm nay, khi ngồi nghĩ lại những cơ duyên
đưa đẩy để chúng tôi, hai người khác hẳn nhau về hoàn cảnh lớn lên, về cá tính,
đã quen biết nhau và quí trọng nhau, tôi
mới thấy những cơ duyên này hơi bất ngờ và khác lạ. Anh lớn hơn tôi bốn tuổi, sinh ở miền Nam, học
Văn Khoa khi tôi học Trung Học. Ra trường
anh dạy học trong khi tôi đi lính. Đầu mối duy nhất của sự quen biết chỉ giản dị
là anh thích làm thơ và tôi thích đọc thơ.
Cái đầu mối sơ
khởi và giản dị này bắt đầu từ hơn năm mươi năm trước đây, khoảng năm 1963, sau
khi vừa tốt nghiệp Trung Học, tự nhiên ở đâu ra tôi được đọc một tập thơ nhỏ của
anh và trong tập thơ đó, trí nhớ không gì tốt lắm của tôi lại khắc sâu vào tâm
tư một cách bền chắc vài câu thơ rời rạc:
“Trong làn mưa bụi bay lâm râm Hồn
ma đắm bể còn trôi nổi Thây vướng vào chân
những đá ngầm”. Tôi nhớ ba câu thơ
cũng như tôi nhớ cái tên Trần Văn Nam, cũng
là bút hiệu của tác giả, một cái bút hiệu giản dị, chân chất. Nghĩ lại, ba câu thơ kể trên thật ra cũng
không có gì đặc sắc, nhưng không hiểu sao, chúng cứ mãi nằm sâu trong tâm thức tôi trong
suốt hơn nửa thế kỷ của đời người, đã theo tôi từ những ngày đi học, những ngày
đi lính ở cao nguyên hay vùng đồng bằng
Cửu Long, từ những ngày tù tội cho đến những ngày luân lạc xứ người . Thỉnh thoảng
mỗi khi trong tâm thức chợt hiện ra ba câu thơ trên, tôi lại tự hỏi là cái anh
tác giả này hiện ở đâu, làm gì mà sao không thấy nhắc đến tên nữa.
Cái giao tiếp
mong manh khởi đầu đó thường chỉ là một cái duyên bèo nước giữa một người làm
thơ và đọc thơ nếu tôi không được gặp anh hơn bốn chục năm sau. Hôm đó, khoảng năm 2000, tôi ra mắt sách cuốn Chiến
Tranh Đông Dương 3 lần thứ nhất ở California.
Tôi không biết nguyên nhân nào đưa đẩy anh khiến anh đi dự buổi ra mắt sách đó. Anh chẳng biết tôi là ai, tôi cũng chẳng có
tên tuổi gì, anh lại không thích đọc
sách chiến tranh, chỉ thích những tác phẩm văn học, nhưng anh đã đến dự và một điều
thật bất ngờ là sau đó anh đã đến tìm tôi và tự giới thiệu. Nghe
được tên anh, cái tên thật bình thường cho một thi sĩ, tôi vội hỏi ngay
có phải anh là tác giả ba câu thơ tôi vẫn chứa chất trong đầu không. Anh thích thú công nhận và từ đó, chúng tôi
quen nhau.
Lý do trực
tiếp để anh Nam tới gặp và nói chuyện với tôi hôm đó là vì anh Hoàng Khởi
Phong, khi giới thiệu về tôi trong buổi ra mắt sách kể trên, chẳng hiểu sao lại
ngứa miệng nói thêm là cuốn sách thứ hai của tôi sẽ là một cuốn sách về Thiên
Văn, cuốn Đi Vào Cõi Vô Cùng. Anh Nam nghe được và đến nói với tôi là anh
cũng đang thích về đề tài đó. Khi tôi về
lại Virginia để hoàn tất cuốn sách, anh gửi cho tôi những bài thơ về vật lý
thiên thể anh làm, chẳng hạn, anh làm những
câu thơ về hiệu ứng Doppler : “Đợt sóng
nào tới, tới thật nhanh. Chuyển sang
quang phổ hướng màu xanh. Những vòng tần số mau dồn dập. Đang hướng về ta đại tốc hành” . Trong vật lý, điều đó gọi là “chuyển xanh”
(blue shift), một nguồn sáng di chuyển về phía chúng ta sẽ dồn dập hơn, tần số
sẽ nhanh hơn và những nhà khoa học dùng sự thay đổi tần số này để tính ra tốc độ
di chuyển của sao hay khối thiên hà (cũng như
cảnh sát dùng radar đo tốc độ của xe chạy). Anh cũng có những câu thơ nói về cơ duyên , mà
cái cơ duyên tiên khởi đầu tiên là Big Bang:
“Vũ trụ sinh ra tự ảo huyền. Trùng trùng qua lớp lớp cơ duyên”. Nhưng cái cơ duyên ở trong bài thơ anh gửi
cho tôi, là anh nói đến những hạt điện tử khai sinh từ thuở Big Bang, vượt hàng
tỷ năm ánh sáng, rồi cháy, nổ, phân ly, kết hợp qua lớp lớp hàng tỉ tỉ cơ duyên
thành những nguyên tử, phân tử rồi vật chất, thiên nhiên, và ở vùng không gian
này, tạo thành trái đất, rồi sau đó do cơ duyên khác mà nảy sinh ra sinh vật và
con người, trong đó có anh và tôi, hai cái sinh vật nhỏ nhoi trong không gian
và thời gian vô cùng tận. Nhờ thêm vào những câu thơ của anh, cuốn sách thiên
văn của tôi đã bớt khô khan.
Từ sau cái
ngày đó , chúng tôi hay liên lạc với nhau bằng điện thoại hay thư từ. Anh gửi cho tôi những bài thơ anh làm về sao,
về những hoạt động đời thường hay những cảm thức văn học của anh.
Tôi gửi cho anh những cuốn sách chính trị (anh không thích lắm), những
bài dịch khoa học (con người thơ văn hiền
lành đó lại rất thích).
Bạn bè đến
thăm Trần Văn Nam tại nhà riêng ngày 7 tháng 1, 2018.
Đứng từ trái : Trần Yên
Hòa, Thành Tôn, Hoàng Xuân Trường,
Phạm Phú Minh, Nguyễn Mạnh Trinh.
Tình bạn
bình đạm của chúng tôi như thế kéo dài hơn mười năm, cho tới gần sáu năm trước
đây, tôi nghỉ hưu, về sống ở Cali. Tại
vùng nắng ấm này, mỗi cuối tuần tôi thường ra quán cà phê nói chuyện bù khú với
bạn bè. Tôi và anh Nam bắt đầu gặp nhau
thường xuyên. Tuy chúng tôi đều thuộc lứa
tuổi trên thất thập, nhưng tôi hay ngồi với mấy anh đồng nghiệp hay lính tráng,
còn anh Nam lại ngồi ở bàn bên cạnh với giai
cấp chiếu trên, gồm các “cụ” hơn chúng tôi vài tuổi như những anh Phạm Phú
Minh, Thành Tôn, Trần Yên Hòa… . Tuy
nhiên, chúng tôi cũng dần dà trở nên thân
mật. Mọi chuyện bình thường kéo dài nhiều
năm cho tới chủ nhật tuần trước, thay vì đến ngồi cùng bàn với đám “trẻ“ như
thường lệ , không hiểu sao, tôi lại đem
ly cà phê đến ngồi ké với các cụ thuộc “lớp già”. Thấy vắng anh Nam, tôi hỏi thăm mới biết anh
Nam đang bệnh nặng đang điều trị tại nhà.
Các anh này thấy tôi mừng húm, vì các anh không thể lái xe xa lộ nên tóm
được người thuộc “lớp trẻ” như tôi, dĩ
nhiên tôi phải đưa các anh đi thăm anh Nam.
Nhờ thế, tôi đã được đến thăm anh Nam, và lần đầu tiên, được nghe anh kể lại ít nhiều về cuộc đời anh,
sinh ở Kiến Hòa, học ở Nha Trang (thời có Nguyễn Thị Hoàng). Hết Văn Khoa, anh dạy Việt Văn và Triết Học ở
Vĩnh Long (lập gia đình ở đó), rồi sau 1975, vượt biên ở Cà Mau (dễ như đi uống
cà phê). Chỉ tiếc lúc đó anh đã mệt,
chúng tôi không thể ngồi nói chuyện lâu.
Sau cuộc đi thăm đó, hai ngày sau, anh Nam rời bỏ cõi trần.
Như trên đã
viết, tôi được biết và quen anh Nam là do những cơ duyên khó hiểu. Tại sao tôi
lại ghi nhớ mấy câu thơ không lấy gì làm tuyệt tác của anh? Tại sao anh Phạm
Gia Cổn, một người bạn lâu không gặp lại tự nhiên nổi hứng gọi điện thoại cho
tôi, giúp tôi tổ chức ra mắt sách, một việc anh chưa làm bao giờ. Tại sao anh Nam lại đi tham dự buổi ra mắt một
cuốn sách thuộc loại anh không thích đọc, viết bởi một tác giả vô danh? Tại sao hai chúng tôi, hai con người hoàn cảnh
và cá tính khác nhau lại cùng thời cùng thích thú về sao, về sự vận hành vũ trụ?
Cuối cùng, linh tính nào đã khiến tôi được đến thăm anh lần cuối và nghe anh nói
về đời mình.
Anh Nam, trong
thời gian quen biết, tôi đã không dám nói chuyện với anh nhiều về thi ca hay
văn học, nhưng chúng tôi đã nói chuyện với
nhau nhiều về khoa học. Chúng ta cũng biết
khoa học như Big Bang đã không thể trả lời cho nguyên nhân sự sống cũng như cơ
duyên của mỗi chúng ta, và vật lý của Big Bang cũng đã bị bế tắc ở thời điểm bức
tường Planck. Tôn giáo, cứu rỗi vạn vật
và nhân loại, cũng khiến chúng ta mù mờ và vô minh ở nguồn gốc tột cùng của khởi
nguyên, nhưng đã nhấn mạnh về tương duyên tương sinh, về nhân quả, và tôi đã rất
biết ơn những cái cơ duyên khó hiểu kể trên đã khiến cho tôi được quen biết
anh, một con người tài hoa, hiền hòa, nhân hậu.
Giờ đây, anh đã thanh thản ra đi, có lẽ anh đã như Mai Thảo :
Thế giới có triệu điều không hiểu.Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao, lúc đã nằm trong đất.
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Chẳng sao, lúc đã nằm trong đất.
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Anh đã hiểu
được vũ trụ cũng như sự sống và sự chết.
Chắc anh đang mỉm cười nhớ tới những kẻ đang còn sống ở cõi hệ lụy này.