Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2017

Nguyễn Hiền: Du ký Maroc: Một quốc gia từng chịu nhiều xâu xé (Tiếp theo và hết)

Những người thích xem hàng quán thì mặc sức (nếu có thể lội bộ cả ngày) sục tìm trong khu phố cổ Medina có cái souk Njjarine khổng lồ. Nghe nói khu này có tới 9000 con đường, và có người quả quyết thuộc hết hàng ngàn cái tên đó. Thực ra cũng không khó, vì chỉ cần nhớ vài trăm con đường chính trong cái mạng nhện này. Nơi đây đúng là mê lộ, vào rồi là khó tìm lối ra lại, vậy thì cách tốt nhất là cứ nhẩn nha đi dạo cho tới khi nào tình cờ ra lại ngoài đường mà thôi, rồi đón taxi về. Trong khu chợ bán đồ thủ công có chia từng khu, tương tự như các phố nghề trong khu phố cổ Hà Nội nhưng lớn gấp cả chục lần. Nếu tò mò so sánh, ta có thể thấy “phố” Hàng Bạc, Hàng Thiếc, Hàng Đồng, Hàng Đào, Hàng Bông, Hàng Gà v.v… Dĩ nhiên, vì văn hóa khác nhau, ở đây ta không thể nào tìm ra phố Hàng Mã, cũng như ở Hà Nội ta không thể nào tìm thấy nơi bán thảm lót sàn như ở mấy xứ Hồi giáo.
Việt Nam có những sạp thịt để đầu heo, đầu chó thì trong chợ này cũng có nhiều sạp treo hay bày đầu cừu sắp lớp, có cả đầu lạc đà… ngập ngụa mùi máu, mùi cừu, mang vẻ gì rờn rợn. Tôm cá ít thấy. Tôi tình cờ dừng trước một cửa hàng, bên ngoài có để chuồng gà chừng mươi con kêu quang quác um sùm. Một ông chỉ con gà, chủ sạp tóm chú gà, cặp vào nách, túm cổ và lia một đường dao, nhanh tới mức không kịp nghe xem ông ta có hô “allah akbar” hay không. Tóc gáy tôi tự dưng dựng ngược lên khi liên tưởng hình ảnh này với màn IS xử tử anh phóng viên James Foley dạo nào.


Hình 10 & 11: “Phố Hàng Đồng” (trái) và lừa chở hàng trong souk (phải)

Trong souk đương nhiên có những cảnh chèo kéo nài mua, nhưng không quá đáng. Những con đường quanh co, chật hẹp, bực thang lên xuống, nhiều con hẻm chỉ vừa hai người. Với địa thế này, con lừa là phương tiện vận tải hữu hiệu nhất. Bạn mua bao bột 20kg chẳng hạn, chủ tiệm sẽ gọi cho bạn một con lừa để mang hàng ra ngoài xe, nếu thuận tiện thì nó có thể ghé hai ba chỗ nữa thồ đồ cho những khách hàng khác. Thật là tiện, nếu không muốn để ý tới những bãi phân rải rác trên nền chợ.
Nếu đi theo toán, hay có hướng dẫn viên thì bạn có thể vào thăm những lò gốm hay lò da. Chúng tôi vào một lò da xem cách thuộc da thủ công, mùi hôi thúi sực mũi, mỗi người được phát cho một nhánh rau húng để ngửi, nhưng vẫn muốn ói. Nhìn xuống dưới, các công nhân đang chất, chà, cạo, nhồi các tấm da trong các chậu đủ thứ nước đục ngầu và có nhiều màu khác nhau. Chỉ trừ một công đoạn, còn lại không ai mang bao tay. Hỏi chủ lò sao không sợ độc hại, chất thuốc ngày này qua ngày nọ ăn mòn da, thì được câu trả lời là họ dùng toàn đồ thiên nhiên, như phân chim… trong nghề thuộc da. Thật là câu trả lời lấy có. Đâu có phải đồ thiên nhiên nào cũng vô hại. Họ nói thế, cốt lấy lòng du khách và hy vọng thâu tiền bán sản phẩm, những đồ da may không khéo, giá thì mắc. Nếu muốn, bạn có thể đặt áo da đo may theo người, ba tiếng sau họ sẽ giao tại khách sạn.       


Hình 12 & 13: Học viên đang vẽ men trong trường huấn nghệ đồ gốm (trái) 
và khoảng sân sau của một lò da (phải)

Chúng tôi cũng được dắt đi thăm một lò gốm. Đúng ra là một cơ sở dạy nghề thủ công. Ở Maroc có nhiều trường như vậy. Maroc đang phát triển dịch vụ du lịch, họ cần những tay nghề làm đồ thủ công mỹ nghệ. Tại trường huấn nghệ, các sản phẩm do học viên làm ra sẽ được giao cho đại lý hay bán tại chỗ. Nhìn những nghệ nhân đang cặm cụi vẽ men lên bình hay đẽo ráp những bức mozaic phức tạp giống như những tấm mandala, tôi thầm nghĩ chắc họ làm theo đơn đặt hàng đặc biệt giá cao, vì những nét vẽ, nét ráp này trông tinh xảo hơn những vật bày bán trong phòng trưng bày rất nhiều. Tại Fès, cũng như tại Meknés, có những nhà xưa kia là phú hào, nay thành nhà hàng ăn cao cấp kiêm khách sạn, ta có thể thấy sự cách biệt một trời một vực trong tay nghề khi xưa (những chạm khắc cổ trên trần hay trên nóc cột) và tay nghề hiện nay (các vách tường mozaic mới). Một bên sắc sảo tỉ mỉ, một bên bôi bác xiên xẹo, làm lấy có. Cũng không thể trách các nghệ nhân, vì “tiền nào của nấy”. Muốn sắc sảo thì biết bao nhiêu tiền mới đủ trả cho khoảng thời gian. Ngoài ra, khi xưa họ làm là làm cho thần thánh, cho gia đình ông chủ là người được trọng vọng. Nay thì họ làm cho đồng tiền, không phải làm cho bạn.
Meknés
Cách Fès một giờ xe (70km) là Meknés, một thời gian ngắn – cuối thế kỷ 17 - đầu tk. 18 – từng là kinh đô của Maroc, thời tiểu vương Moulay Ismail của triều đại Alaoui trị vì, trước khi nội loạn trong triều xảy ra và tiếp theo là sự xâm lược của các đế quốc Âu châu. Tiểu vương Moulay Ismail nổi tiếng khát máu và cuồng điên trong việc xây cất. Số con của ông có xấp xỉ một ngàn, và có tới cả 2000 hầu thiếp. Ông có tham vọng xây cung điện tại Meknés phải làm sao cho hơn điện Versailles ở Pháp nhưng rốt cuộc không thành, cũng như lời cầu hôn của ông với công chúa con vua Louis XIV bị từ chối (vua Louis XIV gởi tặng bốn chiếc đồng hồ quả lắc coi như món quà an ủi, còn được trưng bầy trong lăng). Ông cũng tự cho xây lăng của mình thật tráng lệ. Rủi thay, thời gian chúng tôi ở Maroc lăng này đang được tu bổ, cũng như hoàng cung không cho công chúng vào xem, chỉ thấy những cổng thành tráng lệ. Thành ra hơi uổng công, dù sao cũng mang tiếng là đến được một cố đô của Maroc, cộng chung với cố đô Marrakech nữa là đủ bộ tứ, cũng như du khách đến Việt Nam, thăm Thăng Long và Huế xong thì cũng cố gắng tới Ninh Bình xem di tích cố đô Hoa Lư của nhà Đinh cho đủ bộ.
Phải công nhận những kiến trúc vòng thành Medina, quảng trường Place el Hédime to lớn và đẹp, nơi đây thường xuyên có nhiều nghệ nhân diễn những trò câu tiền du khách. Cổng Bab Mansour nhìn ra quảng trường này là cổng đẹp nhất trong 20 chiếc cổng của vòng thành mới của Meknés và là một trong những cổng thành tráng lệ nhất thế giới. Kasbah và Souk Meknés không lớn lắm, nhưng có những con hẻm nhà cửa sơn màu sặc sỡ, các sạp hàng nghe giới thiệu là họ chỉ bán những sản phẩm của địa phương, do người dân làm và mang tới bán, nhiều nhất là các thứ bánh và trái cây. Nhưng nhìn kỹ, những hộp chà là mang từ Tunesie tới, và bánh ngọt để trong hộp chắc chắn phải là sản phẩm kỹ nghệ. Cũng như những khu chợ chúng tôi đã đi qua, mèo hoang lang thang khắp chốn chơi giỡn với nhau, có lẽ nghe cầu nguyện hoài nên chúng không hung dữ như những con mèo hoang trong vài thành phố Đông Âu suốt ngày nghe loa tuyên truyền của cộng sản. Ngược lại, không thấy con chó nào. Khi hỏi ra mới biết Hồi giáo coi chó là con vật dơ bẩn. Chó không được phép vào đền, người nuôi chỉ được để nó ở sân sau nhà. Dân Hồi giáo sống ở Việt Nam có lẽ có cảm giác ghê tởm khi thấy người Việt ăn heo, ăn chó. Và uống rượu tràn bờ.     

Hình 14 & 15: Cổng Bab Mansour và Place el Hédime, Meknés
Ngoại ô Mekn
és có một phế tích: kho lúa Heri es-Souani. Vì bạo ngược và hiếu chiến, đương nhiên tiểu vương Moulay Ismail phải tính kế phòng bị bằng cách xây một kho lúa đủ ăn cho quân lính và luôn cả 12.000 con ngựa trong nhiều chục năm. Kho lúa được xây đơn giản nhưng kiên cố, có kiến trúc với những tường dày gần thước giữ được độ mát cần thiết quanh năm, phía sau là tàu ngựa ngăn nắp cho đội kỵ mã. Nước được lấy từ chiếc hồ lớn trước mặt. Nhưng loạn không đến từ ngoài mà từ trong triều, đó là điều mà ông không tiên liệu được.

    

Hình 16 & 17: Kho lúa Heri es-Souani 
và một dãy tàu ngựa trong kho

Cách Meknés gần 10km về phía bắc là phế tích thành Volubilis của La Mã thời đế quốc này thôn tính một vùng rộng lớn quanh Địa Trung Hải khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, khi vùng đất hiện nay là Maroc có tên là xứ Mauritanie-Tingitana. Phế tích chỉ còn lại một số nền nhà đổ nát của các gia đình giàu có khi đó, một phần của đại giáo đường (basilic),khải hoàn môn…, và một số “công nghệ” khi xưa được tái tạo lại cho người ta có ý niệm hơn về một thành phố La Mã cổ. Trên khoảng sân xưa kia là chỗ nghỉ mát hay ăn uống còn sót lại những tranh mozaic mô tả cuộc đời các thần như Poseidon, Hercules v.v… Tóm tắt: thành phố La Mã cổ nào cũng có cấu trúc gần y nhau.
Volubilis nằm trong một khu rừng có nhiều cây carob. Cây này thuộc họ đậu, có trái giống bồ kết nhưng dày hơn. Trong hột có một chất kết dính (gum) dùng trong kỹ nghệ thực phẩm để thay chocolat, mang mã số E410. Qua chuyến thăm viếng Volubilis tôi học thêm được một điều mới là hột cây này có đặc điểm là chúng nặng gần như nhau, bất kể trái lớn hay trái nhỏ. Từ chữ carob người ta đã đưa ra đơn vị carat dùng cho kim cương. 1 carat nguyên thủy là trọng lượng 1 hột carob (0,2g), theo quy định quốc tế sau này thì 1 carat tương đương 200mg.
Hình 18: Một góc trong phế tích Volubilis
Quần xong khu Fès-Meknés, chúng tôi lại cụ bị hành lý tới kinh đô thứ 4 của Maroc, Marrakech. Muốn tới đây, phải vượt rặng núi Atlas, qua những làng mạc hẻo lánh người Pháp bỏ lại, nhà cửa màu đất đỏ thủng lỗ chỗ, hoang tàn như có cơn bão vừa thổi qua. Nhưng đây đó vẫn còn người ở. Mùa hè nơi đây là chỗ nghỉ mát khi cơn gió Scirocco từ sa mạc Sahara thổi lên, mang nhiệt độ thành phố lên tới 50 độ C và cuốn theo bụi đỏ sa mạc, thành “mưa máu”. Vùng núi Atlas là xứ sở của dân Berber, thôm xóm lơ thơ, người dân di chuyển bằng lừa là chính. Mỗi tuần có họp chợ một buổi cho cả một vùng lớn, cạnh chợ thường là cái bãi cho lừa nghỉ, cột cắm thành vòng, đó là parking hồi xưa. Trên đường, xe có thể ghé những trạm mua sản vật địa phương, thường là các loại bí và trái cây tùy mùa. Khi chúng tôi đi qua, là đang mùa táo, quít và trái lựu. Và đồ lưu niệm, ngoài những đồ gốm, đan, lúc này gần tới mùa Giáng Sinh, họ cũng bán những chiếc lều kiểu berber, trong có hai hình nhân: Hamo nam và Hada nữ, hai nhân vật trong một truyện cổ tích của dân Berber. Người thích chưng đồ lạ có thể dùng chiếc lều này như hang đá Giáng sinh, có sẵn ông thánh Giuse và Mẹ Maria, chịu khó mua thêm một hình nhân trẻ sơ sinh để làm Chúa Hài Đồng. Đi qua hai cái hồ dọc đường, tôi được nghe một truyện cổ tích khác, tương tự Romeo & Julia, cặp tình nhân thuộc hai bộ lạc vốn thù oán nhau. Chuyện không thành, cô gái khóc, nước mắt chảy thành hai cái hồ. Chà! Những chuyện tình đẫm lệ kiểu này có lẽ nước nào cũng có.
Hình 19: Lều berber. Phía sau là chiếc xe gắn máy tương tự xe mobylette
Từ Fès đi Marrakech đường dài gần 650km, phải vượt khúc đèo băng qua dãy Atlas, cho nên khi qua khỏi đèo chúng tôi phải nghỉ giữa đường, ở một thành phố nhỏ dưới chân núi Jbel Tassemit, tên Beni Mellal. Trên đường đi, chúng tôi nghỉ trưa tại một quán ăn trên núi, đúng là một thứ Casa di Mama, tức là đồ ăn đơn giản mà nấu rất ngon, có nước cam tươi mới vắt (trong khách sạn và tiệm ăn họ chỉ có nước Fanta hay nước cam hộp giấy, muốn có nước cam tươi vắt liền hay nước mía ép thì phải ra chợ). Tới chiều mới tới Beni Mellal. Thành phố này lập lên chỉ nhắm vào du khách. Nơi đây có cả những tour cho dân thích phiêu lưu, đi thành toán nhỏ, ở nhiều tuần lễ trong những làng berber, cùng ăn uống sinh hoạt chung với dân. Còn đi phất phơ như chúng tôi thì chỉ có một nơi để xem, là thác Ouzoud. Có đi ngang một con đập thủy điện lớn do Pháp để lại (Bin el-Ouidane), nhưng theo quy định của Maroc, khách không được thăm viếng hay chụp hình những cơ quan chính phủ, do đó chỉ đi xa xa, ngừng lại chụp hình hồ nước, mùa này cạn gần sát đáy.   

Hình 20 & 21: Thác Ouzoud

Thác Ouzoud là thác cao nhất Maroc. Thác quy tụ nước từ 23 nguồn quanh đó, đổ xuống 7 dòng, và có 2 tầng. Trên đỉnh là tiệm, là quán bán đồ lưu niệm, có đường mòn đi qua một khoảng rừng có đàn khỉ macaque đùa giỡn, xuống thêm hơn 400 bực cấp tới dưới chân thác cũng là tiệm, là quán, có thuyền chở đi một vòng chụp hình thác đổ ào ào. Những quán ăn bình dân ở Maroc mọi nơi giống nhau, trước là những món rau và trái olive ướp, sau đó tới súp Harira thịt cừu nấu với đậu lăng (linz), món chính phổ thông là hoặc couscous, hoặc tajine. Nếu không muốn hai món này thì chỉ có những món thịt bò gà cừu ướp nướng mà thôi. Couscous là món làm từ những thứ lúa mạch xay nhỏ, nấu chung với thịt rất cầu kỳ và tốn thời gian. Tajine là thịt hầm chung với các loại rau củ và hương liệu, đun âm ỉ trong một thứ nồi đất có nắp hình chóp (người nghĩ ra chiếc nồi tajine chắc hẳn khi đó không hiểu nổi sự kỳ diệu xảy ra trong nồi khi nấu – là sự luân lưu rất chậm của nước và hơi xuyên qua khối thức ăn, trong một khoảng không gian áp suất hơi cao, khiến đồ ăn mau chín mà không sôi, không mất mùi và tất cả mọi thứ trong nồi được tự động thấm đều không cần phải đảo). Cái tiện lợi của hai món này là họ nấu sẵn từ hồi nào, để riu riu trên lò, ai kêu thì mang ra liền (super fast-food!), và theo phong cách ẩm thực xứ này, họ sẽ chỉ dọn mỗi món tajine hay couscous trong một nồi lớn nhỏ tùy theo số người, để mọi người ăn chung. Tráng miệng thường là bánh ngọt và trái cây. Cà-phê Maroc có tên café nos-nos, là cà phê nấu đậm, có thêm chút xíu vài thứ hương liệu tùy theo quán, pha với sữa đánh nổi bọt và bỏ nhiều đường. Dân Maroc rất phóng tay khi ăn đồ ngọt. Bao đường của họ lớn gấp đôi bao đường của Âu châu. Người nào uống cà phê không đường bị coi là bịnh hay bất bình thường. Bánh mì cũng ngọt, trét bơ, mật ong hay mứt. Xét theo quan niệm dinh dưỡng hiện tại thì đây là một chế độ ăn không lành mạnh, nguy cơ mắc bệnh tiểu đường rất lớn.
Hình 22: Các nhà hàng luôn luôn có sẵn món Tajine
hâm nóng trên lò cho thực khách
Marrakech
Địa danh Marrakech, thành phố nằm nơi đầu phía bắc sa mạc Sahara, nhắc nhở nhiều phi công VNCH đến chuỗi ngày học bay tại trung tâm huấn luyện phi công tại thành phố nóng cháy này, và thực tập bay tại phi trường trong căn cứ quân sự Sidi Zouine không xa đó bao nhiêu. Nhưng đó là quá khứ 50, 60 năm qua. Vào thế kỷ 16, dưới triều đại Saad, Marrakech là một điểm giao thương quan trọng trên con đường lữ hành với lạc đà trong sa mạc. Bây giờ, thành phố này là một điểm du lịch quan trọng, với nhiều di tích cổ, thành phố vẫn giữ một nét berber quyến rũ du khách. Các đền đài dinh thự tại Marrakech thường có màu nâu ngả qua hồng, đây cũng là nét đặc biệt của thành phố. Cũng như những thành phố lớn khác ở Maroc, xe cộ khi vào đến đầu tỉnh đều phải qua một trạm kiểm soát an ninh. Dù họ chỉ xét cho có lệ, nhưng chứng tỏ đâu đây vẫn tiềm tàng âm mưu khủng bố ngầm. Nhiều người trong các xứ Hồi giáo không thích những du khách có cách ứng xử không hợp với văn hóa của họ, như nhậu nhẹt, phơi da thịt, nam nữ cặp tay nhau... Họ coi những hành động này là đồi trụy, gây ảnh hưởng xấu tới xã hội của họ. Tuy thế, vùng Fès và Meknés là vùng sản xuất phần lớn rượu nho của Maroc, Guerrouane là tên một loại rượu phổ thông của vùng này, khá ngon mà không mắc. Còn hai thứ bia phổ thông là Flag Spéciale và Casablanca. Tại Marrakech bạn có thể ăn tối tại một số nhà hàng có phụ diễn chương trình nhạc Hồi giáo cộng thêm các màn múa bụng có "giao lưu" với thực khách, như ở nhà hàng Palais Chahramane chúng tôi ăn buổi tối cuối cùng ở đây.
Nói đến Marrakech phải nói đến quảng trường nổi tiếng thế giới Jemaa el-Fna rộng mênh mông, trái tim của sinh hoạt đường phố Marrakech náo nhiệt ngày đêm và cũng là điểm hẹn lý tưởng của mọi người. Buổi tối nơi đây có chợ ăn uống nhộn nhịp vô cùng, và các nghệ sĩ đường phố trổ tài mọn của họ, cùng nhiều sạp xâm vẽ henna. Tới gần khuya, nơi đây trở thành chợ trời bán quần áo cũ mới và đủ mọi thứ lặt vặt. Từ quảng trường này người ta có thể dễ dàng đi bộ đến các nơi đền đài, hoàng cung, vườn thảo mộc hay đi xem những cửa hàng trong những đường phố quanh đó. Một sản phẩm đặc biệt của Marrakech là dầu hột cây Argan, ép nóng thì ra dầu nấu ăn, ép lạnh là một mỹ phẩm được coi là quý vì tác dụng dưỡng da của nó. Giá trong những tiệm ngoài Maroc mắc gấp hai ba lần, thứ tốt trên dưới 40 euro chai nửa lít, bán trong những tiệm sản phẩm thiên nhiên.
Thí dụ ta có thể đi bộ tới vườn Majorelle, nơi có bộ sưu tập mấy chục loại cây xương rồng và cây cọ lấy từ khắp miền sa mạc trên thế giới. Mấy bà thích hàng hiệu có thể đứng chụp trước đài tưởng niệm nhà thiết kế thời trang nổi danh người Pháp gốc Algérie, Yves Saint Laurent (mất năm 2008),  người đã cùng với “ông bồ” Pierre Bergé vừa từ trần tháng 9/2017 (Yves là dân “gay”) mua lại khu vườn này từ nhà nghệ sĩ người Pháp Jacques Majorelle và chung nhau cai quản khu vườn.
Hay thăm hoàng cung Bahia, cung điện duy nhất cho phép du khách vào thăm (trong số 25 cung điện của hoàng gia trên toàn quốc Maroc). Thực ra đây là dinh thự của vị “tể tướng” đầy uy quyền trong triều hồi đó. Ông này cũng có hàng trăm thê thiếp ngoài 4 bà vợ, trong cung có riêng một khu harem cho mấy bà này, kiến trúc các phòng giống hệt nhau cho thấy ông (cố tình) cư xử bình đẳng với các bà bồ nhí. Nhưng chắc chắn không ngừa được những cuộc xung đột xảy ra trong dãy phòng bao quanh khoảng sân gạch rộng có vòi nước phun, được cẩn đá mozaic xanh trắng vàng từ nóc xuống tới đất.   

Hình 23 & 24: Harem của Hoàng cung Bahia (trái) và đền Koutoubia (phải)

Một thắng tích nổi tiếng nữa của thành phố là hầm mộ của dòng họ của tiểu vương Ahmed el-Mansour vào thế kỷ 17, nằm cuối một khu vườn rộng thiết trí theo kiểu Andalusia, tức là mùa nào cũng có hoa nở. Hầm mộ gồm hai tòa nhà dành cho mộ của vị tiểu vương, các hoàng hậu, hoàng tử và các công nương. Các mộ bằng đá hoa trắng có vân đỏ nâu. Ngoài sân còn mấy chục ngôi mộ dành cho các tùy tùng thân tín. Mọi nơi đều trang trí gỗ tùng và cẩn gạch men lập thể mozaic. Đẹp thì có đẹp, nhưng thú thực tới đây tôi bắt đầu thấy nơi nào cũng giống nơi nào, hoa mắt rồi.
Ngay cả ngôi đền hồi giáo cổ nổi tiếng Koutoubia (tên này có nghĩa là người bán sách, vì nơi đây khi xưa là chợ bán các bản thảo) có từ thế kỷ 12 cũng không còn hấp dẫn tôi như những ngày đầu. Cho đến ngày cuối này, tôi mới nhận ra là các đền ở Maroc có duy nhất một minaret, hình vuông và nóc vuông. Hỏi ra mới biết những đền có mái tròn và hai minaret nóc nhọn thường là của Ả Rập Saudi. Hóa ra dân Maroc ở Hòa Lan được Cộng Hòa Ả Rập Saudi âm thầm trợ cấp cho các sinh hoạt tôn giáo của họ. Với mục đích ngầm ra sao, chỉ có những người chóp bu trong cuộc mới biết.
*
Trên chuyến bay trở về nhà, tôi ôn lại những gì đã thấy, đã nghe, xem lại hàng trăm tấm hình đã chụp. Maroc, Hồi giáo, với tôi vẫn còn ẩn giấu nhiều bí mật. Phần lớn do bất đồng ngôn ngữ, không thể chuyển tải hết ý muốn hỏi. Phần khác, căn bản về nhận thức nhiều phần khác nhau. Khi tôi hỏi vì sao đạo Hồi không cho phép bỏ đạo, thì được câu hỏi ngược lại: Hồi giáo chủ trương hòa bình, thương yêu nhau. Nếu bạn chối bỏ lối sống Hồi giáo, điều này có ý nghĩa ra sao? Tôi không thể bảo ông đó là quyền tự do suy nghĩ và chọn lựa của tôi. Hay khi tranh luận về vị thế của nữ giới trong gia đình, người Maroc quả quyết họ luôn tôn trọng nữ giới, vì đấng Mohamed bao giờ cũng gọi các bà mẹ ba lần, gọi ông bố chỉ một lần trong các bài giảng, để nhớ ơn các bà mẹ lo lắng mọi chuyện nội trợ. Họ nói là vì muốn tôn trọng phái nữ nên mới có những điều luật nhằm che chở nữ giới. Hoàn toàn không có bảng quảng cáo sản phẩm có các cô gái hở đùi hở ngực. Quan niệm này có hợp nhân tâm hay không, phải để chính các nữ nhân cho ý kiến. Chắc chắn Maroc là nước Hồi giáo cởi mở. Nếu chịu khó tìm, bạn có thể thấy rượu hay thịt heo bầy bán trong siêu thị lớn, đặt ở một góc kín đáo và gói cẩn thận. Ngoài phố rất ít đàn bà mặc bourka che mặt. Nhiều phụ nữ lái xe hơi và có người còn to tiếng với nam giới ngoài đường phố. Riêng tôi, tôi không có cảm giác phụ nữ Maroc bị lép vế trong những sinh hoạt thấy ngoài đường. Ông hướng dẫn viên có nói là chính phủ đã cải tổ một số luật, thí dụ về vấn đề đa thê, luật Hồi giáo chấp nhận, nhưng thực tế hiện tại chuyện này rất khó xảy ra, do một số điều khoản ràng buộc về gia tài của cải khi muốn lấy người vợ thứ hai.
Rõ ràng chính phủ Maroc đang dốc tâm vào việc cải tổ xã hội, vì cho dù cố bịt mắt, bạn vẫn dễ dàng thấy sự khác biệt giàu nghèo trong xã hội. Tại trung tâm các thành phố lớn có những shopping center sang trọng không kém Âu châu, trong khi cách đó không xa là những xe bán rong kiếm từng đồng lẻ. Ở Casablanca đang có chương trình xây chung cư dãn dân cho khoảng 100.000 người. Dọc đường từ Rabat đi Fès cũng có vài khu công nghiệp với chung cư kế bên đang được xây cất. Đại học UEMF ở Fès đang xây với tham vọng sẽ trở thành một đại học hàng đầu của Phi châu và vùng Địa Trung Hải, và những trường huấn nghệ để đào tạo lớp thợ giỏi tại Meknés và Fès là những thí dụ. Một số công ty xe hơi đã xây nhà máy lắp ráp tại Maroc. Nhưng theo tôi, chuyện cải tổ nếp suy nghĩ, bỏ phong cách làm bôi bác, tập tính giữ lời hứa và ngăn nắp còn mất nhiều công sức và thời gian.
Riêng về câu hỏi vì sao người gốc Maroc ở Hòa Lan dính nhiều vào các vụ tội phạm, theo tôi chỉ có một giải đáp: những người đầu tiên 50, 60 năm trước đến Hòa Lan theo dạng thợ khách, phần lớn là những người ở vùng dãy núi Rif nghèo khó (ngay cả hai ông thị trưởng cùng tên Ahmed: Aboutaleb thị trưởng thành phố Rotterdam và Marcouch tân thị trưởng thành phố Arnhem mới được bổ nhiệm năm nay, cũng xuất thân từ vùng này, ở hai làng lân cận nhau). Trong xã hội dân du mục berber nơi vùng đất này, người phụ nữ phải quán xuyến mọi chuyện: làm vườn, nấu nướng giặt giũ, luôn cả dạy dỗ con cái, trong khi các vị nam nhi vuốt râu dài ngồi không, hút thuốc, uống trà lá húng và tán dóc suốt ngày, thì sẽ có những trẻ do hoàn cảnh không còn có thể thích ứng với cuộc sống trong gia đình của họ nữa và nếu phản kháng họ sẽ bị đẩy ra ngoài xã hội. Những người có tính liều lĩnh, thích xông pha thì bôn ba tìm việc làm ở các nước Âu châu trong đó có Hòa Lan, khi đó rất cần những người thợ làm nghề tay chân. Tới khi những người này kiếm được tiền, trở về nước, lấy vợ mang sang Hòa Lan sống, nhưng vì văn hóa khác biệt, người vợ không thể nào có cơ hội và khả năng tiếp xúc với xã hội tây phương. Họ cũng không thể quán xuyến việc nhà như khi còn ở Maroc nữa, trong khi đó ông chồng bận bịu suốt ngày trong công việc kiếm cơm, và theo thói quen quê nhà, không thèm để mắt tới con cái. Kết cuộc là một nền giáo dục, vốn đặt căn bản nơi gia đình, bị hụt hẫng với kết cuộc là số trẻ thuộc thế hệ thứ hai trở đi sẽ có nhiều nguy cơ sa vào con đường xấu. Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ có thể kiểm chứng xem lời giải này có hợp lý hay không.
Nguyễn Hiền
(12/2017)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét