Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017
NGÔ THẾ VINH: NHỮNG NGÀY CHÂU THỔ TRỞ LẠI THĂM ĐỒNG THÁP
Gửi
Nhóm Bạn Cửu Long
Lời dẫn: đây chỉ là trích đoạn từ một bút ký về chuyến khảo
sát Đồng Bằng Sông Cửu Long tháng 12.2017 vừa qua, Đồng Tháp cũng là chặng cuối
của chuyến đi ấy.
Về tới Cao Lãnh cũng đã
gần nửa khuya. Trên chiếc xe Van của tài xế Sang có Wi-Fi di động, nên suốt cuộc
hành trình nếu muốn, chúng tôi vẫn có thể kết nối mạng và làm việc với iPhone,
iPad. Ngày hôm sau 12.12.2017, chúng tôi vẫn thức dậy sớm để khởi hành đi vào Đồng
Tháp Mười, ghé qua Gò Tháp.
Hình
1: Đoàn khảo sát môi sinh ĐBSCL 12.2017, từ trái: Ngô Thế Vinh, TS Lê Anh Tuấn
Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu ĐHCT, TS Dương Văn NiKhoa Quản lý Tài Nguyên
Thiên nhiên ĐHCT, KS Phạm Phan Long Hội Sinh Thái Việt, BS Nguyễn Văn Hưng, ThS
Nguyễn Hữu Thiện Chuyên gia Vùng Đất Ngập / Wetlands, TS Lê Phát Quới Viện Tài
Nguyên - Môi Trường ĐHQG Tp. HCM, và tài xế Sang.
Hình 2: Gò Tháp có khu di chỉ Ốc Eo
và là chiến khu chống Pháp
của Thiên Hộ Dương, nay là khu di
tích quốc gia đặc biệt.
(nguồn: Gò Tháp, Nxb Văn Hoá-Văn
Nghệ, Saigon 2016)
Tới vùng trũng Đồng
Tháp Mười không thể không nhớ tới một Du kí Biên khảo ngắn Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê, năm đó ông mới 22
tuổi, vừa tốt nghiệp Trường Công Chánh Hà Nội tháng 7 năm 1934, người
cán
sự công chánh thời còn rất trẻ ấy đã chọn vào Nam tới nhiệm sở là Miền Tây, đi
đo đạc “lênh đênh trên khắp các kinh rạch
từ Hồng Ngự tới Thủ Thừa, từ Cái Thia lên Mộc Hóa, có khi đi bộ trọn một tuần
giữa một vùng bát ngát toàn lau sậy bàng năng, hai ba chục cây số không có một
nóc nhà, một bóng người”. (Nguyễn Hiến Lê sanh năm 1912
mất 1984, được biết tới như là một nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với
hơn 100 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc rất nhiều thể loại).
Nguồn gốc tên Đồng Tháp
Mười, Plaine des Joncs hay Đồng Cỏ
Lát có nhiều giả thiết: hoặc là nơi xây tháp thứ mười của Thiên Hộ Dương kể từ
sông Lớn đi vào trong thời kỳ chống Pháp, hoặc do ngôi tháp có mười bậc, nhưng
cũng có người bảo rằng đó là ngôi chùa tháp thứ mười của người Khmer thời vua
Jayavarman VII tính từ điểm xuất phát.
Đồng Tháp Mười nằm bên
tả ngạn Sông Tiền, bao gồm ba tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Long An với diện tích
ngót một triệu hecta nếu kể cả vùng đất giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ
Tây, [cộng với 300,000 hecta phía Svay Rieng bên Cambodia]. Đồng Tháp Mười, nơi
mà hơn nửa thế kỷ trước đây thôi còn là một vùng hoang dã bát ngát sình lầy, dưới
nước đỉa lội như bánh canh, trên trời muỗi bay rợp như đám mây... Đồng Tháp Mười
ngày nayđã hoàn toàn đổi khác, dân tụ về ngày một đông, các vùng đất hoang kể cả
các khu rừng tràm ngày một thu hẹp nhường chỗ cho nhà cửa và ruộng đồng. Khi mà
đất chật người đông thì thiên nhiên chẳng còn ưu đãi và cuộc sống cũng không còn
dễ dàng như những ngày xưa nữa “những ngày làm chơi ăn thiệt”.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng
cánh,
Nước Tháp Mười lóng lánh
cá tôm...
Đã qua rồi cái hình ảnh
ước lệ của một Nam kỳ Lục Tỉnh thời Phạm Quỳnh báo Nam Phong và thi sĩ Tản Đà
Đông Pháp Thời Báo từ ngoài Bắc vào thăm không ngớt lời ca ngợi về đời sống
trong Nam dễ dãi vui tươi, với gạo trắng nước trong và tôm cá thì đầy đồng: nay
thì chính những người nông dân Nam Bộ hào sảng hiếu khách ấy đang phải đổ mồ
hôi sôi nước mắt, làm lúa cao sản ba vụ / năm để kiếm sống, “làm thiệt mà cũng chưa chắc có ăn”.
Trở lại thăm Đồng Tháp,
cũng không thể không nhớ tới con cá đuối nước mặn Selachian, tên khoa học là
chondrichthyes, thuộc loài cá sụn mà ngư dân đánh bắt được trên sông Tiền, đoạn
giữa hai xã Tân Mỹ và Tân Khánh Trung. Con cá đuối có chiều dài hơn 4 mét ngang
2 mét và nặng tới 270 ký. Đây cũng là lần đầu tiên ngư dân Đồng Bằng Sông Cửu
Long lưới được một con cá nước mặn lớn như vậy trên một khúc sông nằm sâu trong
đất liền rất xa biển mười ngày trước Giáng Sinh năm 2000. (2)
ĐẾN VỚI GÒ THÁP TRÊN
VÙNG TRŨNG ĐỒNG THÁP MƯỜI
Đồng Tháp Mười và khu Tứ
giác Long Xuyên vốn là hai vùng trũng thiên nhiên của ĐBSCL.Theo bài viết "Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười"
của BS Trần Ngươn Phiêu thì vùng trũng Đồng Tháp Mười có thể là lòng sông cũ của
Cửu Long, nay sông Cửu đã đổi dòng và dời qua vị trí hiện nay. (3)Biển Hồ Tonle
Sap là vùng trũng rộng lớn khác được ví như trái tim của Cambodia. Ba vùng
trũng ấy là ba bể chứa nước khổng lồ có chức năng điều hoà mực nước lên xuống của
con Sông Mekong vùng hạ lưu trong cả hai Mùa Mưa và Mùa Khô. Với những bước
phát triển không bền vững (unsustainable development) chính con người đã và
đang phá huỷ nhịp điều hoà thiên nhiên tuyệt hảo ấy của con Sông Mekong vốn có
hàng bao ngàn năm.
Đến Gò Tháp là đến với
một giồng lớn nhất của Đồng Tháp Mười, được biết tới như vùng đất của "sen
hồng" nằm về phía đông nam của Tràm chim Tam Nông, cách Sài Gòn không quá
100 km. Nơi có di chỉ của nền văn hoá Óc Eo, Vương Quốc Phù Nam hiện diện từ thế
kỷ thứ II trước Công nguyên kéo dài tới thế kỷ XII sau CN trên ĐBSCL.
Trong lòng gò, qua những
lần khai quật đã phát hiện được một di tích kiến trúc cổ với hai tượng thần
Vishnu, được xác định là có niên đại từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XII, được xếp
vào hàng "Bảo vật Quốc gia", rồi cạnh đó là cây Trôm trăm tuổi cũng
được xếp vào Cây Di sản Việt Nam.
Cũng theo BS Trần Ngươn
Phiêu thì "Các nhà khảo cổ danh tiếng như Etienne Aymonier và Henri
Parmentier thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ đều đã viếng thăm Tháp Mười nhiều lần.
[Trường Viễn Đông Bác Cổ / École française d'Extrême-Orient / EFEO, tiền thân là Phái đoàn Khảo cổ tại Đông Dương có từ năm 1898 và Trường
Viễn Đông Bác Cổ chính thức
thành lập ngày 20 tháng 1 năm 1900 là một trung tâm nghiên cứu thực địa của Pháp về Đông
phương học, có nhiệm vụ
nghiên cứu, khai quật khảo cổ trên toàn bán
đảo Đông Dương]. Louis
Malleret là quản thủ Viện Bảo Tàng Sài Gòn, là Viện trưởng trường Viễn Đông Bác
Cổ là người có công nghiên cứu nhiều nhất về Tháp Mười. Malleret còn là tác giả
bộ Le Delta du Mekong, trong đó quyển thứ IV (Le Cisbassac) là chuyên khảo về Đồng
Tháp. Các viên gạch di tích Tháp Mười còn được lưu giữ ở Bảo tàng viện Sài Gòn
là do công của L. Malleret." (3)
Hình 3: Khai quật tượng thần Vishnu
tại Gò Tháp Mười.
[nguồn: tư liệu Bảo tàng Đồng Tháp]
Hình 4: Di tích
đền thần Shiva Gò Minh Sư: Gò Minh Sư được khai quật vào năm 2009 có dạng hai
khối gần vuông gá vào nhau. Trong đó, hình khối vuông lớn ở phía Tây có cạnh
dài14.95m, khối vuông nhỏ phía Đông có cạnh dài 4.20m. Tại di tích này, các nhà
khảo cổ đã tìm thấy một nhẫn vàng có khắc hình con ốc Sankha biểu tượng của thần
Vishnu, các vòng đeo tay bằng đồng, một mảnh vỡ Yoni và đặc biệt là một máng nước
thiêng (Somasutra) - dấu hiệu để nhận biết đền thần Shiva. Các nhà khảo cổ học
đã xác định di tích này là đền thần Shiva, có niên đại từ thế kỷ thứ VI đến thế
kỷ thứ XII. Năm 2012, di tích được xây mái để bảo quản. [Photo by Ngô Thế Vinh]
Vào hậu bán thế kỷ XIX
(1862-1866), đây cũng là chiến khu chống Pháp nổi tiếng của Thiên Hộ Dương / Võ
Duy Dương. Trong suốt hơn 3 năm, quân đội Pháp đã vô cùng vất vả, chịu cả tổn
thất mà không thể nào xâm nhập được vào chiến khu Đồng Tháp Mười của Thiên Hộ
Dươngvà Đốc Binh Kiều. Ngoài sức chiến đấu kiên cường của các nghĩa binh, còn
phải kể tới yếu tố trận địa mà đội quân viễn chinh Pháp rất sợ khi phải lội vào
một vùng lau sậy cao hơn đầu người, quanh năm sình lầy ngay cả mùa khô, với đỉa
trâu như bánh canh, đầy muỗi mòng, khí hậu ẩm thấp với cái nóng thiêu đốt của mặt
trời nhiệt đới gần xích đạo.Sau cùng,nhờ có sựdẫn đường hai tên Quản Tấn và huyện
Lộc cùng với đám lính Việt theo Pháp mà lần đầu tiên quân Pháp thắng được trận
chiến sình lầy mà Đô đốc De Lagrandière cho là một thắnglợi rất lớn về chính trị.
(1)
Từ thời vua Thiệu Trị
(1841-1847) trên gò từng có một Ngôi Tháp Cổ Tự. Đến năm 1956, thời Đệ Nhất Cộng
Hoà, chính quyền Ngô Đình Diệm cho dời ngôi Tháp Cổ Tự về phía bắc để xây dựng
một "Viễn Vọng Đài" mười tầng cao 36 mét nhằm "quan sát hoạt động của lực lượng Cách mạng trong vùng Đồng Tháp
Mười. Rạng sáng ngày 04.01.1960, "Viễn Vọng Đài" bị đặc công tiểu
đoàn 502 tỉnh Kiến Phong đánh sập và chỉ còn lại phế tích ngổn ngang trên bề mặt
gò." [sic]
Gò Tháp với diện tích
300 hecta, không chỉ là vùng khai quật khảo cổ quan trọng, nhưng cũng là nơi diễn
ra các lễ hội hàng năm: rằm tháng 3 lễ vía Bà Chúa Xứ, rằm tháng 11 lễ giỗ
Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều.
HỆ SINH THÁI ĐỒNG THÁP
MƯỜIKhông có mục đích du lịch
khi tới đây, phần chúng tôi quan tâm nhiều hơn là hệ sinh thái Đồng Tháp Mười.
Theo Th.S Nguyễn Hữu Thiện, tốt nghiệp Đại học Wisconsin chuyên gia về wetlands
/ các vùng đất sình lầy và TS Lê Anh Tuấn, chuyên gia về Biến Đổi Khí hậu, TS
Lê Phát Quới,Viện Tài Nguyên - Môi Trường người quê Long An, thì Gò Tháp không
trũng sâu như vùng Tràm Chim Tam Nông nhưng có thể coi đây là một Đồng Tháp Mười
thu nhỏ, mang đủ các đặc tính hệ sinh thái của vùng trũng Đồng Tháp Mười,có thảm
thực vật tiêu biểu với rừng tràm, cỏ lác, năng, và đầm sen, bông điên điển, cùng
với các loài động vật rất đa dạng những loài cá theo mùa, tôm cua ốc, rùa lươn
rắn và các loại chim muông.
Từ bao ngàn năm rồi, con
sông Mekong dài hơn 4,800 km bắt nguồn từ xứ tuyết Tây Tạng, với ngót nửa chiều
dài chảy qua Vân Nam TQ, xuống tới Thái Làorồi chảy qua Cambodia, khi tới Phnom
Penh thì chia ra là 4 Nhánh (người Pháp gọi là Quatre Bras / Bốn Cánh Tay): cánh
tay thứ nhất là Mekong Thượng hay dòng chính sông Mekong chảy từ Lào vào Cam Bốt,
cánh tay thứ hai con sông Tonle Sap chảy vào Biển Hồ và hai nhánh kia làSông
Mekong Hạ vào Việt Nam trở thành Sông Tiền, Sông Bassac trở thành Sông Hậu khi
tới Việt Nam. (2)
Điều hoà mực nước Sông
Mekong vùng hạ lưu là ba hồ chứa nước lớn: Biển Hồ ở Cambodia có dung lượng 80
tỉ m3, ĐBSCL có vùng trũng Đồng Tháp Mườivớisức chứa 10 tỉ m3 nước và khu Tứ
Giác Long Xuyên có sức chứa 9.2 tỉ m3 [Cánh đồng Tứ Giác Long Xuyên nối liền với
cánh đồng Takeo bên Cambodia về mặt thuỷ văn]. Vào Mùa Mưa, khi lưu lượng nước
Sông Mekong dâng cao, về phía Cambodia con Sông Tonle Sap đổi chiều chảy ngược
vào Biển Hồ khiến diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần vào Mùa Mưa so với Mùa Khô.
Khi xuống tới ĐBSCL, nước
hai con Sông Tiền và Sông Hậu dâng cao và rồi tràn bờ như một tấm thảm nước đổ
tràn / sheet flow - "vừa chảy vừa chứa" vào hai vùng trũng thiên
nhiên khổng lồ là Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên. Không chỉ có lượng
nước tràn bờ từ hai con Sông Tiền và Sông Hậu, còn phải kể tới lượng nước tràn
từ biên giới Cambodia qua ĐBSCL, do nước khúc Sông Mekong bên Cambodia cũng
tràn bờ đổ vào các cánh đồng lũ / floodplain đổ tràn qua Đồng Tháp Mười và Tứ
Giác Long Xuyên.
Chính là nhờ có 3 hồ chứa
lớn: một ở Cambodia, hai ở ĐBSCL Việt Nam khiến hai con Sông Tiền và Sông Hậu
vào Mùa Mưa, cho dù lưu lượng dòng chảy rất lớn từ 36,000 m3/ giây, có khi tới
39,000 m3/ giây nhưng mực nước hai con sông vẫn chỉ dâng lên từ từ, không đột
ngột gây lụt và tàn phá khủng khiếp như ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc, và
cư dân Miền Tây quen gọi đó là Mùa Nước Nổi hàng năm và họ có kinh nghiệm chung
sống hài hoà biết xem lũ như một tài nguyên.
Sang Mùa Khô, con Sông
Tonle Sap lại đổi chiều chảy xuôi dòng [Tonle Sap là con sông duy nhất có đặc
tính chảy hai chiều theo mùa]; dòng chảy từ Biển Hồ kéo theo bao nhiêu tấn cá
xuống ĐBSCLvà đồng thời nước từ hai túi chứa Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long
Xuyên cũng bắt đầu rỉ rả đổ ra các con sông, kéo dài từ 2 tới 4 tháng khiến ruộng
đồng không thiếu nước và không bị ngập mặn.
Nhưng rồi sự điều hoà
nhịp nhàng và kỳ diệu ấy của hệ sinh thái Sông Mekong đã phải chịu nhiều
"nhân tai", đang bị chính con người phá huỷ: từ những con đập thuỷ điện
khổng lồ chắn ngang dòng chính Sông Mekong ở thượng nguồn, trước tiên là Trung
Quốc và nay tới Lào, các hồ chứa của những con đập này không
chỉ giữ nước mà còn ngăn chặn nguồn phù sa; Biển Hồ thì đang bị thu hẹp và cạn
dần; hai túi nước khổng lồ Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên với tổng cộng
dung lượng ngót 20 tỉ m3 cũng đang bị thu nhỏ lại do đắp đê ngăn đập để làm lúa
3 vụ và mở rộng các khu gia cư.
Hình 10: Vùng Lụt Cambodia và Đồng
Bằng Sông Cửu Long
[nguồn: Akira Yamashita, Department
of Environment and Natural Resources Management, Cần Thơ University, Vietnam]
Nói về hướng đi trong tương lai cho Đồng
Tháp Mười, Th.S Nguyễn Hữu Thiện chuyên gia Vùng Đất Ngập / Wetlands đưa
ra một phân tích:
"Bản thân những con đê không sao cả, nhưng đê khép kín
không cho nước vào quanh năm để canh tác liên tục 3 vụ mới là vấn đề. Lý
tưởng nhứt là giảm xuống còn 2 vụ, để cho nước trong mùa lũ có thể
tràn đồng được, mang theo phù sa, tôm cá, làm tươi mới lại đất đai. Nhưng
mà việc này khó vì khi người dân ở trong đê bao 25 năm thì nhà cửa, mồ mả,
vườn tược đều xây dưới thấp trong vùng trũng, nên bây giờ xả lũ vào
không được nữa. Thực tế là khi mới có đê bao khép kín ở Đồng Tháp Mười,
người dân thích lắm vì có thêm thu nhập, có môi trường khô ráo, có đê làm
đường giao thông thuận tiện, cá mắm thì vẫn còn, nước vẫn còn. Sau đó,
khoảng 10 năm mới thấy chi phí canh tác tăng lên do dinh dưỡng trong đất
bắt đầu suy kiệt, vẫn chưa sao. Sau 15 năm thấy chi phí tăng, nước ô
nhiễm quá, cá mắm không còn, cũng chưa sao. Sau 20 năm thì thấy không
ổn, chi phí canh tác đã đuổi theo gần bằng thu nhập từ lúa. Một gia đình
5 người canh tác 1 hecta lúa 3 vụ không thể đủ sống (trước đây canh tác 2
vụ sống được), phải bỏ nhà cửa đi Bình Dương, ra các thành phố kiếm kế
sinh nhai. Bây giờ nhiều người sống trong đê lâu năm đã thấy vấn đề,
muốn xả lũ vào lấy phù sa lại, nhưng không được. Một ô đê bao như vậy
từ 100-500 hecta tức là có khoảng 100-500 gia đình. Muốn xả lũ vào thì
phải “trưng cầu dân ý”, nhưng không thể đồng thuận được xả lũ vào lại
sẽ thiệt hại nhà cửa, mồ mả, vườn tược như đã nói ở trên. The point of
no return!"
Th.S Nguyễn Hữu Thiện
còn đưa ra những con số cụ thể để giải thích thêm:
"Hiện
nay ở một số ô đê bao, người ta xả lũ luân phiên, cứ 3 năm xả vào một
lần, tức là thay vì 3 năm 9 vụ, người ta làm 3 năm 8 vụ, nghỉ một
vụ. Nhưng xả lũ kiểu này là chỉ cho nước vào vài tấc vào cuối mùa
nên chỉ có tác dụng rửa bớt độc chất chứ không mang vào được phù sa,
trứng cá, mà môi trường ô nhiễm bên trong ô đê bao cá cũng khó sống. Canh
tác thâm canh hại ghê lắm, bây giờ sông ngòi đâu ai dám tắm, bơi lội nữa,
ngứa lắm. Ở nông thôn miền sông nước Cửu Long bây giờ cũng toàn xài
nước ngầm. Cả đồng bằng này, có khoảng 1 triệu giếng khoan, mỗi
ngày rút lên khoảng 2 triệu mét khối nước ngầm, dùng cho công nghiệp,
thủy sản, sinh hoạt, đủ thứ, vậy nên đồng bằng đang bị sụt lún, chìm
xuống nhanh gấp 10 lần nước biển dâng. Với lại, bây giờ người dân đã
phụ thuộc vào thu nhập từ lúa vụ ba, bỏ một vụ người dân không biết
làm gì để có thu nhập. Cho nên dù biết cứ tiếp tục ba vụ thì càng không
ổn về lâu dài, nhưng muốn bỏ bớt vụ ba, chuyển đổi ngược lại thì
phải dần dần chứ không đột ngột được. Giải quyết chuyện này thì cần
nhà nước mới làm được. Chuyện đầu tiên là phải chuyển hướng nông
nghiệp, không tiếp tục đổ tiền của vào thúc đẩy hướng thâm canh nữa mà
đầu tư vào nông nghiệp sạch hơn, tăng giá trị nông sản, đầu tư tạo việc
làm trong ngành chế biến thì dần dần mới giảm số vụ được.
Bây
giờ nhà nước đã nhận ra vấn đề rồi. Gần đây đã có Nghị quyết về chuyện
bỏ chạy theo sản lượng mà tập trung vào chất lượng nông nghiệp, nhưng
quá trình chuyển hướng này chắc phải 10 năm mới xong. Tạm thời chỉ hy
vọng diện tích lúa ba vụ không tăng nữa là tốt lắm rồi, từ từ tính
tiếp."
Khó có thể tưởng tượng
được là hiện nay "diện tích phần nguyên sinh Đồng Tháp Mười" chỉ còn lại khoảng 2%. Sự can thiệp của con người vào
hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long xuyên bất kể hậu quả, đã làm
mất nguồn nước dự trữ cho mùa khô nơi ĐBSCL và cũng có nghĩa là vắt cạn kiệt
tài nguyên môi sinh Đồng Tháp Mười không thể nào phục hồi lại.
Cư dân ĐBSCL đang phải
trả giá cho những bước phát triển huỷ hoại ấy (destructive development). Phục hồi
nguyên trạng hệ sinh thái Sông Mekong và ĐBSCL gần như là không thể được, nhưng
phải biết dừng lại những bước sai lầm để giới hạn tổn thất /damage control và
không làm trầm trọng thêm tình trạng vốn đã bi đát như hiện nay. Vấn đề làlàm
sao tạo được ý thức nơi người nông dân, và cả với giới chức quyền đa số đến từ
Miền Bắc phải hiểu thế nào là phát triển bền vững (sustainaible development). Để
hướng tới những bước phát triển hài hoà cho toàn vùng ĐBSCL thay vì phát triển
tự phát và cục bộ, điều ấy đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn thuyết phục và cả thời
gian.
*
TS Dương Văn Ni người
nhỏ nhắn có nét thuần chất của một nông dân, với đôi chân từng lội ruộng dính
phèn. Năm 9 tuổi đã phải xa gia đình, Tết Mậu Thân, Ni còn là một cậu bé đi rao
bán bánh mì kiếm sống. Ni đã thoát ra khỏi cảnh nghèo bằng cắp sách tới trường
đi học. Với kiến thức anh thu thập được từ các đại học tiên tiến [anh có bằng
MS tại Philippines, rồi Ph.D ở Anh], anh Ni và các bạn đi với chúng tôi ngày
hôm nay đang là bước tiếp nối thế hệ bậcthầy Phạm Hoàng Hộ, thầy Nguyễn Duy
Xuân và rồi tới thế hệ Võ Tòng Xuân về sau này. Trong cố gắng bảo tồn nguồn tài
nguyên thiên nhiên, các anh còn có nỗ lực kích hoạt quá khứ ấy và làm sao kết nối
với đời sống hiện tại. Anh Ni lúc nào cũng đau đáu nghĩ tới thực trạng cuộc sống
của bà con nông dân cũng là phần đời của anh trong đó.
Đến bên một đầm sen, anh
Ni giải thích: "Sen là loại cây phổ
biến ở Việt Nam, nhiều nhất là vùng Đồng Tháp Mười. Lợi ích của cây sen được mọi
người biết tới: từ hoa, hạt, tim sen, ngó sen, lá sen đều có công dụng và ăn được;
ngay cả cọng sen đem gọt phần vỏ nhám đem muối dưa ăn cũng rất ngon và dòn,
ngon hơn cả rau muống. Duy có tơ sen lấy từ cọng sen là chưa được khai thác
đúng mức tuymới đây đã có một cô doanh nhân trẻ từ Sài Gòn bắt đầu đi vào thử
nghiệm khai thác."
Hình 11:Cánh đồng sen Đồng Tháp
đang mùa trổ hoa. [photo by Dương Văn Ni]
Theo TS Lê Anh Tuấn, loại
lụa đặc biệt làm từ tơ sen không phải là mới với một số quốc gia Đông Nam Á. Đó
là một nghề truyền thống có từ cả trăm năm nơi ngôi làng Paw Khon, Miến Điện. Lụa này được dệt từ những
sợi tơ kéo ra từ thân cây sen, tuy là sản phẩm hiếm và đắt giá nhưng rấtthu hút
du khách. Một chiếc khăn san dệt bằng tơ sen có giá thành đắt hơn lụa / silk có
thể lên đến 100 USD. [vnexpress.net](4)
Mới đây 2009, một doanh nhân trẻ người Pháp Awen Delaval, đã lập một Công ty thời trang làm lụa từ tơ sen ở
tỉnh Siêm Riệp, nơi có khu đền đài Angkor. Đây là một ngành tiểu công nghệ đòi
hỏi nhiều công đoạn và rất tốn thời gian: để dệt được 1mét lụa sen, phải cần
khoảng 15.000 cọng sen để kéo được 3.000m sợi chỉ sen. Giá thành sản phẩm từ lụa
sen rất cao như một chiếc áo làm từ lụa sen có giá 2.000 USD, một chiếc váy có
giá lên tới 4.000 USD nhưng vẫn có người tìm mua. Do mức sản xuất không đủ đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của du khách, công ty của Awen Delaval đã phải lập riêng
một nông trại sen với diện tích 20 hecta, để có thêm nguyên liệu cọng sen mở rộng
sản xuất. [vtv.vn/kinh-te](4)
Nguyên liệu
sen thì Đồng Tháp không hề thiếu, chỉ cần giới doanh nhân trẻ dám mạnh dạn đầu
tư và đem lại công ăn việc làm cho bao cô gái Đồng Tháp, hay các cô gái Miền
Tây nói chung, thay vì bỏ mặc họ phải bỏ quê lên thành phố kiếm sống hay phải
chọn đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan và mới đây nhiều hơn, đang được khuyến
khích là kết hôn với đám công nhân Tàu đang làm việc ở Việt Nam, hợp pháp hay
không. Mong rằng tấn thảm kịch bị Hán hoá / Sinicization như quốc gia Tây Tạng
không diễn ra ở ĐBSCL vào những thập niên tới. Người Tây Tạng ngày nay đã trở
thành thiểu số trên chính quê hương họ.
ĐẾN VỚI NHỮNG KHỐI ĐÁ
LÃNG QUÊN
Rải rác trên nền lá khô,
dưới các tầng cây cao không thể không chú ý tới những khối đá tảng, có hình như
những khối vuông hình cột. Theo anh Võ Tấn Nghĩa người
trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, thì đây là nhữngkhối đá có gốc gác từ nền văn
hoá Phù Nam hơn 1,500 năm trước,nguyên là chiếc cổng bằng đá đi vào Đền Thần
Shiva; do một trận đại hồng thuỷ vào Thế kỷ thứ VII, bị đổ sập một số trôi dạt xuống
đây. [sic]
Nhìn kỹ trên mặt đá, có
chút tò mò mới thấy được những nét chữ khác nhau khắc trên mặt đá, và có lẽ chỉ
mới đây thôi - từ thế kỷ trước, nayđã lu mờ do sức tàn phá của những trận mưa
acid và sức bào mòn của thời gian.TS Lê Phát Quới trong nhóm tìm đọc và chụp
hình với ống kính zoom những bài thơ rải rác trên mặt đá. Mấy dòng thơ cảm khái
anh Quới đọc mà tôi còn nhớ được, có tựa đề Đồng
Tháp Mười, không ghi ngày tháng, tác giả thì khuyết danh
Còn non còn nước còn ta
Non mòn biển cạn lòng ta vẫn đầy
Hình 15: theo
anh Nghĩa, người trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, thì đây là một trong những tảng
đá từ cổng vào Đền Thần Shiva có gốc gác từ nền văn hoá Phù Nam từ hơn 1500
năm, bị ngã đổ và trôi dạt sau một trận đại hồng thuỷ vào Thế kỷ thứ VII. Các
bài thơ và bàn cờ tướng khắc trên đá chỉ mới có từ thế kỷ XX về sau này. Từ phải:
anh Nghĩa Gò Tháp, TS Lê Phát Quới Viện Tài Nguyên - Môi Trường ĐHQG Tp. HCM,
TS Lê Anh Tuấn Viện Biến Đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ. [Photo by Ngô Thế Vinh]
THÊM MỘT BÀI THƠ KHÁC
TRÊN ĐÁ, GÒ THÁP 1956
Trên mặt bằng phẳng một
khối đá khác, tôi không khỏi ngạc nhiên khi đọc được một dòng chữ tương đối còn
rõ nét: Toàn dân Đồng Tháp ghi ơn Ngô Tổng
Thống và đó cũng là câu đầu của một bài thơ mộc mạc nhưng cảm động ghi lại
chuyến viếng thăm Đồng Tháp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 13 tháng 7
năm 1956 tức năm Bính Thân.
Anh Nghĩa người trông
coi khu Bảo tồn Gò Tháp, tuổi chừng 40 có dáng vẻ đôn hậu của người dân Nam Bộ,
khi TT Ngô Đình Diệm tới đây thì anh chưa sinh ra, anh nói lại như một cổ tích:
"Tháng 7 năm 1956, Ngô Đình Diệm tới
đây khánh thành một công trình tỉnh Đồng Tháp, có tới ngồi đây đánh cờ, ăn chén
bắp xôi, uống ly rượu nghĩa tình với dân Đồng Tháp." [sic]
Chúng tôi cùng nhau phải
vừa đọc vừa đoán, dù hết sức tập trung, cũng vẫn là câu được câu mất. Hơn 60
năm rồi còn gì, liên tục phơi mình trong những cơn mưa lũ trong cái nóng ẩm miền
nhiệt đới, những khối sa thạch ấy đang bị bào mòn theo thời gian.
Khi hỏi, mới được biết
bài thơ khắc trên đá ấy không có trong cuốn sách Gò Tháp (3) vừa tái bản nhưng anh Nghĩa cũng đã ghi lại bài thơ bằng
máy đánh chữ rồi được lưu trong máy như tài liệu riêng. Chúng tôi yêu cầu có
bài thơ ấy và anh Nghĩa hứa là sẽ gửi cho chúng tôi.
Và rồi ba ngày sau, trước
khi rời Sài Gòn, tôi đã được anh Nghĩa Gò Tháp gửi qua điện thư cho một bản chụp
và dưới đây là nguyên vẹn bài thơ dân Đồng Tháp ghi ơn Tổng thống Ngô Đình Diệm
khắc trên đá.
Nơi đầu trang toàn bài
thơ là ba dòng chữ viết tay:
Hình 17: bài thơ Toàn dân Đồng Tháp
ghi ơn Ngô Tổng Thống
[nguồn: tư liệu của anh Nghĩa Gò
Tháp]
Toàn
dân Đồng Tháp ghi ơn Ngô Tổng Thống
Ngàn
năm một thuở, vùng chính khí in bước Ngô chí sĩ
Quan
san cách trở viếng cảnh người xưa suối vàng chắc hẳn
Tổng
Đốc Binh Kiều. Tất* dạ khuây, cho hay, nhân sinh
tự
cổ thuỳ vô tử, tử ư quốc sự, tử cương thường.
Hết
viếng người xưa, đến viếng dân,
Toàn
dân Đồng Tháp đến tri ân, thương người lận đận
vì
non nước, ký thác cuộc đời cho núi sông.
Nơi
đây 13/7 năm Bính Thân " 1956 "
Tổng
Thống ăn ngồi chung với dân,
Xếp
bằng mặt đất bên chén bắp sôi,
Chai
rượu nếp, tình người cao cả rộng bao la.
Đại
tá Văn Là tường thuật sự,
Tháp
mười đô thị thành hồng khách,
Báo
quốc vong thân độc nhất quân,
Gẫm
chuyện cổ kim chưa từng có,
Gò
Tháp chốn nầy tạt* đá ghi.
Gò
tháp ngày 14/7 năm Bính Thân 1956.
Một
giải phóng quân Đồng Tháp đã khổ
mới
chịu khổ để cứu khổ kẻ khác
Viết
theo trên tản* đá còn lại ở nền Tháp Mười tầng.
Một trang sử đã qua đi,
không luận tới chuyện thành bại, ngậm ngùi để thấy rằng Miền Nam, Châu Á đã mất
đi một khuôn mặt lãnh đạo "nhân cách."
NGÔ THẾ
VINH
Đồng Tháp
Mười 12.2017
* Ghi chú của người viết:
vẫn giữ nguyên các từ ngữ "địch, ta" và những đánh vần sai chánh tả từ
bản gốc.
Tham
khảo:
1/
Nguyễn Hiến Lê, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Nxb Nguyễn Hiến Lê, Saigon 1954
2/Ngô
Thế Vinh, Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng.
Nxb
Văn Nghệ California 2000
3/
Trần Ngươn Phiêu. Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười. Amarillo, Texas 2006. [tư liệu
Ngô Thế Vinh]. Diễn Đàn Thế Kỷ 6.12.2010
4/
Gò Tháp, Di tích Quốc gia Đặc biệt. Nxb Văn Hoá-Văn Nghệ, Saigon 2016
5/
Lụa dệt từ sợi tơ sen khá phổ biến ở Myanmar và Cambodia: