Thứ Bảy, 26 tháng 8, 2017
Hoàng Dũng: Một trẻ, một già và một câu hỏi
Về cuốn Từ điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu của Hoàng Tuấn Công.
Hai
người cách nhau 64 tuổi. Một được đào tạo về dân tộc học, làm công tác khuyến
nông ở một tỉnh lẻ, gần như vô danh trong chuyên ngành từ điển, nghiên cứu là
chuyện tay trái, sau khi hoàn thành công việc tại cơ quan. Một dạy đại học, nổi
danh trong giới nghiên cứu, với danh hiệu Nhà giáo nhân dân, giải thưởng Nhà
nước về khoa học và công nghệ, suốt đời cặm cụi làm từ điển, là tác giả và đồng
tác giả của gần 10 cuốn từ điển.
2000
cuốn thuần học thuật với giá không hề rẻ mà chỉ trong vòng một tuần bán hết veo
và nhà xuất bản phải tính đến chuyện tái bản. Đấy là một sự kiện chưa từng có.
Người ta háo hức tìm đọc cuốn Từ điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân – Phê
bình và khảo cứu, một trong những lý do có lẽ là sự “bất đối xứng” khổng lồ
giữa hai tác giả. Hơn nữa, trong sinh hoạt học thuật ở nước ta, lần đầu
tiên mới có một công trình dày dặn, tới gần 600 trang, do một người viết phê
phán một người. Ngày xưa, Ngô Tất Tố có cho xuất bản Phê bình Nho giáo của
Trần Trọng Kim (Hà Nội: Mai Lĩnh, 1940), nhưng tuổi tác và vị trí học thuật
giữa Ngô Tất Tố và Trần Trọng Kim không chênh lệch nhau đến thế và cuốn sách
của Ngô Tất Tố cũng tương đối mỏng, chỉ 74 trang.
Nhưng
công trình của Hoàng Tuấn Công sẽ nhanh chóng là một xì-căng-đan học thuật nếu
nó không có một giá trị khoa học vững chắc. Đọc Hoàng Tuấn Công, phải thừa nhận
tác giả có một cách làm việc minh bạch, khoa học: mỗi luận điểm đều được biện
giải, dẫn chứng nguồn tư liệu của chính tác giả hay của các công trình đi
trước; độc giả hoàn toàn có thể tự kiểm tra.
Những
ai từng đọc các giai thoại về “Vua chính tả” Nguyễn Lân sẽ sửng sốt khi thấy
chỉ trong cuốn sách mỏng (chỉ hơn 100 trang) Muốn đúng chính tả, mà
Hoàng Tuấn Công trưng ra được đến 22 lỗi, trong đó có những lỗi khó tưởng tượng
được ở một học giả chuyên về từ điển, như quyến dũ, xàm xỡ,
trạnh lòng, sun soe, (ngã) xóng
xoài, xặc sỡ, dây trun, …
Mà
đâu chỉ là chính tả. Làm từ điển tiếng Việt, thì tiếng Việt của tác giả phải ở
mức điêu luyện và uyên bác. Đằng này, Hoàng Tuấn Công đưa ra những bằng chứng cho
thấy tiếng Việt của cụ Nguyễn Lân quả có vấn đề. Vài ví dụ: (1) Nguyễn Lân: “phá
lên cười đgt Nói đám đông đồng thời cười rộ lên: Cả nhà phá lên
cười (NgTuân)”. Hoàng Tuấn Công: “Đó chỉ là nghĩa của “phá lên
cười” trong câu văn của Nguyễn Tuân. Một người bất ngờ bật lên tiếng cười
to, sảng khoái vẫn có thể gọi là “phá lên cười”, hoặc cười phá lên,
không dứt khoát phải là “đám đông đồng thời cười rộ””. (2) Nguyễn Lân: “thổn
thức đgt Khóc nức nở: Cô thổn thức, cố nén tiếng khóc
(NgĐThi)”. Hoàng Tuấn Công: “Đã “khóc nức nở” làm sao còn gọi là “thổn
thức”? Thực ra, cách hiểu từ “thổn thức” đã nằm ngay trong câu văn
của Nguyễn Đình Thi mà GS Nguyễn Lân lấy làm ví dụ: “Cô thổn thức, cố
nén tiếng khóc””. Bao nhiêu lỗi loại này? Hơn 70!
Làm
từ điển, nhất thiết phải có một vốn tri thức nhất định về ngôn ngữ học. Hoàng
Tuấn Công dành 14 trang để chứng minh cụ Nguyễn Lân không phân biệt được cụm
từ, danh ngữ, thuật ngữ, quán ngữ với thành ngữ;
tục ngữ với ca dao; thành ngữ, tục ngữ với câu đố;
từ và cụm từ tự do. Điều này sẽ làm nhiều người ngạc nhiên nếu nhớ
rằng ngay từ 1956, cụ đã là tác giả bộ sách Ngữ pháp Việt Nam từ lớp 1
đến lớp 7.
Làm
từ điển tiếng Việt mà không có vốn tiếng Hán, thì đó là chuyện liều lĩnh. Hoàng
Tuấn Công dành hẳn phần II với hơn 50 trang để phê phán hơn 100
lỗi loại này trong cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt. Đó là chưa kể những
lỗi ở cuốn này lặp lại ở cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam mà Hoàng Tuấn
Công cũng phải dành hẳn phần III với hơn 200 trang để phê phán trên
500 lỗi!
Làm
từ điển đòi hỏi phải có kiến thức bách khoa, chứ không chỉ những hiểu biết liên
quan đến ngôn ngữ. Hoàng Tuấn Công khẳng định qua rất nhiều dẫn chứng cụ Nguyễn
Lân thiếu hụt kiến văn. Như khi cụ cho rằng rắn hổ mang là “loài rắn độc, đầu
hình tam giác, hàm dưới bạnh ra như hai cái mang”, thì Hoàng Tuấn Công
đính chính: “Có vẻ như soạn giả chưa bao giờ nhìn thấy con rắn hổ mang, cũng
chưa tìm hiểu qua tài liệu sách vở xem hình thù nó ra sao: 1. Đầu
rắn hổ mang rộng, hơi dẹp, không phân biệt rõ so với cổ, mõm tròn,
chứ không phải “hình tam giác”. 2. Phần “bạnh ra” của hổ
mang là cổ chứ không phải “hàm dưới””. Hoặc khi cụ
giảng vịt già gà to là “Ý nói: vịt có già, gà có to thì thịt mới ngon”,
thì Hoàng Tuấn Công phản biện: “Chép sai câu tục ngữ rồi giảng sai luôn nghĩa. Hình
thức đúng của câu này là “Vịt già, gà tơ”, nghĩa là vịt phải già
tháng nuôi một chút; gà phải là gà tơ, nhảy ổ đẻ mới ngon”.
Và
sau hết, hay trước hết, làm từ điển phải có một phương pháp khoa học. Hoàng
Tuấn Công cho thấy cụ Nguyễn Lân thiếu hẳn một cách làm như vậy: sách của cụ
không hề ghi thư mục tham khảo, hay bất cứ tài liệu, sách báo tra cứu, tham
khảo nào; và trên thực tế, rất nhiều lỗi hoàn toàn có thể tránh được nếu cụ cẩn
thận tra cứu, chứ không phải suy diễn, phỏng đoán. Mặt khác, có rất nhiều khi
cụ lấy từ điển làm nơi để giảng giải quan điểm giai cấp hoặc chính trị, mà quên
đi nhiệm vụ của người làm từ điển là giải thích một cách khách quan, đúng như
nó được dùng trong thực tế.
Đọc
những dòng tự tin chắc nịch “Sai”, “Không đúng”, “Không chính xác”, “Giảng
sai”, “Sai hoàn toàn”, “Nhầm”, “Nhầm lẫn”, … người ta thấy thú vị vì cách viết
không kiêng nể của một người trẻ đối với một lão trượng. Xấc láo chăng? Năm
1928, ông tú Phan Khôi 41 tuổi, trẻ hơn Hoàng Tuấn Công bây giờ, viết bài bút
chiến trên Đông Pháp thời báo với một tên tuổi như Mính Viên Huỳnh Thúc
Kháng, tiến sĩ, nhà cách mạng đi tù Côn Đảo 13 năm, đương kim Viện trưởng Viện
Dân biểu Trung Kỳ. Cụ Huỳnh nhanh chóng trả lời, nói thẳng tâm phục lời chỉ
trích của Phan Khôi! Lẽ nào chúng ta còn thua cách ứng xử cách đây gần một thế
kỷ?
Có
người vin vào tuổi tác của cụ Nguyễn Lân (Từ điển từ và ngữ Việt Nam
viết năm 90 tuổi và hoàn thành năm 95 tuổi) để xác quyết những ý kiến phê phán
công trình của cụ là “thật nhẫn tâm với một người suốt đời chăm lo cho sự trong
sáng của tiếng Việt”. Đó là là cách nói ngụy biện, đánh vào lòng thương (argumentum
ad misericordiam), thay vì trả lời thẳng vào vấn đề. Chưa kể thực ra, không
phải đến Từ điển từ và ngữ Việt Nam năm 2000 mới có lỗi, mà dễ dàng chứng
minh những sai sót của cụ ngay từ cuốn đầu tiên Muốn đúng chính tả, xuất
bản năm 1949, lúc cụ 43 tuổi, xuyên suốt cho đến cuốn cuối cùng. Nói như An
Chi, “Học giả hoặc nhà văn, dù đã quá cố, vẫn phải vĩnh viễn chịu trách nhiệm
về những gì họ đã viết” (“Về thái độ của ông Vũ Đức Phúc trong tranh luận học
thuật”, Kiến thức ngày nay, số 318, 10/6/1999).
Tuy
không phải là người đầu tiên viết về những sai sót trong từ điển của cụ Nguyễn
Lân, nhưng Hoàng Tuấn Công có lẽ sẽ là người cuối cùng căn bản khép lại vấn đề
đã kéo dài hàng chục năm qua với nhiều tranh cãi. Nhìn theo một chiều hướng
khác, cuốn sách vượt ra ngoài khuôn khổ cuộc tranh luận với một cá nhân. Nói
như tác giả, “nội dung sách thực chất là những Phê bình và khảo cứu về việc
giải nghĩa tiếng Việt”. Đó là một đóng góp lớn cho khoa Từ điển học của nước
ta.
Hiện
tượng Hoàng Tuấn Công là điều đáng mừng cho học thuật nước nhà. Và nhà xuất bản
Hội Nhà văn cho in cuốn sách, là đã vượt qua cái cấm kỵ vô hình, đem đến một
làn gió mới cho ngành xuất bản và giới nghiên cứu. Nó cho thấy mọi tượng đài
đều phải chịu thử thách của lý trí và mọi vinh danh trong hiện tại không có gì
đảm bảo bền vững trong tương lai.
Cuốn
sách của Hoàng Tuấn Công đặt một câu hỏi nghiêm túc về cơ chế quản lý khoa học
hiện hành: Làm thế nào mà những công trình đầy rẫy sai sót như vậy lại có thể
vượt qua lớp lớp kiểm định để nghiễm nhiên được trao Giải thưởng Nhà nước?
Nguồn: Văn Việt