Không bao giờ tôi hình
dung ra, sẽ có ngày cùng
chị Diên Hồng sánh
đôi đi trên
con đường này. Con đường mà chính
tôi cảm thấy xa lạ, cảm tưởng như cuối lối đi luôn
chực sẵn nỗi phiền muộn vây đón.
Tôi ít khi đi về
hướng này, hướng mặt trời lặn. Buổi sáng, nắng đổ
sau lưng như rượt đuổi và cánh đồng
luá mạ phía xa xanh xao, lay động như một tấm
thảm trong truyện cổ tích. Sự
lặng yên của vùng
ngoại ô như biết
đè xuống hàng
cây, tạo tiếng lao xao trên vòm lá
có chúng tôi đạp
xe bên dưới. Đôi khi bóng
cây già tuổi ven đường
bất thần ôm chầm
lấy mình, mát mẻ.
Đôi khi nghe tiếng trở mình của
bụi tre, như có ai khuất
mặt vừa nghiến răng, giỡn đùa.
Một thế giới tĩnh, mà tiếng thì
thầm cố lắng tai nghe đều
không phải phát xuất từ
con người.
Chúng tôi chẳng nói với nhau từ
khi bước ra khỏi quán cà-phê.
Chị Diên Hồng về
đây đã
hai hôm, và giờ này,
tuồng như trong chị chẳng còn chuyện gì
để tuôn ra. Khánh tận, nghèo nàn,
như dòng sông nhỏ
uốn lượn bên đường đang
tới đoạn cạn
thấp mực nước. Một người khom lưng ngâm thân dưới
bùn dùng lưới cố
vớt lên thứ gì
đó. Cá, cua, nghêu
sò ốc hến? Bà đội nón
lá, và lá chẳng
phải là thứ bất
tử. Bà ngẩng mặt
ngó lên chúng tôi,
đôi mắt vô
hồn lộ rõ dưới
vành nón tơi tả,
rã mục.
“Bao lâu nữa thì tới?”
Chị Diên Hồng hỏi.
“Cỡ mười phút
nữa. Chị không quen cỡi xe đạp phải không?”
Chị tôi làm
thinh, chị bận thở. Tôi nhìn ngọn
đồi trọc nằm cuối tầm nhìn. Ngọn đồi
ấy vẫn thế, loang lổ những vạt đất khai hoang, lởm chởm
những vạt cây cỏ xỉn
màu còi cọc. Ở
xa, trông nó như cái đầu người
bị ghẻ, rụng tóc. Dầu sao thì thiên
nhiên có vẻ chung tình, để
sáng hôm nay nó đón chào chúng
tôi bằng cái diện mạo
đầy buồn bã ấy. Nó
cũ kỹ tới độ
đáng ngờ vực.
Sách Quốc văn giáo khoa thư ngày xưa có
chuyện kể: “Một
người có tiếng là đi
nhiều, một hôm trở về
làng cũ dõng dạc
tuyên bố: Không nơi nào
đẹp bằng chốn này.” Tôi
luôn nghi ngờ sự thật
thà có trong câu nói ấy,
ngay từ tấm bé, thuở đầu
đời cắp sách đến trường.
Vì thế, giờ đây,
tôi chẳng hề hỏi han chị
tôi về chuyện cảnh vật biến hoá, xứ Tây
phương cực lạc cũng như quê cha đất tổ
chó ăn đá
gà ăn muối. Tôi đủ trí
khôn để tránh né, không
muốn chị phải cực lòng để làm
một cuộc so sánh.
“Xa xôi
quá.”
“Chị nói sao?”
“Thử mường tượng
ra cảnh đưa đám. Thật
khó nhọc cho em. Sao mình không chọn một chỗ gần hơn?”
“Nhà nước chỉ định hết
chị ạ. Mọi thứ đều có
giai cấp, có lớp lang. Không phải
sự bình đẳng là
điều mình được nhìn thấy
khi chết đi.”
“Chôn trên đồi cao?”
“Dạ. Đất ở
đó nhiều đá, cuốc mẻ
lưỡi. Huyệt hơi nông, nhưng người
ta an ủi, lụt lội khó tới quấy
rầy. Cao bao giờ cũng hơn
thấp, họ nói vậy.”
“Tiền chị gửi về
xây mộ có giúp
em bớt chật vật không?”
Tôi tránh vội một ổ gà
chứa đầy nước ngầu đục. Tôi
ngậm câm. Tôi không
hiểu chữ bớt chật
vật mà chị dùng.
Tôi là một lỗ
trũng chẳng bao giờ hứng đọng
được nước mưa. Luôn khô ráo,
luôn hạn hán. Ba trăm đô-la.
Ừ, nó to tát quá
chừng. Đồng thời nó chẳng là
cái gì hết nếu
một người trong gia đình bạn
đột nhiên nhắm mắt
xây lưng lại với đời sống
khó hiểu này. Dầu sao muốn
sống còn bạn phải
luôn nằm lòng câu: “Có còn hơn
không.” Sáng hôm
nay tôi đã điểm tâm dĩa bánh
cuốn, uống cốc cà-phê sữa
nóng, hút một điếu thuốc thơm. Và tôi vênh
váo mặt mày bởi có
được một người chị Việt kiều xịn. Bạn thấy đó,
những thằng gầm đầu đếm
bước là những thằng
vô sản chuyên chính thứ
thiệt. Bọn nó ra đời dưới
những vì sao xấu. Và
triết lý của tụi
ấy là gì, nếu
như không muốn nói:
“Thà đốt lên
một que diêm còn hơn
ngồi nguyền rủa bóng tối.”
Vài ba hôm nữa chị
Diên Hồng lại ra đi. Tôi tiễn chị,
đồng nghĩa với nhìn ánh sáng vụt tắt trên đầu một
que diêm quá đỗi nhỏ
bé, hao gầy.
Ngọn đồi không
mấy dốc nhưng chị Diên Hồng chẳng
thể đạp xe tiếp. Chúng tôi xuống
xe, đi theo cái lối mòn
dẫn dắt quanh co một cách vô lối.
Chị Diên Hồng là
chị kế, hơn tôi bốn tuổi,
tôi là con trai út trong
một gia đình có
cả thảy ba người chị. Và tôi thực
tâm chẳng nhớ rõ là
ngày xưa mình có được
cưng chìu không? Một
đứa con trai, điều ấy
thực ra cũng cần thiết, ít nhất ở
trong cái định nghĩa: Nó là đứa
kế thừa và tiếp tục
gieo mầm phát sinh cho dòng họ khỏi bị chôn vùi, tuyệt
tự. Hôm chị Diên
Hồng về, câu đầu tiên
chị hỏi:
“Nghị đã
có người yêu chưa, bao giờ
thì lấy vợ?”
Người yêu? Ai lại phải
lòng một thằng khố rách áo
ôm bao giờ? Không biết viện
dẫn lý do, tôi đành lắc đầu.
Chị bảo:
“Như thế mà hơn.
Cực một mình chứ đừng
bắt kẻ khác phải cực
theo. Tóc Nghị bạc đã nhiều, thôi
cứ ở vậy cho sướng.”
Những luận cứ chị đưa ra không phải
là vô căn cứ.
Những gì đúng
thì mình phải nghe theo. Và như
thế, theo cái đà
ấy, mai hậu biết có còn họ
Hồ tồn tại? Điều đó chẳng phải
là cái mà chị
bận tâm. Chị có
khối chuyện để lo toan, chia tiền Mỹ
ra hai ba phần đồng đều để đem san sẻ
chia sớt cho bà con thân thích.
Chị ra chợ mua hương đèn vàng
bạc hoa quả, nóng lòng hối
thúc tôi dắt chị
đi nhìn chỗ an nghỉ
của Ba.
Chỗ Ba tôi nằm trước
đây cô quạnh,
hiu hắt. Có thể do trận
thiên tai lụt bão xẩy ra vừa
rồi khiến ông có
thêm nhiều láng giềng, bạn
mới. Những ngôi mộ không
theo một quy luật nào cả khi đào xới, xây
cất. Nó khác với
đồ án, công trình
xây dựng nhà cửa ở
thành phố. Sự lộn xộn
và tùy tiện đó khiến tôi
phải tốn khá nhiều hơi
sức khi nhận diện ra “căn hộ” của ông.
Chúng tôi dựng xe bên một
cây thông con. Gió len lỏi tới
từ bên kia ngọn đồi để
gửi theo tiếng vi vu nhột nhạt ngoài vành tai. Trong gió
có mang theo hương thơm, mùi ngây ngất
dễ chịu. Tôi thầm đoán, nhưng sau cùng mới
vỡ lẽ đấy là
mùi nước hoa tỏa ngát trên người
chị Diên Hồng. Chị
đã sanh được một
cháu gái, hai tuổi. Nó và ông
chồng chị thì đang bận
thăm thú gia đình
bên nội ở Sài-Gòn. Nó mệt
vì phải đi xa, cách tốt nhất
là nên dưỡng sức
ở trong đó đợi
ngày trở lại Mỹ.
Chị nói vậy. Một
đứa con, sách vở đã từng nhận
xét: “Gái một
con trông mòn con mắt.”
Chị tôi đẹp, khách quan mà
nói vậy. Chị có những
đường nét mà tôi
không có được. Nói cho đúng đắn là
hai chị em mà chẳng có
chút gì giống nhau. Ra đường,
tôi đã đón nhận nhiều
ánh mắt ganh tị của những
thằng đàn ông
bắn tới tôi, cũng có
loạn xạ những tròng con mắt dán chặt vào
ngực vào mông chị.
Chị tròn đầy, trắng
trẻo, thơm tho. Tôi dơ xương,
đen đúa, nhớp
nhúa và xấu xa; từ cơ thể
cho tới đầu óc. Đêm
đầu tiên chị ghé
thăm, trò chuyện không
lâu chị vội vàng
ôm đồ đoàn
đi. Chị nói: Về
ngủ ở khách sạn... Chị
sợ hãi một điều gì? Căn nhà
tồi tàn dơ bẩn?
Thằn lằn, ruồi muỗi, rệp gián? Hay chị sợ... Tôi
cố gắng để không dám nghĩ tiếp. Đêm đó tôi ngủ
muộn, một giấc ngủ đầy mộng
mị, quái đản và
loạn luân. Tôi chờ
ngày hôm nay, tôi sẽ nguôi
ngoai những mặc cảm tội lỗi khi đứng cúi đầu khấn
nguyện bên mộ Ba tôi.
Nghe đồn Ba tôi trước đây là một
kẻ đào hoa. Những
nơi ông dừng chân
trong khi đi công tác đều
có để lại ở đấy
những mối tình vụng trộm.
Cha ăn mặn, con khát nước. Điều đó
có đúng không?
Chị Diên Hồng bày
lễ vật ra đặt dưới chân tấm bia. Bia xi-măng sần
sùi, ở giữa có nhận chìm
một tấm ảnh đen
trắng. Khuôn mặt người
đàn ông sáng
sủa, cương nghị, tóc láng ướt
chải lui sau, mắt nhìn chăm vô
dáng đứng gục đầu của
chị Diên Hồng. Chị
lẩm bẩm khấn vái. Chị sụt
sùi kể lể. Tôi
nhìn khói ùn lên
từ đầu bó hương. Xanh xám, cay mắt.
Khói nghi ngút cháy với
một thứ mùi không
lấy gì làm thơm.
Nó bắt đầu óc
phải bần thần, nó dẫn người
ta tới những suy diễn chẳng mấy đẹp. Về
cái chết chẳng hạn. Tôi ngó tấm
chân dung ăn gian của Ba tôi, chụp hồi
ông còn là trung niên
tráng kiện. Tôi đọc những
hàng chữ khắc vụng về trên bia, tên tôi nằm cuối
cùng trên chữ “đồng phụng lập”. Và
tôi phát hiện tất
cả những chữ ấy đều
viết sai chính tả. Sắc,
huyền, hỏi, ngã, nặng nằm
không đúng với
vị trí chính đáng của nó.
Ba tôi hẳn phải bực mình vô hạn?
Hơn ai cả ông là
người luôn khinh thị ra mặt những kẻ vô học.
Chị Diên Hồng sáng
dạ học giỏi nhất nhà và chị
đã trở thành
niềm hãnh diện của
ông, đi đâu
cũng khoe khoan. Ông luôn nhại
câu nói của văn
hào Victor Hugo: “Trí tuệ
giàu lên nhờ cái
nó nhận vào. Con tim giàu lên nhờ
cái nó cho đi.”
Một câu khác cũng thường được ông nhắc nhở:
“Sách vở
là người bạn thiết không hề biết
phản bội mình.” Ông
bỏ công nhồi sọ
chúng tôi những lời
vàng ngọc của thánh hiền. Và
oan uổng cho ông, ông không
thể tưởng được, một đôi
khi, giai cấp bần cố nông, bọn
vô học, cũng có lúc ngoi đầu lên làm chủ
được vận mệnh một đất nước.
Cái đất nước mà khi ông chết,
người đến phúng điếu
tươi cười vỗ vai tôi: Ba mi chết rứa là hạnh phúc
đó. Sống như
tao còn khổ hơn một
con chó!
“Trước khi chết Ba có trối trăn
điều gì không?”
Chị Diên Hồng quay đầu
hỏi.
“Không.” Tôi
trả lời. Nhìn sâu vào
đôi mắt ướt
át đen láy của chị.
Sao chị chẳng hề hỏi tôi:
Em muốn qua Mỹ sống gần
chị không? Chị làm
đơn bảo lãnh.
“Ba không thổ lộ cho Nghị
nghe một nỗi niềm riêng tư nào
cả?”
“Hoàn toàn
không. Ông chỉ nói một câu,
cái câu mà em từng
viết trong thư gửi chị:
Diên Hồng đâu? Tự
dưng Ba ưa nhìn mặt chị
của con.”
Chị Diên Hồng chảy
nước mắt. Tôi muốn ôm
chị vỗ về nhưng
sợ hãi một điều gì vô cớ.
“Chị cảm thấy
có lỗi với Nghị...”
Chị nói nhỏ,
cố nén tiếng khóc
òa vỡ ra. Giọt nước mắt rơi khỏi cằm. Nó mặn không
nếu tôi được nếm
thử? Tôi ngó vết
rạn nứt trên bề mặt
ngôi mộ đắp xi-măng.
Người nằm dưới hẳn sẽ chẳng bao giờ nghe hiểu tiếng nhân gian đang lao xao.
“Chị có khấn
nguyện với Ba, hãy cho chị thế mặt Ba nói với
Nghị một điều
hệ trọng. Chị sợ về
Mỹ rồi sẽ hết còn
cơ hội để nói
ra.”
Tôi nhìn chữ Guess in sơn trắng trên áo thun đen
chị mặc. Nhìn những nhịp
đập rối loạn không ngừng lên
xuống đang xẩy ra mơ hồ ở
đằng sau. Hôm trước, chị
có trao quà cho tôi một
chiếc áo tựa thế,
tuy vậy điểm khác
biệt là chữ CK in có hơi
lớn, hơi phô trương. Chị
hỏi, Nghị biết hiệu Calvin Klein không? Tôi bông
lơn, nghĩa là gì? Coi bộ
mặc nó không thích
hợp, bởi em chẳng có gì để
phải Cần Kiệm cả. Hay là tròng nó
vào người rồi đi rêu rao giữa
phố phường: Cho Không. Chọn Kiểu...?
“Chị sẽ ân
hận nếu mãi giữ kín
trong lòng... Nếu có gì, xin Nghị
thứ lỗi cho chị...”
“Chị không có lỗi
gì cả, hoặc nếu có, em thề không
đời nào đem lòng
oán trách. Chị về
thăm là cả một
niềm vui lớn, chị tin không?”
Tôi muốn lau nước mắt cho chị nhưng không đủ can đảm.
Mới nghĩ qua, tay đã run lên,
đành cúi đầu
nhìn những cọng cỏ đang mềm
ướt. Chị mang dép da, những ngón trắng hồng
sạch sẽ nằm thứ
lớp trên một bàn
chân đầy đặn. Ở người chị, mọi thứ như đều hoàn hảo.
Có đêm tôi
nằm mộng thấy chị hiền hậu, mang đầy vẻ đẹp sáng
ngời như Phật Bà Quan Âm: “Nghị đang ôm
ấp một điều
ước gì? Nói ra chị
sẽ biến nó thành hiện
thực.” Tôi tỉnh
giấc và lòng rối
bời những ham muốn không thành lời,
tiếc nuối.
“Nếu Nghị không trách cứ thì chị xin được
nói ra. Nghị là nghị
lực, phải không? Phút giây
này, bên mộ Ba, có lẽ
điều đó
giúp cho chị thêm can đảm.”
“Chị khó hiểu hơn
Nghị tưởng. Không phải là
người Tây phương họ
đều thẳng thắn và sòng phẳng
sao? Ở bên đó
đã lâu sao chị
còn Việt-Nam rặt vậy? Quanh co, úp mở là
điều mình cần tránh,
nó làm Nghị hoài
nghi về tình chị em ruột
thịt.”
Tôi nói, giọng hơi khan. Tôi nhìn vào
mặt chị Diên Hồng, cố
tìm ở đấy một
vài nét từa tựa
như khuôn mặt tôi,
kẻ mà Ba Má đã nặn ra lần
sau chót.
“Được, chị nói. Thời
gian làm việc ở Tuy-Hòa Ba có
một bà nhân tình.
Do lòng ham muốn có được một
đứa con trai, nên Ba... nên rốt cuộc
bà ấy đã
mang thai với Ba...”
Chị ngập ngừng. Chị có lối
thuật chuyện không hay, chẳng hấp dẫn, thiếu nghệ thuật; bởi chưa gì tôi đã đánh
hơi ra cái đoạn
kết rất cải lương của nó. Tôi chẳng
xâm xoàng chóng mặt
gì ráo. Lòng tôi
sao dửng dưng một cách kỳ lạ.
“Nghị là đứa
con trai cùng cha khác mẹ ấy,
có phải không?”
“Chuyện này Ba kể cho chị
nghe đã lâu... Con phải
thương yêu nó, con phải rán chỉ thêm
bài vở cho nó để sau này thành
người hữu dụng... Nghị, thật ra bọn chị rất xấu
hổ, rất bất hiếu khi để một mình Nghị xoay xở
đối đầu với trăm thứ. Chôn cất Ba tử
tế chẳng hạn... Nghị có muốn
đi dò la tin tức người mẹ ruột của mình không?”
“Không.”
“Tại sao? Chị đưa tiền
cho Nghị trang trải mọi việc.”
“Bây giờ chị vứt con chị
trong Sài-Gòn và ở
đây với Nghị
suốt những ngày còn lại
thì chị có an lòng
không? Nếu an lòng, thì sau này
khó nhìn mặt đứa
bé ấy. Đúng không?
Khó xử lắm, phải
không?”
Tôi hỏi. Tôi lay vai chị và tôi
ngửi ra từ cơ thể
chị xông lên hương
mùi u mê. Tôi dụi
mặt mình vào mái
tóc mượt mà chảy lượn
nơi bờ vai tròn. Chị Diên
Hồng đẩy giạt ra khiến tôi té ngồi
trên mả Ba tôi đầy cỏ
dại mọc quanh. Chị thốt lên một tiếng
ngoại ngữ sắc lạnh
mà tôi đoán
nghĩa chữ ấy hẳn
rất tàn tệ. Khốn
nạn chẳng hạn. Địt mẹ chẳng hạn. Cứt đái
chẳng hạn...
Có tiếng động cơ xe gắn máy vọng lên
từ dưới chân đồi, nổ
hục hặc, khuất lấp. Tôi nhìn xuống,
bóng dáng chị Diên
Hồng nhòe ra giữa nắng,
mỗi lúc một xa trong mắt
cay. Buổi trưa ở đây lặng lờ,
bát ngát buồn hơn
cả một bãi tha ma.
dec. 02.01
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét