Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2017
Bùi Vĩnh Phúc: Đọc, giữa những ảnh xạ của phê bình
1.
Tôi vừa có dịp đọc bài Những Nhà Phê
Bình Văn Học Hải Ngoại (1) của Bùi Công Thuấn, một người cầm bút ở
trong nước. Một cách chung, bài viết là một nỗ lực ghi nhận dòng văn học ngoài
nước, đặc biệt trong lĩnh vực phê bình. Trong cố gắng ghi nhận ấy, trước hết,
bài viết của nhà văn/nhà phê bình Bùi Công Thuấn có vẻ muốn chia sẻ nhận định
của ông về phê bình văn học hải ngoại, đồng thời cho thấy quan tâm và thiện chí
của ông về lĩnh vực này. Tuy nhiên, đọc kỹ bài của Bùi Công Thuấn, người quan
tâm có thể nhận thấy, ngoài một số phân tích có chiều sâu ở một mức độ nào đó,
cũng như ngoài một số nhận định có thể có một mức độ khả tín và giá trị nhất
định, bài viết có một số vấn đề của nó. Những vấn đề ấy khiến cho cái nhìn của
tác giả bị lệch lạc, méo mó, thậm chí tạo hiểu lầm, gây một ấn tượng không hay
về nỗ lực, mà tôi nghĩ có thể đã bắt đầu từ một thiện chí của tác giả, muốn nắm
bắt một phần dòng chảy của văn học hải ngoại.
Là một người quan tâm đến văn học
hải ngoại, trực tiếp tham gia đóng góp vào dòng văn học này ngay từ cuối thập
niên 70, đặc biệt trong lĩnh vực phê bình, và cũng là một người được tác giả Bùi
Công Thuấn nhắc đến trong bài viết của ông, tôi sẽ trình bày ở đây cái nhìn của
tôi về một số điều mà tôi coi là có vấn đề, là không đầy đủ, thậm chí là sai
chệch, trong bài viết của tác giả, trong nỗ lực nhìn lại bức tranh về phê bình
văn học hải ngoại mà BCT vừa thực hiện. Điều này không có nghĩa là tôi phủ nhận
thiện chí của tác giả, một nhà phê bình trong nước mà tôi đã có dịp theo dõi trong
thời gian qua, với những bài viết và đóng góp bền bỉ và có những điểm sáng nhất
định, đáng ghi nhận. Chẳng hạn những bài ông viết về thơ Thiền, thơ Lục bát,
hay thơ Đường luật, v.v. Những bài viết có
thể giúp cho các học sinh, sinh viên có những kiến thức để thêm hiểu và yêu thơ.
Ở đây, tôi sẽ đưa ra một số nhận
xét về bài Những
Nhà Phê Bình Văn Học Hải Ngoại nói trên, một bài nhận định mang
nhiều nét phê bình, của tác giả BCT.
Những nhận xét, cũng là những
quan tâm, về một số vấn đề của bài viết, hy vọng sẽ được coi là những chia sẻ,
đóng góp đối với cái nhìn của tác giả BCT, có thể giúp cho những công trình
tương lai của ông, nếu có, về văn học hải ngoại, nói chung, và về dòng phê bình
văn học hải ngoại, nói riêng, có được sự cân bằng nên có. Để các đóng góp của
ông được đón tiếp rộng rãi và với nhiều quý mến hơn. Bởi, chính tác giả, nơi
cuối bài viết của mình, có lẽ cũng đã nhận ra là, hoặc ít nhất là đã có cảm
thức là, ở một mức độ nào đó, trong những chiều hướng nào đó, bài viết của mình
đã không trình bày được đề tài một cách cân bằng và thích đáng, nên sợ là nó sẽ
“gây ngộ nhận
và bị quăng gạch đá” (cụm từ của chính tác giả). Sự nhạy cảm đó là
đáng quý và cần thiết. Nó cho thấy, về phía tác giả BCT, ít nhất, ở một mức độ nhất
định, một sự tự
ý thức, một sự tự tri
về những ý kiến, nhận xét, quan điểm, nói chung là về chữ viết, của chính mình.
2.
Bài nhận định, phê bình của Bùi
Công Thuấn có tựa đề là Những Nhà Phê Bình Văn Học Hải Ngoại, trong đó
đề cập đến công trình, nỗ lực của bốn tác giả, bốn nhà phê bình ngoài nước, theo
thứ tự trình bày trong bài của BCT, là Bùi Vĩnh Phúc, Thụy Khuê, Nguyễn Vy
Khanh, và Nguyễn Hưng Quốc. Trong bài viết này của mình, tôi chỉ xin phép nói một
ít điều về sự chọn lựa của tác giả BCT, cái nhìn toàn cảnh về phê bình văn học
ngoài nước của ông, về phương cách nhận định, và về đánh giá của ông trong phê
bình văn học, đặc biệt đối với những tác giả mà ông đã chọn lựa trong bài viết
của mình. Tôi cũng sẽ xin phép trình bày, có lẽ kỹ hơn, về một số quan điểm,
nhận định của ông dành cho phần viết về tôi. Vì chúng liên hệ đến vấn đề phương
pháp phê bình và đến một số quan niệm mỹ học, văn học, thi pháp học, và nghệ
thuật nói chung. Mục đích là để làm cho phần viết của tác giả được thêm sáng rõ
và chính xác, đặc biệt giúp tránh sự hiểu lầm do một số câu chữ mà tác giả đã
dùng với ý khá gán ép. Ngoài ra, tôi sẽ không nói gì nhiều hơn là một vài nhận
xét tổng quát của mình về cách phê phán, đánh giá của BCT đối với những nhà phê
bình còn lại. Điều đó, tôi nghĩ, những nhà phê bình này có chọn lựa riêng, và có
tự do của họ.
Một điều nữa, tôi cũng nghĩ, mặc
dù những độc giả đã từng theo dõi văn học hải
ngoại, nói chung, có lẽ cũng có thể tự đưa ra những nhận xét, đánh giá
của mình khi đọc bài viết của BCT, sự trình bày của tôi ở đây, cũng như bài
viết của những tác giả, những nhà phê bình khác về vấn đề này, nếu có, cũng có
thể điều chỉnh những sai chệch và làm sáng rõ thêm những vấn đề cần nói nơi bài
viết của BCT.
Bùi Công Thuấn chọn, trong các
nhà phê bình hải ngoại, để lấy ra bốn người, như tôi đã chỉ ra ở trên. Cách
chọn lựa này, dĩ nhiên, có phần chủ quan của nó. Và, chắc chắn, tác giả có
những lý do riêng của mình. Ở đây, như
một người tham dự vào sinh hoạt văn học hải ngoại, đặc biệt trong lĩnh vực phê
bình, tôi chỉ muốn nói là văn học ngoài nước, trong lĩnh vực này, chắc chắn có
hơn bốn người mà tác giả đã kể tên.
Người trước hết mà tôi nghĩ đến
là nhà phê bình Đặng Tiến, một người viết phê bình đã có tên tuổi trong đời
sống văn học miền Nam trước 1975, và, cùng với một số nhà phê bình khác (có thể
tạm kể như Cao Huy Khanh, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nhật Duật, v.v.), đã có những
đóng góp tích cực và nổi bật trong phê
bình văn học thời ấy. Sau 1975, Đặng Tiến cũng đã tiếp tục đóng góp phần của
mình trong phê bình văn học ngoài nước. Những khía cạnh đặc thù của phê bình
văn học Đặng Tiến không nằm trong mục đích của bài viết này. Nhưng Đặng Tiến là
một nhà phê bình văn học nên và phải được kể đến trong lĩnh vực phê bình văn
học hải ngoại. (2)
Các nhà phê bình khác của văn học
ngoài nước, một cách rất nhanh, xuất hiện trong trí tôi, tạm thời có thể kể là Võ
Phiến, Trần Hữu Thục (cũng là một nhà văn, nhà biên khảo), Nguyễn Đức Tùng (một
nhà thơ, nhưng cũng là một người viết tiểu luận, phê bình văn học), Nguyễn Tà
Cúc (một nhà phê bình văn hóa, xã hội, nghiêng nhiều về phong cách nữ quyền
luận), Đinh Từ Bích Thúy (cũng là một dịch giả, đồng chủ biên diễn đàn mạng Da Màu),
Hoàng Ngọc-Tuấn (cũng là một dịch giả, đồng chủ biên diễn đàn mạng Tiền Vệ),
Trịnh Y Thư (cũng là một nhà thơ, một dịch giả). Đó chỉ là một sự nhận diện rất
nhanh, và hẳn là còn thiếu sót. Có thể còn có những tác giả khác với những đóng
góp tốt đẹp trong tiểu luận và phê bình văn học ở hải ngoại mà chúng ta chưa có
dịp tìm hiểu kỹ hơn.
Với những điều vừa trình bày, tôi
nghĩ, ở một mức độ nào đó, phê bình văn học ngoài nước là một dòng thủy lưu có
sức mạnh, sức cuộn chảy riêng của nó. Cùng với những lĩnh vực khác, như những
nhánh tỏa ra của một hải lưu rộng lớn là văn học hải ngoại, phê bình văn học
ngoài nước đã đóng góp phần của mình để làm nên cái phong phú của văn học hải
ngoại. Nó trình hiện, soi sáng, bồi đắp và tạo nên cái phần tự-ý-thức cần thiết
về mình của nền văn học Việt Nam ngoài đất nước. Một nền văn học ngoại vực. Do
hoàn cảnh và định mệnh của lịch sử Việt tạo nên. Nhưng, cùng với văn học trong
nước, văn học hải ngoại, trong đó có phê bình văn học, là một dòng chảy mãnh
liệt của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XX, và đang bắc cầu qua đầu của một thiên
niên kỷ mới.
3.
Trong suy nghĩ của tôi, khi viết
về công trình (văn học) của một tác giả, người cầm bút nên có một nỗ lực chuẩn
bị, tìm kiếm những tài liệu cần thiết để giúp cho mình có một cái nhìn đầy đủ,
ít nhiều mang tính toàn bộ của tác giả và đề tài mà mình dự định trình bày.
Người viết phải có công tìm tòi và đào xới cái phần quặng mỏ mà ông ta có được
để, từ đó, đưa ra những trình bày, nhận định, đánh giá của mình. Đánh giá ấy có
thể có những nét đặc biệt, bất ngờ, nhưng, ngoài một mức độ nào đó mà độc giả
có thể cho phép phần chủ quan của người viết để lộ ra trong phần nhận định của
mình, những đánh giá ấy phải có sự khách quan, cân bằng cần thiết. Những đánh
giá của BCT, trong nhận xét của tôi, đáng tiếc, đã thiếu sự cân bằng, khách
quan cần thiết mà tôi vừa nói. Bức tranh ấy cần thêm ánh sáng. Để làm cân bằng
lại nhiều khoảng tối, cần thiết hoặc/và không cần thiết, mà tác giả đã vẽ ra.
Chẳng hạn viết về nhà phê bình
Nguyễn Hưng Quốc, tác giả đã bỏ qua rất nhiều những đóng góp của nhà phê bình
này. Để chỉ tập trung vào quyển Thơ, v.v.
và v.v. (3) . Và, trong quyển
Thơ, v.v. và v.v., chỉ tập trung vào
phần trình bày, lập luận của nhà phê bình về bài “thơ con cóc”. Trong phần nói
về bài “thơ con cóc”, lại chỉ tập trung phê bình “âm tính”, phê bình tiêu cực,
cái nhìn của NHQ mà BCT cho là “lố bịch”. Và, trong suốt phần nói về nhà phê
bình này, tác giả bài viết đã không một lần nhắc đến tên của cuốn sách mà ông
đang nói về, khiến cho những người đọc chưa có dịp tiếp cận cuốn sách của
Nguyễn Hưng Quốc mất đi cơ hội biết rõ ràng về cuốn sách để, nếu muốn, có thể tự
mình tìm hiểu thêm. Điều này, nếu không phải là một sự vô ý, thì là một cung
cách phê bình còn thiếu nghiêm túc.
Thật ra, Thơ, v.v. và v.v. đúng là một
cuốn sách đã gây được tiếng vang của Nguyễn Hưng Quốc. Ngoài việc đưa ra một
cách nhìn mang tính “lật ngược vấn đề” về bài thơ con cóc, cuốn sách của NHQ
còn trình bày được một số vấn đề về lý thuyết văn học khá lý thú, những vấn đề
không mới đối với phê bình văn học thế giới, nhưng, cho đến thời điểm mà NHQ
trình bày, nó vẫn còn là khá mới đối với phê bình văn học cả trong lẫn ngoài Việt
Nam. Cuốn sách đã được sự chia sẻ, góp ý, tranh luận nghiêm chỉnh của ít nhất bốn
người trong giới cầm bút là Đỗ Minh Tuấn, Thụy Khuê, Bùi Vĩnh Phúc, và Nguyễn
Trọng Văn. (4) Bùi Công Thuấn,
qua việc phê bình, góp ý này, ở một mức độ nào đó, và trong một chiều hướng nào
đó, cũng đã đóng góp phần của mình vào việc nhìn về bài thơ Con Cóc cũng như về
cách lý giải của Nguyễn Hưng Quốc. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là khi giới
thiệu Nguyễn Hưng Quốc như một nhà phê bình (ở hải ngoại), ông đã thu nhỏ tầm
vóc của nhà phê bình cũng như những trước tác của NHQ. Để chỉ còn lại cái nhìn
của NHQ về bài thơ con cóc. Và Bùi Công Thuấn đã đưa ra những đánh giá hoàn
toàn tiêu cực về cái nhìn ấy. Và, qua đó, về nhà phê bình. Tôi nghĩ một sự giới
thiệu và đánh giá như thế rất mất quân bình, không phản ánh được những công
trình và đóng góp mang tính toàn bộ của NHQ.
Đối với ba nhà phê bình còn lại,
ở những mức độ khác nhau, ông cũng có cách nhìn và đánh giá mất quân bình, mang
tính “giảm trừ”, như thế.
Trong phần giới thiệu nhà phê
bình Nguyễn Vy Khanh, BCT lại đưa vào phần nhà phê bình này trả lời phỏng vấn
nguyệt san văn hóa Hồn Quê năm 2003 khiến cho, một cách vô tình hay hữu ý, độc
giả cảm nhận khung cảnh văn học có nét “phân chia phe nhóm”, thậm chí những nét
tiêu cực, của văn học hải ngoại. Thật sự, trong sinh hoạt văn học của bất kỳ
một thời nào, của bất kỳ một nền văn học nào, những chuyện này không có gì đặc
biệt hay đáng ngạc nhiên. Văn học, trong những giai đoạn phát triển khác nhau của
nó, bất kỳ ở đâu, bất kỳ ở thời nào, cũng cho thấy có những nhóm, những đoàn
khác nhau, với những lập trường, khuynh hướng khác nhau. Từ đó, mỗi dòng văn
học, mỗi khung cảnh văn học, lại cho thấy sự khác biệt, thậm chí đối chọi của
những trào lưu, khuynh hướng tư tưởng dị biệt. Những điều này thể hiện ra thành
những nhóm, những diễn đàn, những tập hợp khác nhau, với những đối chọi có khi mang
những khía cạnh có thể nói là tầm thường, tiêu cực của chúng. Sự cạnh tranh,
chia sẻ, đối chọi về mặt tư tưởng, ảnh hưởng của những đoàn, những nhóm ấy,
nhìn một cách nào đó, có thể không phản ánh một hình ảnh tích cực. Nhưng, nhiều
khi, chính sự khác biệt, “đa nguyên” ấy lại đưa văn học đến chỗ có nhiều màu
sắc, làm cho một dòng văn học trở nên phong phú và tạo cơ hội cho sự phát
triển.
Phần phát biểu trong trả lời
phỏng vấn đó của nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh (mà BCT chọn để đưa vào bài viết
của mình), trong cái nhìn của tôi, là điều tự nhiên, cho thấy một vài nét (dù
không có vẻ tích cực) của sự “đa nguyên” ấy. Nó có thể là tiếng nói cảnh tỉnh,
cảnh giác. Nhưng để giới thiệu một nhà phê bình, tôi nghĩ là người ta nên tập
trung nhiều hơn vào các công trình của ông ta. Và nhận định, đánh giá các công
trình đó. Còn khi cần phải phê bình một nền văn học, ta có thể đặt vấn đề (nếu
nhìn là tiêu cực) ấy trong bối cảnh riêng của nó để nghiên cứu một cách cẩn
trọng hơn, với những phân tích trên các khía cạnh tâm lý, xã hội, văn học,
chính trị, thậm chí dân tộc học, v.v., để xem xét các góc cạnh phát sinh, ảnh
hưởng của chúng, hay khả năng giải trừ những khía cạnh (nếu xem là tiêu cực) ấy
.
Cũng thế khi Bùi Công Thuấn giới
thiệu nhà phê bình Thụy Khuê. Tôi nghĩ ông không cần nhắc đến việc Thụy Khuê đã
giới thiệu cuốn Tiểu
Thuyết Vô Đề của nhà văn Dương Thu Hương, và phản ứng của DTH về sự
giới thiệu ấy. Điều đó không ảnh hưởng đến những trước tác của Thụy Khuê. Để
giới thiệu, hay đánh giá, phê bình Thụy Khuê, hãy chú tâm vào những công trình
của bà.
Và, để lập lại, một nhà nghiên
cứu nghiêm cẩn nên có sự trình bày ở một mức độ khách quan, cân bằng tối thiểu
cho bài viết của mình. Nhất là khi ta đang nói về cả một đời văn của người được
nhận định, đánh giá. Cho dù đó có thể là một “cân bằng động”. Tức là, trong sự
trình bày mang tính khách quan, cân bằng của nghiên cứu, phê bình, những động
thái tiến, lui, những thao tác lập luận, phê bình, phân tích của người viết,
trong trường hợp này là của BCT, có thể cho thấy bài nhận định, phê bình là một
cơn sóng. Nó có thể tràn lên, đổ xuống, hay tạo ra những cơn xoáy, ở lúc này
hay lúc khác, đoạn này hay đoạn kia của bài viết. Nhưng, nhìn một cách tổng
thể, nó phải cho thấy sự cân bằng, khách quan tối thiểu. Có thế, bài viết mới
tạo được sự tin tưởng nơi người đọc.
4.
Bùi Công Thuấn than thở: “Trở ngại lớn
nhất của các nhà phê bình hải ngoại là thiên kiến chính trị.” Ông đã nhấn mạnh điều đó khi viết về Thụy
Khuê, Nguyễn Hưng Quốc. Cũng thế, nhưng nhẹ hơn, đối với Nguyễn Vy Khanh. Còn
với tôi, ông “nhẹ nhàng” hơn chút nữa trong đánh giá, “(…) bởi góc nhìn và thái độ nghiên cứu của
nhà phê bình bước đầu đã thóat ra ngoài những thiên kiến chính trị khi nhìn sự
vận động văn học.”, khi nói về tham luận “Hai Mươi Năm Văn học Miền
Nam (1954-1975): Phẩm Tính và Ý Nghĩa” của tôi. (5)
Thật sự, văn học nói chung, và
phê bình văn học nói riêng, gắn liền với ngôn ngữ và tư tưởng. Như thế, văn học
nói chung, và phê bình văn học nói riêng, sẽ luôn có thể gắn bó đến những suy
nghĩ mang tính chính trị. Mà nói gì đến văn học hay phê bình văn học, con người,
tự bản chất, là một “sinh thể chính
trị”, một “political being”. Chỉ sống thôi, dù anh sống thế nào đi nữa, cũng
hàm chứa trong hiện sinh ấy một thái độ chính trị, theo nghĩa rộng của nó. Như Aristotle đã nói, từ thế kỷ thứ IV trước
công nguyên:
“(…) Con người , tự bản chất, là một con
vật chính trị… Và trong khi âm thanh chỉ là dấu hiệu của khoái cảm hay đớn đau,
và bởi thế cũng có thể tìm thấy nó nơi những loài động vật khác (vì bản chất
của chúng cho phép chúng đạt được sự cảm nhận về khoái cảm và đớn đau cũng như
biểu tỏ sự thân mật gần gũi của chúng với nhau, và chỉ thế mà thôi, không đi xa
hơn), quyền lực, sức mạnh của tiếng nói cho phép con người phân biệt rõ sự
thiết thực và cái vô ích, và cũng thế điều công chính và sự bất công. Và, như vậy,
con người sở hữu một đặc tính: chính nó là động vật duy nhất có được cảm quan
về sự lành và sự dữ, cũng như về điều công chính và cái bất công (…)”
(6)
Việc một nhà văn hay một nhà phê
bình văn học lựa chọn phô bày những suy nghĩ của mình với một hàm ý chính trị,
hay diễn chúng ra một cách minh nhiên cùng những suy tư mang tính chính trị, là
một chọn lựa trí thức mang tính cá nhân của mỗi người cầm bút, với những hoàn
cảnh riêng, những nhu cầu tâm lý, xã hội và chính trị riêng. Không hề là có gì
sai trái trong sự chọn lựa những phát biểu như thế. Vấn đề là nhà văn, nhà phê
bình, thể hiện được cái nhìn hoặc/và mối quan tâm của mình. Mà không dính vào
những hư tín hay ngụy tín.
Trong cuốn The Politics of Culture (7) của Antonín J. Liehm, với lời giới thiệu
kỹ lưỡng của Jean-Paul Sartre, tác giả đã nói chuyện với 14 nhà trí thức người
Czech và Slovak (gồm các nhà văn, nhà tiểu luận, triết gia, kịch tác gia, thi
sĩ), trong đó có Milan Kundera, về vấn đề văn chương và chính trị, cũng như
chính trị và văn chương này. Nó cho thấy những nỗ lực cao quý của người trí
thức trong việc cổ xúy tính nhân văn và sự tự do trong chữ viết của người cầm
bút.
Mở rộng ra, hãy đọc các nhà văn
trong khuynh hướng nữ quyền luận, những gì họ viết ra đều mang ý hướng chính
trị. Như Toril Moi trong bài “Feminist, Female, Feminine” trong quyển The Feminist
Reader / Essays in Gender and the Politics of Literary Criticism
chẳng hạn. Trong phần mở đầu của tiểu luận này, Toril Moi đã viết: “(…) “Phê bình
nữ quyền luận”, bởi thế, là một dạng diễn ngôn chính trị rõ ràng: một thao tác
mang tính phê bình và lý thuyết, nhiệt thành cho sự tranh đấu chống lại tính
phụ hệ và sự kỳ thị giới tính, không phải đơn giản chỉ là một quan tâm về vấn
đề giới trong văn học…” (8)
Cũng thế, nếu đọc các công trình
và tác phẩm của Edward Said, một nhà phê bình văn học và văn hóa nổi tiếng,
mang tầm vóc thế giới, mất vào năm 2003, ta cũng có thể thấy được những tư
tưởng và chữ viết của ông đã phản ánh tính chính trị như thế nào. Khả năng diễn
đạt qua ngôn ngữ và tư tưởng của ông là một thí dụ hoàn hảo cho việc kết hợp
phân tích chính trị/lịch sử với diễn ngôn phê bình văn học. (9)
Bởi thế, việc xem là có “thiên
kiến chính trị” trong phê bình văn học không phải là một điều gì có thể khiến
cho một diễn ngôn phê bình trở nên mất giá. Vấn đề chỉ hệ tại ở chỗ thao tác.
Việc kết hợp những ý kiến, tư tưởng mang màu sắc chính trị đã được trình bày
như thế nào. Có xứng hợp không. Có thuyết phục không. Và việc kết hợp đó đã tạo
ra được những hiệu ứng gì nơi văn bản phê bình. Và nơi người đọc. Việc đưa
những kiến giải, phân tích, những liên hệ, liên tưởng mang tính chính trị vào
diễn ngôn phê bình văn học, để lập lại một lần nữa, là một chọn lựa riêng của
người làm phê bình văn học. Tự thân việc kết hợp, luận giải ấy không có gì đáng
phàn nàn.
Điều oái oăm ở đây là tác giả Bùi
Công Thuấn, trong khi phàn nàn là các nhà phê bình văn học hải ngoại phần lớn
đều có “thiên kiến chính trị”, thì ông lại là người thường xuyên viện dẫn các
nghị quyết của Bộ Chính Trị, báo cáo của Trường Chinh, quan điểm chỉ đạo của
Đảng, v.v., trong nhiều bài viết (đa số là các tiểu luận, phê bình văn học) của
mình. (10) Thật ra, ở một góc độ
nào đó, điều này cũng có khía cạnh khả thủ của nó. Khi tác giả cảm thấy có
những mặt, những hướng dẫn, những chỉ thị mà, qua đó, ông coi là những điều
tốt, đáng ghi nhận, thích hợp với quan điểm và tín niệm nghệ thuật/mỹ học/văn
học mà mình theo đuổi, tác giả có thể đưa chúng vào bài viết, trong những hoàn
cảnh nhất định, để nhấn mạnh một luận điểm nào đó trong lập luận của mình. Vấn
đề là sự tiếp nhận của người đọc. Nhưng khi chính mình đã thực hiện điều đó,
bằng cách trích dẫn các đoạn trong các văn bản trên một cách khá thô nháp, thì
tác giả lại phàn nàn về việc kết hợp những phân tích, luận giải mang tính chính
trị của những người viết khác, về mặt hình thức có tính mềm dẻo, uyển chuyển
hơn (tôi không bàn đến chuyện có khéo léo, hợp lý hay sâu sắc không trong sự
kết hợp phân tích như thế ở bất kỳ một tác giả nào), thì rõ ràng là có một cái
gì đó mang tính “tiêu chuẩn kép” ở đây. Một thứ “double standard” mà trong thao
tác phê bình, nói riêng, cũng như trong các hành xử khác của cuộc sống, nói
chung, ta nên tránh.
5.
Tôi cũng xin cám ơn Bùi Công Thuấn
đã đưa ra một số nhận xét về các đóng góp của tôi. Dù sao, có những cuốn sách
và tiểu luận của tôi không/chưa được phổ biến trên mạng (cho dù chúng đã được
in ra, hoặc đã được phổ biến trên báo giấy nhiều năm về trước), một phần cũng vì
tôi chưa thấy cần thiết lắm trong việc tái phổ biến rộng rãi chúng. Nhưng, tôi
nghĩ, một người muốn làm công việc giới thiệu, thậm chí đánh giá những đóng góp
của một người sáng tạo, trong bất cứ lĩnh vực nào, cho dù (và, nhất là, nếu) công
trình của mình là một dạng “unauthorized”, nghĩa là không có sự đồng ý, chia sẻ ý kiến,
hay sự chấp thuận của người được dùng làm đối tượng nhận định, phê bình, người
làm công việc ấy lại càng tự cần tìm hiểu, bỏ thời giờ và công sức ra để đi lục
tìm các tài liệu, hầu có đủ những dữ kiện cần thiết để làm tốt công trình của
mình. Ở đây, có thể giống như những người viết phê bình văn học ở ngoài nước khác
được đề cập trong bài viết của BCT, tôi nghĩ tác giả BCT đã chưa có được, ở mức
nên có, những cố gắng cần thiết ấy. Dù, như đã nói, tôi nghĩ rằng khi cầm bút
(hay gõ máy) viết bài viết này, BCT cũng đã bắt đầu nó với một thiện chí nào
đó, và, có lẽ, cùng với một số tình cảm phức tạp khác. Nhưng, dù sao, trong
hoàn cảnh viết như thế, bài viết của BCT đã cho thấy những sai lệch, khuyết
lõm, khiến cho nó trở nên khá méo mó một cách đáng tiếc.
Ở đây, tôi sẽ xin phép bàn đôi
điều về những nhận xét BCT đã có về (chữ
viết của) tôi, trên căn bản một số bài của tôi mà ông đã có dịp đọc được trên
mạng.
Để bắt đầu, BCT viết: “Tôi gọi Bùi Vĩnh Phúc là nhà phê bình nghệ sĩ bởi ông viết phê bình văn học như một nhà văn viết tùy bút.
Ông viết phê bình văn học như một người đọc
thưởng thức tác phẩm. Ông nói rõ mục đích phê bình: “Khi
ta cầm bút viết về bất cứ điều gì trong đời, cũng có nghĩa là ta cầm bút và viết về chính ta”.
Và ông trích dẫn một, hai đoạn mở
đầu trong bài viết của tôi về Thanh
Tâm Tuyền, trong bài “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, chẳng hạn như
đoạn sau:
“Một buổi chiều,
một buổi chiều nào đó, giam mình giữa dòng xe cộ trùng điệp của giờ tan sở, để
chiếc xe tự động lăn theo dòng nối tiếp mệt nhoài, tâm tư ta lại nhớ về những buổi chiều cũ ở
quê nhà. Những buổi chiều đã ngun ngún bay đi. Bay đi như khói thuốc, như hương
khói mùa xưa. Những buổi chiều trời thắp mãi tiếng mưa sầu. Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia
long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt.../ Ta chợt nhớ đến
người thi sĩ ấy. Thanh Tâm Tuyền.” (11)
Và ông nhận xét: “Đoạn văn là tâm trạng của nhân vật trữ tình Ta với tất cả
sự mơ mộng lãng mạn. Thơ Thanh Tâm Tuyền chỉ là chất xúc tác, là men say cho
tâm hồn nhà phê bình bay lên. Vì thế, viết phê bình văn học, Bùi Vĩnh Phúc
ít quan tâm đến
việc khám phá những độc đáo nghệ thuật, những góc cạnh của cá tính sáng tạo;
cũng không đánh giá các giá trị văn chương, mà chỉ thể hiện Cái Tôi trữ tình
khi tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. “
Và, sau đó, ông đưa thêm một nhận
xét khác nữa:
“… Với cách viết phê bình như thế, Bùi Vĩnh Phúc đã gạt bỏ tất cả hoàn cảnh sống của Thanh Tâm Tuyền từ những tháng
ngày trước 1975 đến những năm trong trại cải tạo và thời gian sống ở Mỹ, tức là không tìm đến bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội
làm nên hồn thơ Thanh Tâm Tuyền, và vì thế không lý giải được những giá trị thơ
Thanh Tâm Tuyền, càng không hiểu đúng về nhà thơ. Bùi Vĩnh Phúc đã không nhận ra những bước chuyển tiếp trong
hành trình sáng tạo của Thanh tâm Tuyền và không định vị được chỗ đứng của Thanh tâm Tuyền trong
văn học sử Việt Nam đương đại. (Cũng có thể
vì một lý do “nhạy cảm” nào đó đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, Bùi Vĩnh
Phúc đã im lặng?)”
Trước hết, tôi cám ơn BCT đã đọc
và có một vài nhận xét như thế. Nhưng tôi xin được nói là, với cách viết ấy của
BCT, trong thiện chí riêng của mình, tôi nghĩ rằng ông đã không đọc hết bài
viết ấy của tôi. Hoặc là ông có đọc, nhưng, vì một lý do nào đó, BCT đã cắt bỏ
hết tất cả các phần khác của bài viết trong suy nghĩ của ông, tránh việc nhắc
đến cấu tứ cũng như nội dung toàn bài tiểu luận ấy. Bài tiểu luận này về Thanh
Tâm Tuyền của tôi đã được phổ biến ở nhiều địa chỉ trên mạng. BCT có nhắc đến
tên bài ấy, nhưng lại không đưa đường dẫn. Tôi xin phép được dẫn lại ở đây. (12)
Trong tiểu luận này, viết năm
1986 và đăng lần đầu trên nguyệt san Văn Học ở ngoài nước, ngoài đoạn mở đầu phần
nào có tính dẫn nhập, trong một bầu khí quyển mang tính hồi cố, để giới thiệu
nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, khi ấy vẫn còn đang sống ở Việt Nam, tôi đã chọn hướng
viết ấy. Nhưng toàn bài, sau đó, là những đánh giá về phong cách thơ TTT qua
hình ảnh, cấu trúc ngôn ngữ và nhịp điệu của các bài thơ ông. Tôi cũng nói về thái độ sống của TTT, về cung
cách văn chương của nhà thơ, về “những chọn lựa” của ông. Những chọn lựa trước văn chương, trước cuộc
đời, trước lương tâm của người cầm bút. Chọn lựa xã hội, chọn lựa chính trị. Và
tôi cũng đã đặt TTT và những bài thơ, tập thơ, của ông trong bối cảnh mà chúng
xuất hiện. Tôi đã đánh giá thơ TTT không những trong bối cảnh đó, mà còn trong không gian văn
chương nói chung (xin mượn chữ “L’Espace littéraire”, một tác
phẩm phê bình của Maurice Blanchot). Và
ở phần kết của tiểu luận này, sau khi trích dịch một đoạn văn của Rainier Maria
Rilke, nói về nỗi khó khăn, cái công phu và sự hàm dưỡng của con người sáng
tạo, chỉ để có được một dòng thơ, thậm chí một câu thơ, xứng đáng gọi là thơ, tôi
đã viết: “Thanh
Tâm Tuyền đã dâng hiến cho đời nhiều dòng thơ rất đẹp, những câu thơ đau khổ và
phẫn nộ và hạnh phúc và thương yêu của ông làm cho ta chảy nước mắt. Nhưng nếu
Thanh Tâm Tuyền chỉ có được mươi câu thơ hay, ông cũng xứng đáng cho ta yêu mến
và cảm phục, bởi lẽ ông đã sống, đã tân toan trong đời sống, đã chịu đựng và
gìn giữ tất cả để trở nên một thi sĩ…”
Ngoài ra, khi nhà thơ mất vào năm
2006, dùng Phong Cách Học (Stylistics) và nhấn mạnh đến khía cạnh ngôn ngữ, tôi
còn viết một tiểu luận khác, khá kỹ lưỡng, là “Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền”,
về tập thơ Thơ
Ở Đâu Xa của ông. (13)
Đây là những bài thơ ông đã làm và giữ trong đầu suốt những năm tháng mà ông đã
trải qua nơi những trại tù “cải tạo”, tận những Long Giao, Yên Báy, Lào Kay,
Vĩnh Phú, trên quê hương Việt Nam. Những năm ông đã cố gắng “đứng vững không
khuỵu chân / trên mảnh đất nghèo khổ” của quê hương. Trong tập thơ đó, người đọc có thể cảm nhận,
ngoài cái nhìn hiện thực trước cảnh tù đầy, TTT còn cho thấy ý hướng “vượt
lên”, “vượt qua” những chướng ngại, những gian khổ của mình. Thậm chí TTT còn
cho người đọc thơ ông thấy được cái nhìn thơ mộng, cái nhìn vượt thoát của ông
trước thực tại đầy khốn khổ và khắc nghiệt. Chính cái thái độ đẹp đẽ đó, mà tôi
không chắc ai trong hoàn cảnh ấy cũng có thể có được, đã khiến tôi nghĩ rằng
ông đã đạt đến một tâm cảnh gần như “thiền” trong cuộc lao động khổ ải. Một tâm
thái mà tôi gọi là “thiền lao”. Hay như
một cái nhìn chấp nhận, khá “tỉnh thức”, gần với tinh thần Công giáo.
Ngoài ra, cũng trong tập Thơ Ở Đâu Xa,
người đọc còn có thể đến gần với tâm hồn nhà thơ qua những bài thơ ông viết cho
con gái, hay viết cho bạn bè, khi ông vẫn còn đang trong cảnh tù đầy, hay khi
ông đã được trở về với cuộc sống dân dã ngoài đời. Trong tiểu luận ấy, tôi đã
đọc và viết về thơ của TTT, về con người nhà thơ TTT, về ngôn ngữ thơ ông, về
hình ảnh, về nhịp điệu, về phong cách, về sự làm mới thơ của TTT trong chính
cái vỏ âm thanh và trong những loại hình thơ mang vóc dáng cũ kỹ mà ông đã sử
dụng. Ông đã làm mới ngay trong cái mà
chúng ta vẫn thường xem là xưa cũ ấy.
Vì đã nhìn thấy được vóc dáng và
phong thái thơ Thanh Tâm Tuyền, tiết tháo và thi cách của nhà thơ, cũng như
những đóng góp mang tính cách tân của thơ ông, đặc biệt trong khía cạnh hình
thức, ngôn ngữ, ảnh tượng, và âm điệu, ít nhất trong cái nhìn riêng của mình
như thế, nên tôi cũng ngạc nhiên khi thấy BCT đưa ra những nhận xét mà tôi đã
dẫn ở trên, về cách viết của tôi đối với Thanh Tâm Tuyền và thơ ông. Những nhận
xét ấy có thể gây hiểu lầm. Và những nhận xét ấy chỉ dựa trên một vài câu viết
mang phần nào “tính thơ”, tính “tùy bút”, nơi phần dẫn nhập trong một
tiểu luận tôi viết, vào năm 1986, về thơ TTT. Ông đã bỏ qua tất cả những điều
tôi viết về thơ TTT, về dòng chảy của thơ TTT, tâm thức thơ TTT, ngôn ngữ thơ
TTT, hình ảnh thơ TTT, và sự biến đổi về mặt phong cách của thơ TTT từ giai
đoạn trước đến giai đoạn sau 1975, qua hai tiểu luận tôi viết về TTT như đã trình
bày.
Ngoài ra, cũng nên nói là, khi
viết về một tác phẩm bất kỳ của một tác giả nào đó, người ta có thể đi từ (tiểu sử) tác giả,
bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội, v.v., và có thể, từ đó, định vị
chỗ đứng của tác
giả trong dòng văn học mà tác giả ấy được đặt để
vào. Người ta có thể làm những điều ấy, nếu muốn, và nếu người ta dùng phương
pháp phê bình (tiểu sử) tác giả kiểu Sainte-Beuve, hay phê bình văn hóa-lịch sử
của Hippolyte Taine, hay phê bình kiểu giáo khoa, mang tính Lansonisme,
v.v. Những kiểu phê bình có nhiều nét
thực chứng này đã có mặt từ trên dưới một trăm năm nay (chỉ nói về phê bình
giáo khoa kiểu Lanson: nó bừng nở từ năm 1895 đến những năm của thập niên 1930)
mà chúng ta đã được dạy trong trường trung học khi học cách bình giảng một bài
thơ, một bài văn. Những phương pháp ấy, hiện tại, vẫn có những mặt khả thủ,
những khía cạnh hữu ích của chúng, nhưng chúng cũng không nhất thiết là những phương
pháp tiếp cận bắt buộc phải có trong phê bình văn học hiện đại.
Phê bình văn học ngày nay đã đi
những bước rất dài trong việc tiếp cận tác phẩm. Nó không còn đứng chết một chỗ
của những cách phê bình, lý giải kiểu cũ. Người ta đã có phê bình tâm lý/phê
bình phân tâm (với đủ mọi trường phái, đủ mọi chiều hướng), rồi Phê Bình Mới
theo lối đọc tập trung, “đọc gần”, đọc kỹ (close reading), rồi phê bình cổ mẫu,
phê bình theo trường phái hình thức Nga, phê bình theo mỹ học tiếp nhận
(Reception Theory) theo trường phái Konztanz của Đức, phê bình theo thuyết hồi ứng
của người đọc (Reader-Response theory), phê bình cấu trúc, phê bình hủy cấu, phê
bình phong cách, phê bình nữ quyền, phê bình theo trường phái Tự Sự học, phê
bình sinh thái, phê bình theo trường phái Tân Lịch Sử và duy vật văn hóa, phê
bình hậu-thực dân, phê bình đồng tính, phê bình hậu-hiện đại, v.v. Vấn đề là người viết, nhà phê bình, sẽ chọn
lựa hướng đi nào để trình bày, phóng chiếu cái nhìn mình. Và đó là chọn lựa
riêng của người cầm bút.
Có lẽ khi tác giả BCT trách nhiều
người khác là không hiểu gì, hay không nói được gì về Thanh Tâm Tuyền, ông ngầm
ý nói rằng khi viết về TTT, mọi người phải đi theo con đường như ông đã chọn.
Và, ở cuối con đường ấy, BCT đã khẳng định rằng TTT chỉ là một con người “tuyệt
vọng, trần truồng”. Ông thậm chí còn tìm cách tước bỏ thế đứng và con người nhà
thơ của TTT khi, cũng ở phần cuối bài “Thanh Tâm Tuyền, thi sĩ tuyệt vọng, trần truồng” của
mình, dùng chính lời của TTT, trong tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc, BCT đóng dấu mộc, dấu gạch chéo, lên chân dung nhà
thơ:
“Thơ TTT không thâm nhập
được vào trái tim người đọc, vì tiếng thơ ấy không nói tiếng nói của công
chúng, không nói tiếng nói của trái tim Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử mà
thơ ca phải là ngọn lửa toả sáng, soi đường và cháy rực lên sức sống, sức mạnh
của một dân tộc. Thơ phải nói tiếng nói của dân tộc trước thời đại và lịch sử.
Thơ ca phải ngang với tầm vóc của thời đại lịch sử (như thơ ca thời Lý Trần,
thơ ca thời Nguyễn Du...) TTT không có được tiếng thơ đó.
Có lẽ người đọc hôm nay
nên tôn trọng ý kiến của ông:
Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ...
(“Tôi không còn cô độc”) ”
Thật
sự thì Bùi Công Thuấn không bắt được cái tinh thần cách mạng mang đầy tính nhân
văn và triết lý trong phát-biểu-thơ đó của TTT, cái tinh thần cách mạng của con
người thế giới. Phát biểu ấy, có lẽ, cũng là cung cách phát biểu vừa mang tính
khiêm cung về mặt tự-nhận thức đầy nét triết lý, vừa mang tính chối từ cái giá
trị mà ông cho là rất cao quý nhưng lại bị người đời sử dụng một cách rất bừa
bãi, rất “lạm phát” này. Nhưng người đọc, nói chung, nhất là một người phê
bình, nói riêng, không thể vì thái độ triết lý và nhân văn đó của nhà thơ, để
“túm ngay lấy”, và cho rằng lời phát biểu ấy là đúng. Con người ấy, đúng như y
phát biểu, không phải là thi sĩ (cho dù, trong một lối suy tư nào đó, BCT đã
dùng từ “thi sĩ” để đặt tựa đề cho tiểu luận viết về thơ TTT của mình). Người
phê bình, tôi nghĩ, không thể có một thái độ “phủi tay” và hời hợt như vậy.
Người ấy, tôi nghĩ, không thể bám vào một câu nói triết lý như thế để đẩy nhà
thơ ra ngoài vòng, để xếp loại tác giả là “không phải thi sĩ” vì chính ông ta
đã tự nói, tự viết về mình như thế.
Cũng
như người ta, nhất là một nhà phê bình, không thể nói Federico García Lorca,
một nhà thơ lớn của thế giới, không phải là một thi sĩ, hay, thậm chí, không
phải là một con người, chỉ vì nhà thơ này đã viết:
(…) tôi không là thi sĩ,
cũng chẳng là con người, chẳng là cánh lá
nhưng chỉ là cái nảy bật
chảy máu của một vết thương (…)
[ (…) no soy un poeta, ni
un hombre, ni una hoja
Pero sí un pulso herido
(…) ]
(Poeta
en Nueva York, Tierra y Luna / Thơ ở New York, Đất và Trăng, 1940)
Không,
mặc dù Thanh Tâm Tuyền đã viết, trong câu thơ mà ta đã đọc, rằng “đừng ai gọi
tôi là thi sĩ”, ông vẫn mãi mãi được người đời yêu mến gọi tên như là một thi
sĩ đích thực. Gọi như thế, vì chính ngôn ngữ, chữ nghĩa của TTT đã cho người
đọc thấy cái cội rễ thi ca nơi mạch nguồn của nó.
Bài
viết này không phải là một bài đánh giá hay phê phán (mang tính toàn bộ) cách
nhìn Thanh Tâm Tuyền của BCT. Tôi chỉ đưa ra một vài nhận định cần thiết khi
trình bày cái nhìn của mình về nhà thơ, đồng thời góp ý với cách nhận định,
đánh giá “thu hẹp” của BCT về cái nhìn của tôi đối với thơ TTT, đối với con
người TTT. Đã có những chia sẻ, trao đổi
với BCT về bài viết của ông vào mười năm trước, chẳng hạn qua hai bài viết của
Phùng Nguyễn, “Giải
Cấu “Thanh Tâm Tuyền, thi sĩ tuyệt vọng, trần truồng””, và Nguyễn Đức Tùng, “Mười ba cách
ngắm con chim blackbird / Trao đổi với Bùi Công Thuấn về Thanh Tâm Tuyền”. (14)
Trong
cái nhìn của tôi, tiểu luận này về TTT của Bùi Công Thuấn (14), dù sao chăng nữa, cũng đã có được
những điểm sáng, những nhận xét thú vị, thậm chí có chiều sâu, chiếu soi vào
cõi thơ TTT. Nhưng, cùng với chúng, là
những nhận định còn nhiều chủ quan, nếu không nói là nhiều “thiên kiến”, khi
nhìn vào cõi thơ đó (15). Dù sao,
trong quan niệm của tôi, “Anh có quyền đưa ra cái nhìn, thậm chí đánh giá của anh,
về bất cứ tác giả nào. Tuy nhiên, anh sẽ trách nhiệm về cái nhìn của chính mình.”
Trước hết, với trái tim, với tự do và kiến thức của chính anh. Và, sau đó, với
người đọc. Tất cả mọi phân tích, đánh giá, theo tôi, đều chỉ là những diễn
giải. Nói như Friedrich Nietzsche, “There is no facts, only interpretations”. Nietzsche còn nói, ở một chỗ khác, “Anh có con
đường của anh. Tôi có con đường của tôi. Còn như nói về con đường đúng nhất,
chính xác nhất, và là con đường duy nhất (đúng), nó không hiện hữu.” (You have your
way. I have my way. As for the right way, the correct way, and the only way, it
does not exist.”).
Mỗi
người cầm bút có con đường đi của mình. Có phương pháp luận mà mình chọn. Và
người đọc, họ nhìn thấy người viết trên con đường đi ấy. Họ cũng có thể nhìn
thấy anh trong sự đào xới vào tác phẩm và cung cách chiếu sáng tác phẩm của
anh. Cách anh mở nó ra. Cách anh nhìn ngắm, đụng chạm vào nó. Người đọc, đến
lượt họ, sẽ chiếu sáng anh.
6.
Nhân
việc qua nhận định mang tính đánh giá (theo hướng âm tính) của Bùi Công Thuấn
về ngôn ngữ mang chất tùy bút, phần nào có tính thơ, liên hệ đến một phần trong
đoạn dẫn nhập của tôi trong bài “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, tôi xin
phép nói đôi chút về vấn đề ngôn ngữ mang tính thơ, tùy bút trong tiểu luận,
phê bình văn học.
Gaston
Bachelard (1884-1962) là một người được thế giới biết đến như một triết gia,
một nhà duy lý dấn thân, một người được đào tạo chuyên môn trong lĩnh vực khoa
học, đã có những công trình quan trọng trong lĩnh vực này, như các quyển Tinh thần khoa
học mới (Le nouvel esprit scientifique, 1934), Sự hình thành tinh thần khoa học (La
formation de l’esprit scientifique, 1938). Tuy nhiên, ông lại là một
người đam mê thơ, và ông đã hiến cả phần thứ nhì của sự nghiệp mình cho việc
trình bày và cổ xúy cái khía cạnh đặc thù trong bản chất của con người: sự
tưởng tượng mang tính thi ca. Bachelard đã nói về “Cái cogito của kẻ mơ mộng” (“Cogito du rêveur”).
Trong chương này của quyển Thi pháp của mộng mơ (La Poétique de la Rêverie),
Bachelard đã đưa ra nhiều phân tích cho thấy bằng cách nào mộng mơ đem lại cho con
người một cosmos.
Sự mơ mộng giả định toàn thể vũ trụ trong những hình ảnh của nó, vừa có tính
sáng tạo vừa mang tính tự nhiên một cách cùng lúc, và giá trị mà nó mang lại, vừa
mang tính mỹ học vừa mang tính bản thể học, là không thể xóa bỏ. (16)
Và
cái khuôn mặt trong gia tài khoa học/văn học của ông, mang dấu ấn của một nhận
thức luận và một thi pháp học đặc thù, đã cho thấy triết lý, tư duy nơi ông là
một tư duy kép, gồm cả tư duy khoa học và tư duy thi ca. Ông cho thấy dù đó là
hai mảng có vẻ đối chọi nhau, con người không thể tư duy mặt này mà thiếu mặt
kia. Animus
và Anima.
(17) Ngoài việc được xem là một nhà khoa học, Bachelard
cũng được đánh giá là một nhà phê bình văn học kiệt xuất. Trong nhiều tác phẩm
của mình, đặc biệt trong quyển L’Eau et les Rêves
(Nước và Những Giấc Mơ), và,
trước đó, trong quyển La Psychanalyse du Feu (Phân Tâm Học về Lửa), Bachelard
đã dùng tinh thần khoa học pha với một ngôn ngữ nhiều chất thơ, tạo nên một thứ
thi pháp kết hợp với những suy tưởng, phân tích hiện tượng luận, để đặt thi ca
và văn chương trong một quan hệ tốt đẹp và nhiều thành tựu với khoa học về tâm
lý.
Dominique
Lecourt, trong quyển Le Jour et la Nuit (Ngày và Đêm), viết về tác
phẩm của Bachelard, đã cho thấy sự quan trọng trong tư duy kép của nhà phê bình
này. Tư duy của ông kết hợp phần luận giải khoa học chặt chẽ, với một ý thức đầy
sự thức tỉnh chói sáng, và một tưởng tượng thi ca thơ mộng và bay bổng. Ngày và
Đêm. Thế giới, đặc biệt là thế giới phê bình, cũng dường như cho rằng chính là
phần “ban đêm” này của Bachelard đã khiến ông tạo được ảnh hưởng lâu dài trong
phê bình và sự sùng mộ, yêu mến của người đọc.
Gaston
Bachelard thường có những câu viết đầy chất thơ, chất tùy bút, như thế này
trong ngôn ngữ phê bình của mình:
“… Để hình ảnh trắng nuột
như sữa hiện ra trước màn ảnh của tưởng tượng trong sự hiện hữu của một mặt hồ
tĩnh lặng dưới trăng, ánh sáng trăng phải được khuếch tán—nước chỉ được xao
động thật nhẹ, nhưng phải xao động đủ để mặt hồ không phản chiếu một cách thô
lậu cảnh quan được ánh trăng chiếu sáng—tóm lại, nước phải đi từ trong suốt
sang trong mờ, nó phải từ từ trở nên mờ đục, bất thấu quang, nó phải trở nên
trắng đục….
Vậy thì cái gì là nền tảng
của dòng nước nuột nà như sữa kia? Đó là hình ảnh của một đêm ấm áp và hạnh
phúc, cái hình ảnh của một chất liệu trong sáng, bao phủ. Một hình ảnh bao gồm
cả không khí và nước, trời và đất, và kết hợp chúng lại làm một: một hình ảnh
vũ trụ, bát ngát, mênh mang, và mềm mại. Nếu chúng ta kinh nghiệm được điều
này, chúng ta sẽ nhận thức được rằng đó không phải là một thế giới được tắm trong
ánh sáng sữa của trăng, nhưng, đúng hơn, chính là kẻ chiêm ngắm kia được tắm
trong một nỗi khoái cảm đầy tính thân xác và rất thật khiến làm nhớ lại niềm
hạnh phúc cổ cũ nhất, sự ngọt ngào nhất của các món ăn. Đó là điều tại sao sữa
của dòng sông sẽ không bao giờ lạnh giá….” (18)
Bachelard
đã viết về những kỷ niệm nơi ông đã được sinh ra và lớn lên, trong thung lũng
Champagne, một thế giới đầy sông và suối. Ông cho biết : “ngôi nhà đẹp nhất ở đó, với ông, là ngôi
nhà nằm trong lòng thung, bên một bờ nước thao thiết chảy, dưới bóng râm che
thấp của những loài thủy liễu và miên liễu.” Từ những kỷ niệm gắn bó
với mùi thơm của cây bạc hà nước, Bachelard nghĩ rằng cuộc đời chỉ như thể một
mùi hương, rằng cuộc đời của mỗi con người giống như mùi hương tỏa ra từ mỗi
thể chất, và cỏ cây bên một dòng suối tỏa ra mùi thơm, phát lộ ra tâm hồn của
nước. Ông bảo rằng “chính vì gần gũi bên dòng nước mà tôi đã hiểu rõ rằng
mộng mơ là một vũ trụ tỏa hương, và mùi thơm toát ra nơi sự vật là nhờ trung
gian của một kẻ mộng mơ”. Và, để nhắc lại, đó có phải là một thứ cogito
của kẻ mơ mộng? Cogito
du rêveur. “Dưới đáy thể chất mọc lên một thảm thực vật chưa được biết tới; trong
đêm tối của chất liệu bung nở những cánh hoa đen. Chúng đã có sẵn lớp nhung mềm
của mình và công thức cho mùi hương của chúng.” (19)
Con người là một hữu thể
mộng mơ (Man is an imagining being), như
Gaston Bachelard nói. Thế nên, ngay cả khi cầm lấy cây bút và viết, nó cũng
không thể không mơ mộng. “Một chữ là một chồi cây, một đọt non đang cố gắng trở nên một cành cây.
Làm sao con người không thể mơ mộng cho được khi hắn viết? Chính là cây bút nó
mơ mộng. Trang giấy trống cho nó quyền được mộng mơ.” (20) Ở một chỗ khác, Bachelard cũng nói, “Thật vậy, những từ
ngữ, chúng nó mơ mộng.” (“Truly, words dream).
Viết
về lửa, Bachelard nhận định: “…Do đó, lửa là một hiện tượng mang tính ưu quyết có thể giải
thích tất cả mọi thứ. Nếu tất cả những gì thay đổi chậm chạp được giải thích bởi cuộc
sống, tất cả những gì thay đổi một cách nhanh chóng được giải thích bởi ngọn lửa. Lửa là sự sống siêu vượt. Lửa là thân mật và phổ quát. Nó sống trong trái tim chúng ta. Nó sống trên trời cao. Nó bốc lên
từ sâu thẳm của chất thể và dâng hiến chính nó như một tình yêu. Nó đi xuống
trở lại vào vật chất và giấu mình trong đó, tiềm ẩn, được lưu giữ như sự căm ghét và trả
thù…” (21)
Thật
ra, về tài năng của Bachelard, chúng ta còn quá nhiều điều để nói. Ông đã trình
bày biết bao điều một cách hết sức thuyết phục, bằng ngôn ngữ của khoa học và, ở
nhiều chỗ, ngôn ngữ của thi ca, của mơ mộng đầy chất thơ, gần gũi với lối viết
(écriture) của một thứ văn, một chất văn mà ta tạm gọi là “theo dạng tùy bút”, như
trong các tác phẩm Phân Tâm Học về Lửa
(La Psychanalyse du Feu, 1938) (vâng, hãy nhớ thêm một lời ngắn
gọn, đầy chất thơ này: “Tình yêu chỉ là một ngọn lửa để truyền đi. Lửa chỉ là
một tình yêu để tạo bất ngờ”—
L'amour n'est qu'un feu à transmettre. Le feu n'est qu'un
amour à surprendre.), Nước và Những Giấc Mơ (L’Eau et les Rêves, 1943), Thi Pháp của Mơ Mộng (La Poétique de la Rêverie,
1960), Thi Pháp về Không Gian (La Poétique de
l’Espace, 1957), Không Khí và Mộng Mơ (L’Air
et les Songes, 1943), Đất và Mơ Mộng Yên
Nghỉ (La Terre et les Rêveries du Repos, 1948), Đất
và Mơ Tưởng Ý Chí (La Terre et les Rêveries de la Volonté, 1948), và
còn nhiều tác phẩm khác nữa. Colette Gaudin, tác giả của Gaston Bachelard / On Poetic Imagination
and Reverie, cho rằng phê bình về thơ của Bachelard là một thứ “thơ
về thơ”. Và chính là Bachelard, với cách
viết ấy, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm với những phân tích mang dấu ấn của
một thứ “triết học mềm mại” mà người đọc còn mãi ghi nhớ.
Maurice Blanchot (1907-2003) cũng vậy.
Là một nhà phê bình nổi tiếng (chưa kể là một nhà văn đầy tinh thần sáng tạo
mang tính thử nghiệm, cùng với những phương thức thể hiện văn học khác nữa), kẻ
đồng hành với các triết gia như Emmanuel Levinas, Michel Foucault, và Jacques
Derrida (chỉ tạm kể một vài tên), ông cũng để lại những trang văn đầy chất thơ.
Trong tác phẩm L’Ecriture
du Désastre (Writing the Disaster,
1980), một tác phẩm chứa đựng
những suy tư mang tính triết học sâu sắc, thể hiện qua một lối viết được giới
phê bình gọi là “prose fragments”, người ta cũng có thể đọc được những đoạn văn
đầy thơ mộng của ông. Lối viết “mảnh rời” như thế này, cùng với Blanchot, cũng
được tìm thấy ở Gertrude Stein, Wittgeinstein and Paul Celan.
Hãy để ý nghe Blanchot nói về việc
viết: “Định
mệnh của việc viết là không để lại dấu vết, nhưng là để bôi sạch, xóa bỏ sạch,
bằng những dấu vết, tất cả mọi dấu vết, để biến mất trong cái không gian mảnh rời
của sự viết một cách chắc chắn hơn cả một kẻ biến mất trong nấm mồ.”
(“Le Pas au-delà”) (22)
Và, cũng thế, trong La Part du Feu (The Work of Fire,
1949) (cũng lửa, lại lửa, nhưng là một dạng lửa khác với Bachelard), viết nhiều
về thi ca của Hölderlin, Mallarmé, René Char, và một số nhà thơ
khác, Blanchot cũng viết với một ngọn lửa phân tích cháy sáng cùng với một tâm
hồn đầy thơ mộng.
Trong La Folie du Jour (The Madness of the Day,
1973), Blanchot nói về cái thấy: “Tôi muốn thấy cái gì đó
trong ánh sáng đầy chói của ban ngày; tôi đã chán mứa với những niềm vui và sự thoải mái của ánh sáng nửa vời; tôi thèm muốn ánh sáng ban ngày như thèm muốn nước và không khí. Và nếu việc thấy là lửa, tôi đòi hỏi sự đầy
tóa của lửa, và nếu việc thấy có thể làm tôi bị lây nhiễm với sự điên rồ, tôi cuồng điên muốn có được sự điên dại đó.” (23)
Mới chỉ đọc những dòng chữ nhiều
chất thơ, có thể gần gũi với “tùy bút” của Blanchot, và Bachelard, hoặc, ngược
lại, mới chỉ đọc những trang viết với những phân tích sâu xa của họ, đôi chỗ có
thể hơi “bí nhiệm”, khó hiểu, về mặt triết học, người ta không nên vội nhận
định về chữ viết, lối viết, hay tư tưởng của họ, từ đó, đưa đến một phán đoán, nhận
định về mặt giá trị. Bởi, nói như Nabokov, “Tiếng đập của một con sóng không thể giải thích toàn bộ
biển cả.” (“The breaking of a wave cannot explain the whole sea.”)
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi
không muốn và cũng không thể viết nhiều ở đây về Blanchot. Tôi chỉ muốn trình
bày để chúng ta cùng thấy rằng, ngôn ngữ, chữ viết, lối viết của một nhà văn,
một nhà phê bình, hay của bất cứ một người viết nào, có thể thể hiện ra ở những
dạng khác nhau. Ở những trang văn, những đoạn văn, những tác phẩm khác nhau. Hoặc
trộn lộn vào nhau. Roland Barthes nói về sự thiết yếu làm nên nhà văn (theo
nghĩa “ecrivain”,
chứ không phải “ecrivant”):
đó là kẻ cầm lấy bút và viết, là kẻ xem ngôn ngữ như chất liệu chứ không phải
là công cụ; cái hệ trọng là sự viết, viết bất cứ cái gì; tất cả mọi sự thiết
yếu đều nằm trong ngôn ngữ, trong cái viết của hắn. L’écrivain écrit et ça suffit! Thơ
và văn xuôi. Văn xuôi và thơ. Đó chỉ là một phân biệt mang tính ước lệ. Đâu thật
sự là ranh giới giữa thơ và văn xuôi, hay giữa văn xuôi và thơ? Giữa thi ca và
phê bình? Giữa phê bình, biên khảo và tiểu thuyết? Jean-Paul Sartre đã từng
mong quyển sách ông viết về Flaubert, The Family Idiot, cuốn sách ông viết suốt mười
năm cuối của cuộc đời, sẽ được độc giả đọc như là một quyển tiểu thuyết.
Có thể nói chính Sartre và
Bachelard đã là những người “văn chương hóa” triết học. Trong trường hợp của
Bachelard, ta còn có thể nói thêm: chính ông đã thơ mộng hóa triết học, cái
lĩnh vực trước kia có vẻ đã được bao trùm bởi sự khô cứng, đầy chất kinh viện và
mang tính giảng huấn. Bachelrd đã, qua lối viết của mình, đưa triết học “nhập
thế” và gắn bó với những cảm nhận của thân xác và tâm hồn con người. Qua phương
pháp phân tâm vật chất. Cũng như qua mơ mộng và tưởng tượng.
7.
Bùi Công Thuấn nói về tôi: “…Ông viết phê bình văn
học như một người đọc thưởng thức tác phẩm. Ông nói rõ mục đích phê bình:
“Khi ta cầm bút viết về bất cứ điều gì trong
đời, cũng có nghĩa là ta cầm bút
và viết về chính ta”.
Thật sự, tôi không hề tuyên bố về “mục đích của phê bình” như thế. Trong
phần cuối của lời Tựa cho cuốn sách Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ và Những Ám Ảnh Nghệ Thuật của
mình, tôi chỉ viết: “… Thực tại của cuộc đời, một cách nào đó, hiện ra trước
mắt mỗi một chúng ta do chính nơi cái nhìn của chúng ta về nó. Mà tâm hồn ta
rung động như thế nào thì cái nhìn, từ đó, sẽ “khúc xạ” thực tại theo sự rung
động ấy. Cái nhìn của tôi về “thực tại” Trịnh Công Sơn cũng là một cách nhìn
của tôi về cuộc đời. Đúng hơn, đó là một cách biểu lộ mình. Một sự thể hiện
cách nhìn và cách sống đời của mình. Khi ta cầm bút viết về bất cứ điều gì
trong đời, cũng có nghĩa là ta cầm bút và viết về chính ta. Ta chấm ngòi bút
vào bình mực của tâm hồn mình để viết về chính mình.” Vấn đề là như
thế.
Nếu tôi có nói gì gần gũi với “mục đích của phê bình”, thì, có lẽ, đó là
câu tôi trích dẫn nhà lý thuyết về thông diễn học Wilhelm Dilthey, trong phần
trả lời phỏng vấn của Phạm Văn Kỳ Thanh về cuốn sách nêu trên: “Mục tiêu tối
hậu của quá trình giải minh văn bản là để hiểu một tác giả sâu sắc hơn là chính
họ tự hiểu biết về mình”. (“The ultimate goal of the hermeneutic process is to
understand an author better than he understood himself.”). (24) Cách BCT trình bày về câu nói của tôi
như đã dẫn trên có thể gây ra ngộ nhận. Một cách nào đó, cách trình bày như thế
cũng có tính gán ép.
Dù sao, tôi cũng bảo lưu ý kiến của mình khi cho rằng “Khi ta cầm bút viết về bất cứ điều gì trong đời, cũng có
nghĩa là ta cầm bút và viết về chính ta”. Không
cứ gì khi viết phê bình. Khi anh viết về bất cứ điều gì, một cách nào đó, anh
đang viết về chính anh. Chẳng phải tất cả những gì mà Sartre viết, chẳng hạn,
về Baudelaire, về Jean Genet, về Mallarmé, đều không phải là Sartre viết về
chính mình hay sao?
8.
Phê bình cách tôi nhìn thế giới của Trịnh Công Sơn qua ngôn ngữ của người
nhạc sĩ/ca nhân này, BCT trích những nhận xét của tôi về ca từ của TCS:
“Ca
từ của Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ Việt Nam và đưa ra những hình ảnh đẹp một cách rất bi thiết pha trộn với nét kỳ ảo. Tất cả những
điều đó tạo nên một thế giới riêng biệt, một thế giới chưa bị làm mòn đi bởi sự
nhàm chán, sự lặp lại. Và điều ấy tạo nên sự thu hút”… “anh dùng những chữ bình dị, thậm chí tầm thường, trong ngôn ngữ
của người đời, rồi xếp chúng lại một
cách hết sức bất ngờ khiến, qua sự sắp
xếp đầy tính bất ngờ ấy, những hình ảnh lạ lùng, thiết tha và thơ mộng hiện ra
trước mắt chúng ta. Làm ta sững sờ.“.
Bùi Công Thuấn nhận xét: “Điều đáng tiếc
là ông [BVP] đã không nhận ra chủ nghĩa Ấn tượng trong ngôn ngữ nhiều ca khúc
của Trịnh Công Sơn. Những hình ảnh trong ca từ của Trịnh Công Sơn là những ấn
tượng bất chợt đến trong dòng chảy tâm trạng của người nhạc sĩ. Đó không phải
là hình ảnh hiện thực trong một không gian thời gian nhất định. Vì thế tìm hiểu
không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong ca từ của Trịnh Công Sơn
không giúp phát hiện ra đặc sắc ngôn ngữ của người nhạc sĩ này.”
Sau đó,
ông lại viết thêm: “… Không có một
không gian cụ thể, không diễn ra trong một thời gian cụ thể. Chỉ có tâm trạng
buồn nhớ người nhạc sĩ là cụ thể. Còn lại, tất cả chỉ là ấn tượng để diễn tả
tâm trạng đó…”
Tôi muốn trình bày ở đây về hai
điều mà BCT đã phát biểu. Đó là, một, về “chủ nghĩa Ấn tượng” mà ông xác định
là ngôn ngữ/hình ảnh của TCS thuộc về, và hai, về “không gian nghệ thuật / thời
gian nghệ thuật” (trong Thi pháp học). Với điều thứ nhất, ông có thể bị lẫn lộn
về vấn đề khái niệm, nên lời phát biểu chưa được thực xác, thực đúng. Còn điều
thứ hai thì hoàn toàn không chính xác. Có thể vì ông đã chưa có dịp tìm hiểu
kỹ.
Trong lối nói bình thường, người
ta có thể nói về một câu chuyện, hay một hình ảnh, một bài hát, v.v., đã để lại
nhiều/những ấn tượng trong ta. Giới trẻ ngày nay, thậm chí, còn dùng từ “ấn
tượng” theo một cung cách “ấn tượng” hơn nữa, như khi họ phát biểu, “Buổi trình
diễn này ấn tượng thật!”. Hay, thậm chí, “Hôm nay trông em ấn tượng quá!”. Đó là những cách nói trong “thường đàm”. Nếu nói ngôn ngữ/hình ảnh của TCS “tạo ấn
tượng” hoặc “rất ấn tượng” thì cũng đúng. Đó là lời nói có tính khen ngợi.
Nói “Những hình ảnh trong ca từ của Trịnh Công
Sơn là những ấn tượng bất chợt đến trong dòng chảy tâm trạng của người nhạc sĩ” thì cũng không có gì sai. Đúng là ở nhiều chỗ, TCS
có lẽ đã có những ấn tượng đến với ông như thế, làm thành những hình ảnh đẹp và
thơ mộng, qua ngôn ngữ kiến tạo đặc biệt và tài hoa của người nhạc sĩ. Nói rằng
hình ảnh của TCS là những hình ảnh mang tính ấn tượng cũng có thể chấp nhận
được, cho dù, người ta cũng có thể nói là những hình ảnh mang tính ấn tượng ấy,
được TCS sắp
xếp một cách đặc biệt, mang nhiều nét của thủ pháp siêu thực. Theo André
Breton, người sáng lập trường phái Siêu thực, cũng như với Apollinaire và những
nhà siêu thực khác, thì “siêu thực” là từ được dùng để chỉ một thực tại sâu
lắng hơn, hoặc vượt lên trên, thực tại bình thường của cuộc sống. Họ tin rằng
những hình ảnh ấy có thể có trong những trí óc chứa đầy năng lượng từ vô thức.
Trong ca từ của TCS, ở nhiểu chỗ, người ta có thể “thấy” những hình ảnh như: “Có một dòng
sông đã qua đời”, hay “Đêm thấy ta là thác đổ… / bên vết thương tôi
quỳ”, hay:
“Em đi qua cầu / chở chiều trên vai / ngậm
buồn trên môi…
Một dòng sông sâu / chở hồn thương đau…”
Hay:
"Đêm nghe trời như hú như than…
Đời đốt nến chia phôi…”
Hay:
“Ngày mai em đi / Đồi núi nghiêng nghiêng
đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ…
Bàn tay chăn gió mưa sang… / Bàn tay nghe
ngóng tin sang
Hồn lẻ nghiêng vai gọi buồn…”
Các nhà siêu thực kêu gọi các
nghệ sĩ, nhà thơ, nhà văn, nên “nuôi dưỡng/bồi đắp” (cultivate) một “cơ chế tự
động về mặt tinh thần”, một tiến trình liên tưởng tự do trong việc viết hay vẽ
một cách bất chợt, chụp bắt cái “vụt hiện”, cái thoáng qua trong trí, trong
tưởng tượng, hay gắn kết với những ấn tượng, hoặc những hình ảnh trong mơ, thường
dưới ảnh hưởng lý thuyết của Freud.
Chính vì vậy, khi tôi nói, ”… anh [TCS] dùng những chữ bình dị, thậm chí
tầm thường, trong ngôn ngữ của người đời, rồi xếp chúng lại một cách hết sức bất ngờ khiến, qua sự sắp
xếp đầy tính bất ngờ ấy, những hình ảnh lạ lùng, thiết tha và thơ mộng hiện ra
trước mắt chúng ta. Làm ta sững sờ.“ Điều tôi nói ở đây là muốn chỉ vào những hình ảnh “thoáng qua”, “vụt
hiện”, và “bất chợt”, những hình ảnh như trong mơ, những ấn tượng, với những
liên tưởng tự do, mang tính lạ lẫm bất ngờ kia, đến trong tâm trí của TCS. Và
anh đã “sắp xếp” bên nhau, xếp chồng lên nhau, những hình ảnh và “chất liệu” ấy,
gắn bó chúng vào nhau một cách hết sức bất ngờ, gần gũi với một kiểu tranh siêu
thực theo lối “Representational Surrealism” đầy nét nghệ thuật.
Trong cảm nhận của riêng mình,
tôi cũng thấy có những hình ảnh của TCS gần gũi với những hình ảnh của Paul
Klee, giai đoạn tiền-siêu thực (proto-surrealism), mang đầy vẻ thơ mộng, và,
đôi khi, với những hình ảnh của Giorgio de Chirico, mang những nét huyền bí, lạ
lùng, cho thấy một thực tại ở giữa cái hiện thực đời thường và cái siêu hình (metaphysics).
Hình ảnh/ca từ của TCS, trong cảm nhận của tôi, không gần lắm với dạng
“Abstract Surrealism” trong lối tranh của Joan Miró. Nó cũng không gần gũi với
dạng siêu thực theo lối Salvador Dali, qua nhiều gắn kết với những biểu tượng
tình dục, mà không liên hệ nhiều đến thế giới vô thức như tranh của De Chirico.
Dù sao, gắn kết những hình ảnh/ca
từ của Trịnh Công Sơn với một “chủ nghĩa” nghệ thuật nào đó là một điều phức
tạp. Bởi thế, cho dù thấy có nhiều sự gần gũi, liên hệ như đã trình bày, tôi
cũng không dám nói hẳn là ngôn ngữ/hình ảnh của TCS là thuộc chủ nghĩa Siêu
thực.
Tác giả Bùi Công Thuấn thì xác
định rõ: ngôn ngữ/hình ảnh của TCS thuộc
“chủ nghĩa Ấn tượng”. Khi ta phát biểu
một câu đại khái như, “ngôn ngữ/hình ảnh của TCS cho thấy những ấn tượng…/là
những ấn tượng…” thì không có vấn đề gì. Còn khi ta xác định và xếp những ngôn
ngữ/hình ảnh ấy vào “chủ nghĩa Ấn tượng” thì đó lại là một cái gì hoàn toàn
khác.
Chủ nghĩa Ấn tượng
(Impressionism) là một phong trào (sau thành một trường phái) nghệ thuật khởi
nguyên từ thế kỷ XIX, bắt nguồn từ hội họa. Nó là một sự đối kháng lại chủ
nghĩa Hiện thực (Realism). Nó thể hiện ở trong tranh với những nét cọ, nét
quệt, tương đối nhỏ, mảnh, nhưng rõ ràng, với một bố cục mở, nhấn vào sự diễn
tả chính xác ánh sáng trong sự thay đổi sắc độ của chúng (thường nhấn mạnh đến
hiệu ứng của sự thay đổi sắc độ theo thời gian sáng, trưa, chiều tối, v.v.),
vào những chủ đề thông thường, bao gồm sự chuyển động như một yếu tố quan trọng
trong sự nhận thức và kinh nghiệm của con người, và những góc nhìn khác lạ. Nó
tìm cách vẽ những “ấn tượng” qua con mắt nhìn vào hiện thực hiển hiện trước mắt
của người nghệ sĩ, hơn là qua sự hiểu biết của tâm trí. Chẳng hạn, một dòng
sông có thể chỉ là một dải xanh (da trời và lá cây kết hợp) trong cái biết của
tâm trí, trong khi nếu nhìn một cách trực tiếp, không có sự can dự của “lý
trí”, của cái biết mà tâm trí đem lại, nó lại cho thấy đầy ắp một sự phong phú
của màu sắc. Những họa sĩ ấn tượng cũng thường đưa những đốm, những bệt màu
nguyên thủy, chưa pha trộn, lên tranh, tạo nên những “nhịp chõi”, gây ấn tượng
mạnh. Những “kiện tướng” của chủ nghĩa Ấn tượng mà ta có thể kể là Monet,
Degas, Cézanne, v.v.
Từ hội họa, chủ nghĩa Ấn tượng đổ
tràn qua thế giới âm nhạc. Nhiều người cho rằng Ravel và Debussy là hai khuôn
mặt nổi bật của nền âm nhạc mang chứa trong nó dấu ấn của chủ nghĩa “ấn tượng”
(cho dù có những người lại cho rằng Debussy gần với chủ nghĩa “tượng trưng”
hơn). Theo quyển A
History of Western Music (Norton) thì cái mà hai trường phái ấn
tượng (impressionism) và tượng trưng (symbolism) có chung với nhau là “một cảm
giác quan sát có tính tách rời: thay vì diễn tả cảm xúc sâu lắng mà người nhạc
sĩ cảm nhận, hay thay vì kể một câu truyện…, [nó] thường khơi gợi một cảm xúc,
một tình cảm, một không khí….”
Chủ nghĩa Ấn tượng cũng đổ tràn sang lĩnh vực văn chương, cho dù những
đường nối của nó trong lĩnh vực văn học không thực sự rõ ràng lắm. Cũng thế,
người ta cho rằng các nhà văn có khuynh hướng ấn tượng và biểu tượng đã chia sẻ một số điểm chung với nhau. Người ta
hay nhắc đến Baudelaire, Henry James, Virginia Woolf và James Joyce khi nói về
cả hai khuynh hướng vừa nói. Một khía cạnh của cách viết này là sự sử dụng thời
gian và không gian không theo quy ước. Người đọc đi vào quá khứ, hiện tại và
ngay cả tương lai trong một sự thâm nhập lẫn lộn, chung đụng. Các nhà văn ấn
tượng cũng thường đưa vào tác phẩm những diễn tả quy chiếu trên nhiều giác quan
khác nhau: một dáng điệu, một âm thanh, một mùi nào đó, hay là bất cứ một chi
tiết nào liên hệ đến cảm giác.
Như thế, tôi nghĩ, ca từ/hình ảnh của TCS có thể cho thấy những ấn tượng,
hoặc bắt nguồn từ một số ấn tượng nào đó trong tâm hồn của người nhạc sĩ. Chúng
cũng có thể là những ấn tượng theo dòng liên tưởng tự do, theo lối siêu thực,
như tôi đã thử phân tích, bắt nguồn từ một cơ chế tự động có khởi nguyên từ vô
thức. Vấn đề ở đây là “thủ pháp sắp xếp” của TCS. Thủ pháp ấy nghiêng nhiều về
phía “siêu thực”. Còn xác định
một cách chắc chắn là ngôn ngữ/ca từ/hình ảnh của TCS thuộc “chủ nghĩa Ấn
tượng” như BCT đã nhất quyết, thì, thật sự, với sự hiểu biết của mình, tôi quả
là không dám.
9.
Bây
giờ, xin nói về cách hiểu của nhà phê bình Bùi Công Thuấn về “thời gian/không
gian nghệ thuật” trong Thi pháp học.
Để
có những điểm quy chiếu, xin được nhắc lại mấy điều ông viết:
“… Đó không phải là hình ảnh hiện thực
trong một không gian thời gian nhất định. Vì thế tìm hiểu không gian nghệ
thuật, thời gian nghệ thuật trong ca từ của Trịnh Công Sơn không giúp phát hiện
ra đặc sắc ngôn ngữ của người nhạc sĩ này.”
Và: “… Không có một không gian cụ thể, không diễn ra trong
một thời gian cụ thể. Chỉ có tâm trạng buồn nhớ người nhạc sĩ là cụ thể. Còn
lại, tất cả chỉ là ấn tượng để diễn tả tâm trạng đó…”.
Theo tôi hiểu, và theo các tài
liệu về Thi pháp học khi bàn về “không gian nghệ thuật” và “thời gian nghệ
thuật”, thì, chẳng hạn theo Vũ Minh Đức:
“Không gian nghệ thuật thống nhất nhưng
không đồng nhất với không gian khách thể. Bản thân không gian vật chất tồn tại
khách quan, nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của con
người, mà không gian vật chất chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi được tác
giả cảm nhận về nó và qua đó thể hiện cách cảm cách nghĩ của nhà văn về thế
giới, là một quan niệm nhân sinh, một thái độ sống trước cuộc đời.” (25)
Chính vì vậy, theo tác giả dẫn thượng, khi bàn về bài
thơ “Tháp Bay-on” của Chế Lan Viên, ông viết: “Có người nhìn
tháp Bay-on chỉ thấy đó là ngọn tháp, một công trình kiến trúc nhưng bằng giác
quan căng mở với sự cảm nhận vi tế của thi sĩ, Chế Lan Viên đã thấy ở đó là cả
một không gian mang tâm trạng buồn đau, bế tắc. Tác giả thấy ở đất nước Chiêm
Thành, hình ảnh của những tháp Chàm đổ nát, mỗi một mặt lại mang những tâm
trạng, cảm xúc khác nhau và nhà thơ thấy mình trong đó. Nhà văn là người thư kí
trung thành của thời đại, trái đất nứt làm đôi vết nứt đi qua trái tim người
nghệ sĩ và khi đến với bạn đọc thì đã dính máu. Do cảm nhận bằng tâm trạng nên
không gian trong thơ có cách biểu hiện riêng không giống với không gian vật
chất bên ngoài. Trong tác phẩm văn học có nhiều không gian được tổ chức như
vậy…”
Không gian nghệ thuật là như thế.
Tôi muốn đưa thêm một thí dụ khác ở đây. Khi Hàn Mặc Tử viết “Trăng nằm sóng
soải trên cành liễu / Đợi gió đông về để lả lơi / Cây lá ngây tình không muốn
động…”, thì, thật sự, không có một “không gian cụ thể” nào lại cho
ta thấy được điều đó. “Trăng”, như một người con gái, “nằm sóng soải”, mà lại
nằm “trên cành liễu”. Cây lá trở nên “ngây tình”, không dám … thở mạnh, huống
hồ là kẻ thi sĩ. Nếu có một con người nào khác, một con người bình thường, từ
cùng một điểm đứng trong không gian của Hàn, cùng đứng trong cái “tọa độ” thời
gian mà Hàn đã đứng, chắc sẽ nhìn thấy một không gian cụ thể, một không gian
vật lý bình thường, không có tính nghệ thuật, phần nào đượm màu nhục cảm
“libido”, đầy chất thơ, mà người đọc đã thấy trong cái “không gian nghệ thuật”
riêng, qua cảm nhận, qua ngôn từ, của thi sĩ.
Hay khi Hàn Mặc Tử viết: “Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ / Đầy mình lốm đốm những
hào quang”, thì cái không gian kỳ lạ ấy, cái không gian của ngôn từ,
của một cảm nhận qua một mắt nhìn đặc biệt, cái không gian có cái đẹp nửa man
dại, nửa hùng vĩ ấy, là của riêng nhà thơ. Chẳng ai có được. Có thể nhân vật
chính của Dostoievski, trong tác phẩm White Nights (Đêm Trắng), cũng đã có được một
không gian đẹp đẽ như vậy. Nó cũng rất thơ mộng. Nhưng nó không mang cái đặc
chất lạ lùng như cái không gian trong mấy câu thơ kia của thi sĩ Việt Nam. Đó
chính là cái “không gian nghệ thuật” riêng của Hàn Mặc Tử.
Tài liệu, sách vở đều cho ta biết
là không gian nghệ thuật vừa mang tính tượng trưng vừa mang tính quan niệm.
Quan niệm của nhà văn. Nó mang tính gợi hơn là tả. Và vì nó mang tính tượng
trưng và nằm trong quan niệm của nhà văn, nhà thơ, nó rất đặc thù với mỗi nhà
văn, nhà thơ khác nhau. Nó không phải là một không gian cụ thể, mang tính “nhất
phiến”, giống nhau trước con mắt mọi người. Chính vì thế, người ta có thể
nghiên cứu những không gian nghệ thuật trong văn của Yasunari Kawabata, hay của
Gogol, hay của Haruki Murakami, v.v. (26)
Cũng thế là “thời gian nghệ
thuật”. Đó cũng là thời gian mang tính quan niệm và mang tính cá nhân. Nó thể
hiện ý hướng nghệ thuật của mỗi tác giả. Thời gian ấy là một thứ thời gian tâm
lý, thời gian của nhân vật truyện, của chủ thể trong tác phẩm. Nó không trùng
khít với thời gian ngoài đời, vì nó không nhất thiết phải gắn với hiện thực. Nó
có những sắc độ, những nhịp điệu riêng của nó để phản ánh hiện thực. Hay để làm
người đọc quên đi hiện thực. Thời gian nghệ thuật có thể là một thứ thời gian
đồng hiện. Nó cũng có thể rong duổi ngược xuôi, trộn lộn quá khứ hiện tại tương
lai, mà không nhất thiết phải mang chất tuyến tính. Hãy nhớ lại thời gian trong
Cien Años de
Soledad (Trăm Năm Cô Đơn) của Gabriel García Márquez. Hay thời gian
của The Sound
and the Fury (Âm Thanh và Cuồng Nộ) của
William Faulkner. Hay thời gian một ngày trong tiểu thuyết Ulysses của James Joyce, hay
cũng thời gian một ngày trong The Day Lasts More Than A Hundred Years (Một Ngày Dài Hơn
Thế Kỷ) của Chinghiz Aitmatov. Tất cả đều là những “thời gian nghệ
thuật”.
Đối với Trịnh Công Sơn, đứng
trước bất cứ cảnh tượng nào của đời, của cuộc sống, cho dù là đứng trước phố
(hay trong lòng phố), đứng trước sông, trước biển, trước núi non trời đất, hay
đứng trong chiều, nhìn nắng, nhìn mưa, nhìn cây, lá, hoa, mây, sóng, gió, v.v.,
anh đều có những ấn tượng của riêng mình, những hình ảnh vụt hiện, thoáng qua,
bất chợt. Những hình ảnh, ấn tượng ấy không ăn khớp hay trùng khít với thực tại
vật lý. Nhưng là những hình ảnh liên tưởng bất chợt, thường là từ tưởng tượng
hay vô thức của người nhạc sĩ. Thậm chí, và có lẽ đúng là như thế, khi viết về
những hình ảnh, thể hiện ra bằng ca từ có nét thu hút riêng của mình, TCS không
thật sự đứng trước một không gian có thật, một không gian cụ thể nào cả. Mà anh
ngồi tại nhà, hay trong một “quán không” nào đó, nghĩ về một vài hình ảnh nào
đó mà anh đã có giữa cuộc đời này. Và những hình ảnh liên tưởng bắt đầu hiện ra
trong hồn, trong trí. Chẳng hạn, trong “Rừng Xưa Đã Khép”: “Ta thấy em trong tiền kiếp, với cọng buồn
cỏ khô / Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa…” “Tiền
kiếp” và “Rừng xưa”. Chúng ở đâu trong cuộc đời này? Ta không định vị được tọa
độ thời gian và không gian của chúng. “Thời gian nghệ thuật” và “không gian
nghệ thuật” của TCS, như thế, không nhất thiết cần đến một không/thời gian cụ
thể nào để bám víu vào. Nó là cái không gian, thời gian mà người nhạc sĩ ấy cảm
nhận trong lòng mình khi hồi tưởng về những hình, những bóng, những ám ảnh,
những “tiếng gọi của trần gian” trong hồn anh.
Như thế, “thời gian/không gian
nghệ thuật” trong Thi pháp học không phải là một khung cảnh thời gian/không
gian nhất định, cụ thể, mang tính vật lý, như Bùi Công Thuấn nghĩ. Nó là không
gian, thời gian riêng, mang tính quan niệm, tính tượng trưng, cũng như mang
tính cá nhân, trong cảm nhận của con người sáng tạo. Tôi đã dùng Thi pháp học,
với các khái niệm “thời gian nghệ thuật” và “không gian nghệ thuật” như thế, đặc
biệt cùng với những phân tích về mặt ngôn ngữ, để khảo sát, trình bày những ám
ảnh nghệ thuật cũng như tài năng sai sử ngôn ngữ, tạo nên những hình ảnh đẹp lạ
lùng và thơ mộng của Trịnh Công Sơn, trong cuốn sách viết về người nhạc sĩ này
của mình.
Tôi không nghĩ là khi phát biểu
những điều mà tôi đã dẫn ở những đoạn trên, liên hệ đến “chủ nghĩa Ấn tượng”,
đến “thời gian nghệ thuật”, “không gian nghệ thuật”, để đưa ra một vài nhận xét
về thao tác làm việc mang tính nghệ thuật của tôi trong cuốn sách đã nói, tác
giả BCT đã chú ý đủ, hay ý thức đủ, về những nhận định của ông.
Bài viết của nhà phê bình Bùi
Công Thuấn, cho dù có những điểm vẫn cần phải được bàn lại, như tôi đã thử làm
ở trên, trong cái nhìn của riêng mình, tôi vẫn thấy là một nỗ lực tìm cách đóng
góp vào sự nhìn nhận về văn học Việt Nam nói chung. Cùng với những đóng góp
khác của ông, chẳng hạn về nhạc, hay về hiện trạng văn học trong nước, thể hiện
nơi những tác phẩm văn học hoặc những hiện tượng văn học khác nhau, với những
điểm khả thủ hoặc chưa khả thủ trong lối viết của tác giả, cho thấy đây là một
cây bút luôn có những nỗ lực đóng góp, chia sẻ.
Với sức đọc, sức viết, và sự cảm
thụ văn học của mình, Bùi Công Thuấn, tôi nghĩ, sẽ còn là một trong những cây
viết đóng góp vào sự tự ý thức của văn học trong nước. Và sự tiếp nhận nơi
người đọc đối với đóng góp của bất cứ một người cầm bút nào cũng vẫn tùy thuộc
vào chữ viết của người ấy, những chữ viết cho thấy suy nghĩ và tâm hồn của một
nhà văn. Cái “cấu trúc”, cái “cảnh tượng tâm hồn” của người cầm bút.
10.
Văn học Việt Nam, cả trong nước
lẫn ngoài nước, nói chung, đang có những bước tiến khả quan trong việc tiếp
cận, bắt nhịp với dòng chảy của văn học thế giới. Quan sát những mặt, những
nét, những khía cạnh khác nhau của văn học Việt, cả trong và ngoài, thể hiện
qua những tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ, các nhà phê bình, biên khảo,
nghiên cứu, v.v., người ta có được một cảm nhận khá phấn khích trước cái toàn
cảnh phong phú của những thủy lưu cuồn cuộn kia.
Việc đọc, chia sẻ, nhận xét, hay
trao đổi, đóng góp, nếu có, để cho thấy cái nội dung phong phú, đẹp đẽ của
những dòng chảy đó là một điều nên làm. Và nên được làm với một ý thức cần
thiết, tự mình đặt cho mình, của mỗi người cầm bút.
Thế giới chúng ta đang sống không
còn như xưa. Nó phẳng. Nó có những nối kết. Và con người, nó nghe rõ tiếng đập
của trái tim thế giới trong lồng ngực của chính mình.
Văn học Việt Nam, nói chung,
trong dòng chảy của thế giới, của văn học thế giới, cũng đang đập những tiếng
đập có mặt như thế.
Tôi tin vào sức mạnh của văn học
Việt.
Cả trong lẫn ngoài nước.
Bùi Vĩnh Phúc
California – 25 tháng VI, 2017
--------------------------------
Chú thích:
(2)
Việc không kể tên nhà phê bình Đặng Tiến
trong bài viết thượng dẫn của mình của Bùi Công Thuấn có thể có một lý do. Trước
đó, ông đã dành cả một bài khá dài để viết về Đặng Tiến. Bài viết mang tên “Đặng Tiến –
“Gu” hay Phương Pháp?” Cũng giống như bài viết hiện tại về bốn nhà
phê bình văn học hải ngoại mà chúng ta đang nói đến ở đây, BCT cũng dành cho ĐT
nhiều điểm âm trong cách đánh giá của mình. Và sự phiến diện, mang tính bất cân
bằng trong thao tác chọn lựa điểm nhấn để đánh giá của nhà phê bình BCT trong
bài viết về ĐT cũng có nhiều nét giống với những thao tác mà BCT sử dụng để
nhìn và xét các nhà phê bình trong bài viết thượng dẫn. Xem bài viết của BCT về
ĐT ở đây: http://chuttinhtriam.blogspot.com/2017/03/ang-tien-gu-hay-phuong-phap.html.
(3)
Cuốn sách, khi được tái bản, được đổi
tên là Thơ
Con Cóc và Những Vấn Đề Khác.
(4)
Xem “Khế Ước Văn Hóa trong Bài Thơ Con Cóc” của Đỗ
Minh Tuấn, trang 18 – 23, và “Trả Lời Ông Đỗ Minh Tuấn” của NHQ, trang 24 - 29, Văn Học số 134, tháng
6, 1997, http://tapchivanhoc.org/?p=195
. Xem Thụy Khuê, “Góp Ý về Phê Bình Văn Học”, trang 3 – 19, và Bùi Vĩnh Phúc,
“Về Mỹ Học Tiếp
Nhận và Thuyết Hồi Ứng Của Người Đọc”, trang 22 – 45, Văn Học số
138, tháng 10, 1997, http://tapchivanhoc.org/?p=195.
Và xem Nguyễn Trọng Văn, “Nguyễn Hưng Quốc, và những vấn đề quanh bài thơ ‘Con
Cóc’”, https://www.diendan.org/sang-tac/nguyen-hung-quoc-va-nhung-van-111e-quanh-bai-tho-con-coc/
(6)
Dịch từ tiếng Anh: “(…) Man is by
nature a political animal… And whereas mere sound is but an indication of
pleasure or pain, and is therefore found in other animals (for their nature
attains to the perception of pleasure and pain and the intimation of them to
one another, and no further), the power of speech is intended to set forth the
expedient and inexpedient, and likewise the just and the unjust. And it is a
characteristic of man that he alone has any sense of good and evil, of just and
unjust (…)”
(7)
Xem Antonín J. Liehm, The Politics of
Culture, New York: Random House, Inc., 1968.
(8)
Nguyên
văn: “(…) 'Feminist criticism', then, is a specific kind of political
discourse: a critical and theoretical practice committed to the struggle
against patriarchy and sexism, not simply a concern for gender in literature…”,
trong quyển The
Feminist Reader / Essays in Gender and the Politics of Literary Criticism,
do Catherine Belsey và Jane Moore tuyển chọn, New York, 1989.
(9)
Có
rất nhiều tài liệu, sách vở viết về Edward Said. Có thể đọc một quyển, tương
đối mới, viết về tác giả này: Edward Said / The Charisma of Criticism, của H.
Aram Veeser, Routledge, 2010.
(10)
Có
thể tạm kể hai bài này: “GS - TS Trần Đình Sử và Thi Pháp Học”, http://chuttinhtriam.blogspot.com/2017/04/gs-ts-tran-inh-su-va-thi-phap-hoc.html,
và “40 Năm
Văn Chương Việt Nam (1975 – 2015) – Những Gì Còn Lại với Mai Sau”, http://chuttinhtriam.blogspot.com/2016/04/40-nam-van-chuong-viet-nam-1975-2015.html
(11)
Phần “Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia
long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt”,
trong chính bản của tôi trên các trang mạng, được in bằng một co chữ khác. Vì
nó chính là thơ của TTT được tôi đưa vào phần dẫn nhập. Mục đích của phần dẫn
nhập, với những câu thơ TTT xen kẽ, là để tạo một không khí, đưa bài viết và
người đọc vào không gian thơ và tâm trạng của TTT những ngày xưa cũ, khi nhà
thơ viết những câu thơ ấy (và những bài thơ khác của ông trong giai đoạn trước 1975).
Nơi phần trích đoạn dẫn nhập này của BCT, tất cả đều được chạy một co chữ, làm
lẫn chữ của người viết và thơ của TTT. Sự “vô ý” này đã làm mất phần lớn hiệu ứng
và mục đích kêu gọi hồi tưởng của đoạn văn.
(12)
Xem “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy” trên
talawas, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5335&rb=0101
(13)
Xem “Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền / Đọc
Thơ Ở Đâu Xa” trên Văn Việt, https://vandoanviet.blogspot.com/2015/03/biet-khuc-cho-thanh-tam-tuyen.html
, hay trên talawas, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6997&rb=0101
(14)
Xem Phùng
Nguyễn, “Giải
Cấu “Thanh Tâm Tuyền, thi sĩ tuyệt vọng, trần truồng””, và Nguyễn Đức Tùng, “Mười ba cách ngắm
con chim blackbird / Trao đổi với Bùi Công Thuấn về Thanh Tâm Tuyền”.
Cả hai bài viết này đều đã xuất hiện trên diễn đàn mạng Da Màu, vào thời
điểm cuối tháng Chín (hoặc đầu tháng Mười), 2007 sau bài viết về Thanh Tâm Tuyền
của BCT, cũng đăng trên diễn đàn này vào ngày 10 tháng Chín, 2007. Bài vở trên
Da Màu, trong bộ cũ, kể cả trong giai đoạn năm 2007 và trước đó, hiện tại, vì
lý do kỹ thuật, khó có thể truy cập. Riêng bài của Bùi Công Thuấn có thể xem ở
đây: http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7163
(15)
Chẳng hạn, khi tôi, trong bài “Biệt Khúc cho
Thanh Tâm Tuyền”, qua thái độ sống của TTT khi vẫn nhìn thấy cái đẹp
và cái thơ của cuộc đời, cho dù ông đang chịu cảnh tù đầy, đã cho rằng TTT có
được cái nhìn ấy vì ông đã sống tâm thế “vượt lên”, “vượt qua”, một tâm thế gần
gũi với cái nhìn Thiền quán của Phật giáo và tinh thần “tỉnh thức” của Công
giáo (trích “(…),“Thơ ông trong tập này đằm chín và sâu
lắng. Kinh nghiệm cuộc đời và sự thẩm thấu khổ đau, cái nhìn vào pháp tướng của
mọi sự vật trong đời đã làm cho những bài thơ ông mang một tố chất gì đó rất gần
với sự tỉnh thức và chấp nhận trong tinh thần giáo lý Công giáo, cùng lúc, cũng
mang trong chúng một thiền chất khiến ta thấy chúng, có những lúc, có cái tinh
thần đốn ngộ của Thiền tông và cái tinh thần bát nhã của đạo Phật... Trong Thơ Ở Đâu Xa, người ta thấy có nỗi buồn và có niềm đau. Có đấy.
Có sự cảm nhận buốt sắc về hiện sinh, về định mệnh mình. Nhưng kẻ thi sĩ ấy vẫn
không chịu ngã gục hoặc nằm vùi trong sầu khổ.”), thì BCT đã phủ nhận điều ấy. Ông cho rằng TTT không
có được cái uy lực đó. Cái nhìn an nhiên ấy, theo BCT, là do kết quả của lao động.
Ông viết, “TTT lao động, sống đời sống người lao động như bao
nhiêu người lao động khác… Khung cảnh thiên nhiên đất nước cùng với cuộc sống
lao động này đã thức tỉnh hồn thơ dân tộc ở TTT?”, và: “TTT từ con người của ý thức
hệ duy tâm trước kia giờ đây trở về với cái thực đời thường, sống thật với sự sống
của chính mình, sống cùng với sự tồn tại của người khác, không còn phải sống
trong xáo trộn, xô bồ, lo sợ chết chóc, đối diện với những bất trắc tráo trở phản
bội đớn hèn đau thương trước đó.” Kế tiếp, BCT khẳng định: “Thơ Ở Đâu Xa là tâm hồn TTT phục sinh trong cuộc sống lao động”. (Tôi [BVP]
nghĩ, sự bình tâm, tĩnh tại của TTT có thể, một phần nhỏ, bắt nguồn từ lao động,
từ sự hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên; nhưng, để đạt đến một tâm thái “vượt
lên”, “vượt qua”, và nhìn cuộc sống với sự an nhiên, thậm chí thơ mộng, như thế,
ngay trong cuộc khổ ải, phải có sự hiện hữu của một sức mạnh nội tâm khác làm
việc ở đây. Nhưng trong bài viết của mình, BCT đã đưa ra nhận
định then chốt, “…Ông [TTT] không vượt qua được cái tôi tiểu tư sản quay
quắt trong hiện sinh.”, và: “Trước sau TTT vẫn
là người tuyệt vọng.” Sau đó, ông nhấn mạnh thêm lần nữa, “Tôi hiểu nỗi
tuyệt vọng của TTT là vô phương cứu chữa, tuyệt vọng trần truồng,
không che giấu.” )
(16)
Xem Gaston
Bachelard / On Poetic Imagination and Reverie do Colette Gaudin chọn
lọc, dịch và giới thiệu. Dallas, Texas: Spring Publications, Inc., 1998.
(17)
Xem Gaston Bachelard, La Poétique de
la Reverie (Thi pháp của mơ mộng). Trong tác phẩm này , Bachelard đã
đối lập animus,
gắn bó với tinh thần khoa học, tượng trưng bằng lý trí, với anima,
gắn bó với mơ mộng và tưởng tượng.
(18)
Xem trong L’Eau et les
Rêves (Nước và Những Giấc Mơ) (Librairie José Corti, 1963. Colette
Gaudin dịch sang tiếng Anh trong Gaston Bachelard / On Poetic Imagination and Reverie, trang 60.) Lưu ý cách chơi ánh sáng và chơi chữ
của GB trong cách tả ánh sáng trắng sữa của mặt hồ dưới trăng: “(…) in sum, the
water must go from transparence to translucence, it must slowly
become opaque,
it must become opaline…”.
Những từ in nghiêng là do tôi muốn nhấn mạnh. Chúng vẫn giữ được hiệu ứng nói
trên như trong bản tiếng Pháp: transparence, translucide, opaque, opale.
(19)
Trong L’Eau et les
Rêves (Nước và Những Giấc Mơ): “La plus belle des demeures serait pour moi au creux d'un
vallon, au bord d'une eau vive, dans l'ombre courte des saules et des osières.”
… “C'est près de l'eau que j'ai le mieux compris que la rêverie
est un univers en émanation, un souffle odorant qui sort des choses par
l'intermédiaire d'un rêveur.” … “Au fond de la matière pousse une végétation
obscure ; dans la nuit de la matière fleurissent des fleurs noires. Elles
ont déjà leurs velours et la formule de leur parfum.”
(20)
Xem trong La Poétique de la Rêverie (Thi pháp của mơ mộng), bản
dịch tiếng Anh: “A word is a bud
attempting to become a twig. How can one not dream while writing? It is the pen
which dreams. The blank page gives the right to dream.”
(21)
Xem trong La Psychanalyse du Feu (Phân tâm học về Lửa):
“Le
feu est ainsi un phénomène privilégié qui peut tout expliquer. Si tout ce qui
change lentement s'explique par la vie, tout ce qui change vite s'explique par
le feu. Le feu est l'ultra-vivant. Le feu est intime et il est universel. Il
vit dans notre cœur. Il vit dans le ciel. Il monte des profondeurs de la
substance et s'offre comme un amour. Il redescend dans la matière et se cache,
latent, contenu comme la haine et la vengeance.”
(22)
Bản
dịch tiếng Anh, Step
Not Beyond: “Writing is not destined to leave traces, but to erase,
by traces, all traces, to disappear in the fragmentary space of writing more
definitely than one disappears in the tomb.”
(23)
Bản
dịch tiếng Anh, The
Madness of the Day: “I wanted to see something in full daylight; I
was sated with the pleasure and comfort of the half light; I had the same
desire for the daylight as for water and air. And if seeing was fire, I
required the plenitude of fire, and if seeing would infect me with madness, I
madly wanted that madness.”
(24)
Xem
phỏng vấn của Phạm Văn Kỳ Thanh về sách Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ và Những Ám Ảnh Nghệ Thuật
của BVP tại http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=6008&rb=0206
(25)
Xem “Không gian nghệ thuật trong văn học” của Vũ
Minh Đức: http://tapchivan.com/tin-ly-luan-van-nghe-ly-luan-chung-ve-khong-gian-nghe-thuat-trong-van-hoc-(vu-minh-duc)-840.html.
Về các khái niệm “không gian nghệ thuật” và “thời gian nghệ thuật” trong Thi
pháp học, ta có thể tìm thấy chúng trong rất nhiều sách vở, tài liệu, nếu chịu
khó bỏ thời gian tìm kiếm trong sách và trên mạng Interrnet.
Xem Hà Văn Lưỡng (Đại
học Khoa học Huế), “Các loại không gian nghệ thuật trong văn xuôi Yasunari Kawabata”,
http://www.inas.gov.vn/728-cac-loai-khong-gian-nghe-thuat-trong-van-xuoi-yasunari-kawabata.html
, và Iu. M. Lotman (Lã Nguyên dịch), “Không gian nghệ thuật trong văn xuôi Gogol”, http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Lyluanvanhoc/tabid/104/newstab/162/Default.aspx