Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2017

Alice Munro/Nguyễn Đức Tùng: THỊ TRẤN BẠCH DƯƠNG (Tiếp theo và hết)


(cuộc đời yêu dấu 2)
tác giả: Alice Munro
nguyên tác: amundsen (*)
người dịch: Nguyễn Đức Tùng

Như tôi đoán đúng về ngôi nhà ở thị trấn nơi cư ngụ của ông bác sĩ. Ông ta đã dẫn tôi về nhà ăn tối. Lời mời đưa ra tự nhiên vào một lúc nào đó hơi ngẫu nhiên khi chúng tôi gặp nhau ở hành lang. Có lẽ ông ta hơi ái ngại về lời hẹn sẽ nói chuyện với tôi về phương pháp giảng dạy.
Bữa ăn tối mà ông bác sĩ định mời trùng với ngày diễn kịch của Mary. Tôi kể cho ông nghe và ông bảo, “Thì tôi cũng mua như cô. Nhưng không nhất thiết chúng ta phải tới đó đâu.”
“Tôi có cảm giác như thể tôi đã hứa với nó rồi.”
“Ồ thế à, thế thì cô có thể hủy lời hứa đó đi. Đó là một thứ gì đó rất khủng khiếp, hãy tin tôi đi.”
Tôi nghe lời ông bác sĩ mặc dù tôi không gặp lại Mary. Tôi đứng chờ ở nơi mà ông hướng dẫn cho tôi, ở một khoảng hiên rộng trước cửa ra vào. Tôi mặc một cái đầm đẹp màu xanh dương đậm với những cúc áo kết bằng ngọc trai, cổ cườm, chân mang giày cao gót bên trong đôi ủng đi tuyết. Tôi đứng chờ hồi hộp, lo lắng, thoạt tiên bởi vì sợ rằng Matron sẽ bước ra khỏi văn phòng và nhìn thấy tôi, và kế đó là sợ ông bác sĩ chẳng nhớ gì chuyện ấy cả.

Nhưng rồi ông đến, cúc áo choàng cài tận cổ, và xin lỗi.
“Lúc nào cũng có vài chuyện gì đó phải làm cho xong.” Ông nói, và dẫn tôi đi dưới bầu trời đầy sao sáng vòng quanh tòa nhà tới chỗ xe hơi. “Cô đi được chứ?” Ông ta bảo và tôi nói vâng – mặc dù hơi lo lắng về đôi giày của mình – ông ta không hề đưa tay ra đỡ tay tôi.
Chiếc xe hơi cũ và hơi tồi tàn như hầu hết xe thời đó. Không có máy sưởi trong xe. Khi ông bảo sẽ đưa tôi về nhà ông, tôi cảm thấy bớt lo lắng. Tôi không tưởng tượng được với đám đông ở khách sạn và cũng kỳ vọng là không phải ngồi ăn bánh sandwich ở tiệm cà phê.
Khi đã vào nhà, ông bảo tôi đừng cởi áo choàng vội để cho ấm một chút đã. Ông bận rộn châm lửa lò sưởi đốt bằng củi.
“Tôi sẽ là người dọn dẹp và đầu bếp và người chạy bàn cho cô giáo,” ông ta bảo.
“Một lát nữa cô sẽ thấy thoải mái, bữa ăn tối không lâu đâu. Cô không phải giúp đỡ gì, tôi muốn làm một mình. Cô giáo muốn ngồi đâu để chờ? Nếu muốn cô có thể ngồi coi sách ở phòng trước. Ở đó không lạnh lắm nếu cô mặc áo choàng ấm. Nhà này có lò sưởi nhưng tôi không sưởi những phòng không dùng tới. Đèn ở phía sau cửa. Xin phép cô tôi muốn nghe tin tức trên đài phát thanh, đó là thói quen.”
Tôi bước tới phòng trước, cảm thấy như hơi có chút bị lạnh, để cửa bếp mở rộng. Ông ta bước tới khép cửa bếp lại và nói “để thế cho đến khi nào ấm lên một chút đã,” và quay lại với giọng của phát thanh viên trên đài CBC, một giọng nói thánh thót, điêu luyện, đầy tính kịch, đọc bản tin chiến tranh, vào năm cuối cùng. Tôi không nghe được giọng nói ấy từ khi tôi rời căn hộ của ông bà tôi và tôi ước gì mình cứ đứng trong bếp. Nhưng rồi có nhiều sách vở để coi. Không phải chỉ trên kệ sách mà cả trên bàn, trên ghế, trên cửa sổ, chất đầy sàn nhà. Sau khi lướt qua vài cuốn sách tôi có thể kết luận rằng ông ấy thích mua sách thành từng đợt và chắc là thuộc một câu lạc bộ đọc sách nào đó. Những cuốn sách cổ điển của Harvard. Cuốn lịch sử của Will và Ariel Durant – rất giống với những cuốn trên kệ sách của ông nội tôi. Tiểu thuyết và thơ có vẻ ít hơn, mặc dù có vài cuốn, đáng ngạc nhiên là loại sách trẻ con.
Những cuốn về nội chiến Mỹ, chiến tranh Nam Phi, các trận đánh của Napoleon, cuộc chiến tranh Hy Lạp cổ đại, sự nghiệp của Ceasar. Thám hiểm Amazon và Bắc băng dương. Những cuốn sách gợi ý về người muốn đọc, muốn nắm kiến thức bao quát nhưng rải rác. Có lẽ không phải là một người có sở thích chắc chắn và chính xác.
Vì vậy mà ông ta từng hỏi tôi, “Cuốn tiểu thuyết Nga nào”, lúc hỏi thế có lẽ ông không có một kiến thức cụ thể nào như tôi đã tưởng.
Khi ông bác sĩ gọi, “sẵn sàng rồi,” và tôi mở cửa ra, tôi đã có chút tự tin về sự nghi ngờ này.
Tôi nói, “Ông đồng ý với Naphta hay Settembrini?”
“Xin lỗi?”
“Đó là các nhân vật trong cuốn Ngọn Núi Thiêng. Ông thích Naphta hay Settembrini hơn?”
“Nói thật, tôi luôn lnghĩ rằng đó là một cặp túi xách. Còn cô?”
“Settembrini thì có vẻ nhân tính hơn nhưng Napht thì lý thú hơn.”
“Thế người ta dạy cô ở trường à?”
“Tôi chẳng bao giờ đọc mấy thứ đó ở trường.” Tôi trả lời lạnh lùng.
Ông ngước nhìn tôi, lông mày nhíu lại.
“Ồ xin lỗi. Nếu có cuốn sách nào làm cô thích cứ tự nhiên tới đây đọc khi nào cô rảnh. Có một máy sưởi ấm bằng điện tôi có thể đặt lại, vì tôi nghĩ là cô không có kinh nghiệm dùng lò sưởi đốt củi. Chúng ta nghĩ về chuyện đó chứ? Tôi có thể làm cho cô một chìa khoá riêng.”
“Cám ơn ông.”
Thịt heo cắt lát nhỏ để ăn tối, khoai tây nghiền, đậu trong hộp. Tráng miệng bằng bánh táo ngọt mua từ lò nướng, còn ngon hơn nữa nếu ông ta nghĩ đến chuyện hâm nóng lên.
Ông hỏi tôi về đời sống ở Toronto, chương trình đại học, ông bà tôi. Ông bảo rằng ông tưởng là tôi được nuôi nấng dạy dỗ theo cách giản dị và giới hạn.
“Ông nội tôi là một mục sư có đầu óc tự do theo giáo phái Paul Tillich.”
“Còn cô? Có phải là một đứa cháu gái theo Thiên chúa giáo loại tự do không?”
“Không phải.”
Touché. Cô có nghĩ là tôi hơi thô lỗ không?”
“Cái đó tùy. Nếu ông đang hỏi tôi như một ông chủ, thì không.”
“Thế thì tôi sẽ tiếp tục. Cô có bạn trai không?”
“Thưa có.”
“Tôi đoán là ở trong quân đội.”
Tôi nói, ở trong hải quân. Đó là một chọn lựa khôn ngoan, cho phép tôi được nói là tôi chẳng biết anh ra ở đâu và chẳng nhận được thư từ gì ráo. Tôi có thể nói là bạn trai của tôi không được lên bờ.
Ông bác sĩ đứng dậy và mang lại bình trà.
“Anh ta phục vụ trên chiến thuyền loại gì?”
“Hộ tống hạm.” Lại một sự chọn lựa khôn ngoan nữa. Sau một lúc tôi nghĩ là có thể cho chiếc thuyền ấy bị bắn ngư lôi như thường xảy ra với các chiến thuyền loại này.
“Một chiến sĩ dũng cảm. Cô muốn dùng sữa hay đường?”
“Cám ơn, tôi không dùng thứ nào cả.”
“Cách nào cũng tốt vì tôi chẳng có thứ nào. Cô biết không, khi cô nói dối mặt cô đỏ lên.”
Nếu tôi chưa bị đỏ mặt trước đó thì lúc này. Đầu tiên có một luồng nóng chạy từ chân lên, mồ hôi ứa ra trong nách. Mong sao cho cái áo đầm không bị hỏng mất.
“Tôi lúc nào cũng đỏ mặt lên khi uống trà.”
“Ồ vậy à.”
Mọi chuyện không thể nào tệ hại hơn nữa. Vì vậy tôi bình tĩnh lại và tìm cách trả đũa. Tôi đổi đề tài, hỏi ông ta mổ bệnh nhân như thế nào. Có phải ông ta lấy phổi ra ngoài như tôi nghe?
Ông ta có thể sẽ trả lời với một chút chế nhạo, một chút tự kiêu – có lẽ là cách để quyến rũ phụ nữ - và tôi tin rằng nếu ông ta đã làm thế thì tôi sẽ mặc áo choàng lên và bước ra ngoài trong trời lạnh. Và có lẽ ông ta cũng biết thế. Ông bắt đầu nói về việc tái tạo lồng ngực, giải thích việc ấy như thế nào, mặc dù thật chẳng dễ dàng gì cho những bệnh nhân có phổi bị xẹp. Đó là điều thú vị ngay từ thời Hippocrates. Tất nhiên là việc cắt bỏ phổi ngày càng trở nên phổ biến gần đây.
“Bác sỹ có để mất nhiều bệnh nhân không?” Tôi nói.
Ông ta nghĩ có lẽ đây là lúc có thể đùa một chút.
“Tất nhiên bỏ chạy và trốn trong bụi rậm, không biết chạy tới đâu – nhảy xuống hồ nước – hay là cô nghĩ rằng bệnh nhân không chết. Có những ca mổ không thành công. Đúng thế.”
Nhưng những tiến bộ y học cũng đang xảy ra, ông bảo. Loại phẫu thuật mà ông ta đang thực hành sắp trở thành lỗi thời, cũng tương tự như phép trích máu để chữa bệnh. Một loại kháng sinh mới sắp được sử dụng có tên là Streptomycin đã được dùng trong một số thử nghiệm. Có một vài vấn đề, thật ra thuốc nào chẳng có. Sự ngộ độc đối với hệ thần kinh chẳng hạn. Nhưng cũng có cách để đối phó với các tác dụng phụ này.
“Khiến cho những bác sĩ thế hệ già như tôi đây bị mất việc.”
Ông rửa bát, tôi lau khô. Ông quàng một cái khăn lau bát quanh thắt lưng tôi để khỏi ướt áo đầm. Khi mọi chuyện xong xuôi, ông đặt một bàn tay lên lưng tôi. Một cái đặt tay mạnh mẽ, những ngón tay xòe ra – như thể đang từ từ bóc tách từng phần cơ thể tôi một cách chuyên nghiệp. Khi tôi lên giường nằm ngủ vào tối hôm đó tôi vẫn còn cảm nhận được cái đặt tay mạnh mẽ. Tôi cảm được sức mạnh lan từ ngón út đến ngón cái. Tôi thích thú nó. Điều ấy còn quan trọng hơn là nụ hôn được đặt lên trán tôi sau đó vào lúc tôi bước ra khỏi xe hơi của ông bác sĩ. Một nụ hôn với đôi môi khô lạnh, ngắn, nghiêm trang, được buông xuống với quyền lực chóng vánh.
Chìa khoá nhà ông ta được đặt lên sàn nhà của phòng tôi, luồn qua khe cửa hẹp khi tôi không ở đó. Nhưng cuối cùng tôi cũng không cần dùng tới nó. Nếu có một người nào khác cho tôi một cơ hội như thế tôi sẽ mừng rỡ bắt lấy. Nhất là khi lại có cả một lò sưởi ấm. Nhưng trong trường hợp này sự có mặt trong quá khứ và tương lai của vị bác sĩ sẽ làm cho mọi tình huống trở nên không dễ chịu chút nào và làm cho sự thoải mái bình thường biến mất, thay vào đó làm một niềm vui khác, căng thẳng, mệt mỏi hơn. Ngay cả khi trời không lạnh tôi vẫn không ngừng run lên, và khi ngồi đó giữa những cuốn sách kia dường như tôi chẳng đọc được chữ nào.
Tôi sợ Mary một ngày nào sẽ hiện ra trước mặt, trách móc tôi đã không đi xem vở kịch của nó. Tôi thầm nghĩ sẽ nói là mình không khỏe. Tôi bị cảm cúm. Nhưng tôi nhớ lại ở nơi đây bệnh cảm là một bệnh khá nguy hiểm, phải mang khẩu trang và bôi thuốc sát trùng, bị xua đuổi. Và rồi chỉ một thời gian ngắn tôi hiểu ra rằng không hy vọng gì giấu được chuyện thăm viếng nhà ông bác sĩ kia. Đó không phải là chuyện bí mật có thể qua mắt người khác ở đây, ngay cả với những người y tá thường không nói gì, hoặc là vì họ quá kiêu kỳ và tế nhị hoặc là những chuyện như thế từ lâu đã không làm họ chú ý. Nhưng mấy cô hộ lý thì trêu ghẹo.
“Cô giáo ăn tối bữa kia có vui không?”
Giọng nói của họ thân mật, ra vẻ tán đồng. Hình như vẻ kỳ quặc của tôi cũng phần nào thích hợp với vẻ kỳ quặc nhưng đã trở nên quen thuộc và được kiêng dè của ông bác sĩ, và chúng là một thứ gì hay ho. Người khác nhìn tôi với cặp mắt kính nể. Bây giờ thì bất kể tôi là cái thứ gì, rõ ràng tôi có thể trở thành một người phụ nữ có bạn trai.
Mary biến mất không thấy mặt đâu cả tuần lễ.
“Thứ bảy tuần tới,” là những chữ ông ta nói khi đặt nụ hôn lên trán tôi. Như thế, trước cửa, tôi lại đứng chờ lần nữa, và lần này ông ta tới đúng giờ. Chúng tôi tới nhà và tôi đi thẳng tới phòng phía trước trong khi ông đốt lò sưởi. Ngồi ở đó tôi nhận ra cái máy sưởi bằng điện.
“Không phải vậy sao,” ông ta nói. “Có phải cô đã từng nghĩ rằng tôi chỉ nói cho vui vậy thôi? Tôi bao giờ cũng định tâm thực hiện điều mình nói.”
Tôi bảo ông tôi không tính đi vào khu phố vì sợ gặp phải con bé Mary.
“Bởi vì tôi không tới dự buổi ca kịch của nó.”
“Sẽ là thế nếu cô cứ phải thu xếp đời mình sao cho phù hợp với con bé Mary,” ông ta nói.
Thực đơn cũng khá giống lần trước. Thịt heo cắt lát, khoai tây nghiền, bắp thay vì đậu. Lần này ông ta để tôi giúp việc trong bếp, thậm chí nhờ tôi dọn bàn.
“Cô có thể làm quen với những đồ đạc đâu đó trong nhà. Thế thì dễ hơn cho chúng ta, tôi nghĩ vậy.”
Nói thế tức là tôi có thể ngắm ông ta làm việc quanh cái bếp lò. Sự chăm chú một cách thoải mái, những cử động tiết kiệm, trông đẹp mắt gây cảm giác xen lẫn lạnh lẽo và hưng phấn.
Chúng tôi vừa bắt đầu ăn tối thì có tiếng gõ cửa. Ông đứng lên xoay nắm cửa và con bé Mary lao ào vào.
Con bé mang một hộp các tông đ lên bàn. ném cái áo khoác của mình và hiện ra trong một bộ đồ hóa trang màu đỏ và vàng.

“Chúc mừng ngày Valentine hơi trễ, nói. “Các vị không đến xem tôi trong buổi ca nhạc vì vậy tôi mang buổi ca nhạc lại cho mấy người. Và mang theo một gói quà trong hộp.

Nó giữ được sự cân bằng tuyệt vời đứng trên một chân đá cái hộp đi bằng một chân khác, rồi tiếp tục như thế. Nó hất chúng ra khỏi lối đi của mình và đi vòng quanh bàn, hát bằng một giọng mộc nhưng mạnh mẽ trẻ trung.

“Gọi tôiLy Bơ nhỏ bé,
Ly Bơ nghèo khó,
Dù tôi chẳng bao giờ biết tại sao.
Nhưng tôi vẫn có tênLy Bơ
Con bé Ly Bơ nghèo khóLy Bơ nhỏ bé yêu dấu ơi là tôi - ”

Ông bác sĩ đứng dậy khi con bé bắt đầu hát. Ông đứng gần bếp, đang bận cạo món sườn lợn dính chặt trên chảo rang.

Tôi vỗ tay. Tôi nói, “Trang phục của em tuyệt đẹp.

Mà quả thực thế. Váy đỏ, váy lót vàng sáng, tạp dề trắng rung rinh, vạt áo thêu.

Mẹ em may nó đấy.

Ngay cả mấy đồ thêu?

“Đúng vậy. Mẹ thức suốt đêm đến bốn giờ sáng để may.

Nó đi vòng quanh xoay người qua lại để khoe. Những cái dĩa kêu leng keng trên kệ. Tôi vỗ tay vài lần nữa . Cả hai chúng tôi chỉ muốn một điều. Chúng tôi muốn ông bác sĩ quay người lại và đừng tiếp tục bỏ mặc chúng tôi. Sẽ nói một điều gì, dù là miễn cưỡng, một chữ lịch sự.

nhìn xem có cái khác nữa, Mary nói. “Cho ngày lễ Valentine. mở hộp các tông, những chiếc bánh bích quy Valentine, tất cả được cắt hình trái tim và được trang trí bằng các món trang điểm màu đỏ lạnh băng.

“Lộng lẫy thế, tôi nói, và Mary lại tiếp tục nhảy nhót.

Tôi là thuyền trưởng của Pinafore
Một thuyền trưởng rất tài 
Tôi giỏi lắm mọi người hãy biết
Tôi chỉ huy đoàn thủy thủ tuyệt vời.

Cuối cùng bác sĩ cũng quay lại và con bé đưa tay chào.

Được rồi, ông nói. Thế là đủ.

Con bé lờ đi.

“Thế thì xin vỗ tay ba lần, và một lần nữa

Cho một thuyền trưởng tài ba của Pinafore-”

Tôi đã nói thế là đủ.

Đối với thuyền trưởng dũng cảm của Pinafore-

"Mary. Chúng ta đang ăn bữa tối. Và em không được mời. Embiết điều đó không? Không được mời.”

Con bé cuối cùng cũng im lặng. Nhưng chỉ một lát.

“Quỷ tha ma bắt ông đi. Ông không tử tế chút nào.”

"Và em cũng không cần mấy cái bánh bích quy đó nữa. Em có thể không phải ăn nữa đâu. Em đang bắt đầu mập ú ra như một con lợn nhỏ.”

 Mặt Mary đỏ ửng như sắp khóc nhưng rồi nó nói: “Coi ai đang nói kìa. Mắt ông đảo qua đảo lại.”

“Thôi đủ rồi.”

Vâng, ông đủ rồi.

Ông bác sĩ lấy những chiếc ủng của nó và đặt ngay ngắn trước mặt nó.

“Mang ủng vào.”

Con bé làm theo, chảy nước mắt và nước mũi. Nó khịt mũi liên tục. Ông đưa cho nó chiếc áo khoác của nó mà cũng chẳng giúp gì khi nó run rẩy rụt tay vào và lúng túng tìm mấy cái khuy áo.

“Được rồi. Bây giờ, em tới đây bằng cách nào?


Nó không trả lời.
Đi bộ, phải không? Mẹ của em đâu?”

Euchre.

“Tôi có thể lái xe đưa em về nhà. Như vậy, em sẽ không còn cơ hội để trượt xuống bờ sông tuyết mặc cho mình chết cóng vì nỗi tự thương thân.”

Tôi không nói một lời nào. Mary không hề nhìn tôi. Giây phút ấy quá kinh hoàng để thốt lời tạm biệt.

Khi nghe tiếng xe nổ máy tôi khởi sự dọn dẹp bàn ăn. Chúng tôi không kịp ăn món tráng miệng, cũngmón bánh táo nữa. Có lẽ ông không biết bất kỳ loại bánh nào khác, hoặc có lẽ đó là tất cả những gì mà tiệm bánh làm được.

Tôi chọn một cái bánh bích quy có hình trái tim và ăn. Chất màu trét trên bánh ngọt lạ lùng. Không có mùi dâu tây hay mùi hạnh đào, chỉ đường và chất nhuộm đỏ. Tôi ăn hết cái này đến cái khác.

Tôi biết lẽ ra nên nói lời tạm biệt với Mary. Tôi nên nói cảm ơn. Nhưng thứ ấy chẳng quan trọng gì nữa. Tôi tự nhủ chẳng quan trọng. Câu chuyện không liên quan tới tôi. Hoặc có lẽ chỉ một phần rất nhỏ.

Ông ta thật thô bạo. Điều làm tôi kinh hoàng là ông ta lại thô bạo thế. Một người đang cần mình. Nhưng ông đã hành xử lạ lùng với con bé Mary chỉ vì tôi, hiểu một cách nào đó. Để cho thời gian của chúng tôi không bị lãng phí đi. Ý tưởng này quyến rũ tôi, tôi thấy thật xấu hổ là nó quyến rũ được mình. Tôi không biết phải nói gì khi ông ta trở lại.

Ông không muốn tôi nói nữa. Ông mang tôi vào giường. Tất cả những điều này có phải được tính toán trước hay chỉ là bất ngờ, đối với tôi, đối với ông ta? Sự trinh tiết của tôi ít nhất cũng không bất ngờ - ông ta đưa cho tôi một cái khăn cùng với một cái bao cao su và ông ta kiên nhẫn tiếp tục việc ấy dễ dàng. Sự cuồng nhiệt của tôi làm cho cả hai ngạc nhiên. Sự tưởng tượng, như bạn có thể thấy, cũng là một chuẩn bị tốt đẹp chẳng kém gì kinh nghiệm.

“Anh muốn lấy em làm vợ, ông ta nói thế.

Trước khi đưa tôi về nhà, ông ném tất cả những cái bánh, tất cả những trái tim màu đỏ ra ngoài trời tuyết cho bầy chim mùa đông.

Mọi chuyện ổn thoả. Lễ hứa hôn đột ngột của chúng tôi – ông có phần thận trọng khi dùng chữ ấy– là một chuyện riêng tư. Tôi không viết một chữ nào cho ông bà tôi cả. Lễ cưới sẽ được tổ chức khi nào anh ấy có hai ngày nghỉ liên tục. Một đám cưới đạm bạc, anh bảo. Tôi hiểu ý tưởng ấy về buổi lễ, trước sự hiện diện của những người khác, mà suy nghĩ của họ về anh không mấy tôn trọng,  những người có thể cười nhạo và khuyên nhủ này khác, là những thứ mà anh không sẵn sàng nếm trải.

Anh cũng không mê chuyện nhẫn kim cương. Tôi cũng nói với anh rằng tôi chẳng muốn nhẫn kim cương, đó là sự thật, tôi chưa hề nghĩ tới. Anh nói điều đó càng tốt, vì anh biết rằng tôi không phải thuộc loại con gái ngốc ngếch thông thường.

Chúng tôi ngừng ăn bữa tối với nhau, không phải cuộc nói chuyện nhưng vì không đủ thịt cho hai người với một thẻ khẩu phần thức ăn. Thẻ thức ăn của tôi đã được giao cho nhà bếp – mẹ của Mary - từ khi tôi bắt đầu ăn ở nhà thương.
Tốt hơn cả là không làm cho người ta lưu ý đến mình.

Tất nhiên mọi người nghi ngờ. Những người y tá già trở nên thân thiệnngay cả Matron cũng mỉm cười với tôi một cách đau khổ. Tôi tự chăm sóc mình một cách khiêm tốn, gần như chẳng chú ý. Cũng không hẳn, đối với tôi những người phụ nữ lớn tuổi kia đang nhìn mình dò xét, xem thử sự thân mật sẽ trở thành điều gì và họ sẽ hành xử thích hợp ra sao nếu lỡ ra ông bác sĩ quyết định bỏ rơi tôi.

Chỉ có những người hộ lý đứng về phía tôi tận tình, trêu ghẹo tôi rằng họ nhìn thấy những lá trà trong cốc của tôi giống hình những cái chuông đám cưới.

Tháng ba nghiệt ngã và bận rộn phía sau cánh cửa bệnh viện. Đó là tháng tệ hại nhất với nhiều rắc rối, các hộ lý nói. Vì một lý do nào đó, người ta muốn mang hình ảnh của tháng ấy theo họ, khi chết, sau khi đã trải qua hết những gian nan của mùa đông. Nếu một đứa trẻ không tới lớp học một ngày nọ tôi  không thể biết có phải nó đang gặp một biến cố lớn hay chỉ là cảm lạnh thường. Tôi dùng một bảng đen di chuyển được và viết tên trẻ em quanh các cạnh của nó. Thậm chí bây giờ tôi cũng không cần phải lau đi tên của những đứa trẻ vắng mặt lâu. Những đứa khác làm việc ấy cho tôi, lặng lẽ chẳng nói lời nào. Chúng hiểu những nghi thức mà tôi còn phải học hỏi.

Tuy thế thời gian rảnh rồi cũng đến, để ông bác sĩ dàn xếp đám cưới. Anh nhét một miếng giấy nhỏ dưới cánh cửa phòng tôi, nói là sẵn sàng trong  tuần lễ đầu của tháng tư. Trừ khi có một biến cố lớn, thế nào anh cũng có đôi ngày nghỉ phép.

Chúng tôi tới thành phố Huntsville.

Chúng tôi phải tới nơi ấy để kết hôn.
Chúng tôi bắt đầu một ngày mà tôi chắc rằng mình sẽ nhớ mãi suốt đời.
Tôi mang một chiếc áo nhiễu đã giặt ủi cuộn lại cẩn thận trong chiếc túi. Bà nội tôi đã từng dạy tôi cách cuộn chúng lại thay vì xếp nếp để tránh những vết nhăn. Tôi nghĩ là tôi phải thay đồ trong phòng vệ sinh phụ nữ khi có dịp. Tôi tìm nơi có những bụi hoa dại dọc đường để có thể làm một bó hoa mang theo. Liệu anh ấy có đồng ý để tôi ôm một bó hoa? Nhưng thời tiết quá sớm ngay cả với cúc vạn thọ đầm lầy. Dọc theo những con đường hoang vắng ngoằn ngoèo, những cây vân sam gầy guộc, những đầm lầy và những hòn đảo nhỏ rải rác. Và đột ngột ngang đường lô nhô những tảng đá đã trở nên quen thuộc với tôi – màu của sắt nhuộm đỏ ửng và đá vân nhạt.
Máy thu thanh trên xe chơi những điệu nhạc khải hoàn, vì quân đội đồng minh đang tiến gần, ngày càng gần thành phố Bá Linh. Ông bác sỹ - Alister – bảo rằng họ đang di chuyển chậm lại để cho người Nga vào thành phố trước. Ông bảo, rồi họ sẽ hối hận vì điều này.
Bây giờ khi chúng tôi đã ở xa thị trấn Amundsen tôi nghĩ là tôi có thể gọi ông bằng tên riêng, anh Alister. Đó là một cuộc lái xe dài mà chúng tôi ngồi bên nhau và tôi cảm thấy hứng chí, thậm chí kích thích bởi tính cách thản nhiên có vẻ không đoái hoài gì đến tôi ở anh – điều tôi biết rằng có thể đột ngột biến thành ngược lại – và bởi tài lái xe điệu nghệ của anh. Tôi cảm thấy phấn khởi vì anh là một bác sĩ phẫu thuật dù rằng tôi chưa bao giờ thú nhận thế. Lúc này tôi tin rằng tôi có thể nằm xuống vì anh ở bất cứ một đầm lầy hay lỗ hổng nào, hay cảm thấy xương sống của tôi muốn gãy trên những mặt đường đầy sỏi đá, nếu anh yêu cầu tôi làm thế. Tôi cũng biết tôi nên giữ cảm giác này cho riêng mình thôi.
Tôi nghĩ chuyện khác, nghĩ về tương lai. Khi chúng tôi đến thành phố Huntsville chúng tôi sẽ tìm được một mục sư, sẽ đứng bên nhau trong phòng khách, một nơi có vẻ khiêm tốn dịu dàng như căn hộ của ông bà tôi, một thứ phòng khách mà tôi từng biết trong đời mình. Tôi nhớ lại thời gian khi ông nội tôi được mời ăn đám cưới ngay khi ông đã về hưu. Bà nội tôi tô một chút phấn hồng lên má, mang ra một chiếc áo choàng xanh sẫm, từ nơi bà thường cất kỹ chờ mặc trong dịp trang trọng thế này.
Nhưng tôi phát hiện ra nhiều cách khác nữa để lấy chồng, và những cách khác của chàng rể mà tôi chưa biết được. Anh chẳng muốn dính líu tới mục sư. Ở tòa thị sảnh chúng tôi điền những mẫu đơn, lập lời thề về tình trạng độc thân của mình, và làm hẹn để kết hôn bởi một vị thẩm phán dân sự vào cuối ngày.
Thời gian ăn trưa. Alister dừng lại trước cửa một quán ăn có vẻ bà con với một  tiệm cà phê ở Amundsen.
“Tiệm ăn này được không em?” Nhưng nhìn vào mặt tôi, anh đổi ý.
“Không?” Anh nói. “Được rồi.”
Cuối cùng chúng tôi ăn trưa trong căn phòng phía trước có phần lạnh lẽo của một tiệm ăn có quảng cáo bữa ăn tối với thịt gà. Dĩa thức ăn thì quá lạnh, không có thực khách nào khác, không có âm nhạc trên máy thu thanh, chỉ có tiếng lách cách của dao nĩa của chúng tôi khi hai người bận rộn vất vả cắt thịt gà. Tôi chắc rằng anh đang nghĩ là chúng tôi có thể có một bữa ăn tốt hơn ở nơi mà anh đề nghị trước đó.
Dù sao tôi cũng có can đảm để hỏi phòng vệ sinh đàn bà, và ở đó trong không khí lạnh buốt thậm chí còn hơn cả phòng ăn phía trước, tôi mở chiếc áo đầm xanh ra và mặc vào, tô son môi và sửa lại mái tóc.
Khi tôi bước ra Alister đứng đó mỉm cười chào, bóp chặt bàn tay tôi và bảo, em thật đẹp.
Chúng tôi bước ra xe, người cứng lại, tay trong tay. Anh mở cửa xe cho tôi, đi vòng quanh và ngồi vào ghế, xoay chìa khóa xe một vòng cho nổ máy. Rồi tắt.
Xe hơi đậu trước cửa một tiệm bán đồ khí cụ gia đình. Những cái xẻng xúc tuyết bán giảm giá còn một nửa. Vẫn còn treo một cái bảng trên cửa sổ quảng cáo dịch vụ mài sắc bánh xe trượt băng.
Ở bên kia đường, một căn nhà gỗ sơn vàng. Cầu thang phía trước trở nên ọp ẹp và hai tấm ván gỗ đóng lên cửa tạo thành hình chữ X. Chiếc xe tải đậu phía trước xe của Alister thuộc loại xe trước thế chiến, với một cái chắn ở phía sau đã rỉ sét. Một người đàn ông bước ra từ tiệm đồ gia dụng và bước vào xe tải. Sau vài tiếng rú gầm gừ, tiếng lắc cắc, chiếc xe rung lên từng chặp, rồi cũng chạy đi. Kế đến một chiếc xe tải chở hàng với tên của cửa tiệm chạy lại cố gắng đậu vào chỗ vừa trống. Nhưng chỗ đậu không đủ. Người tài xế bước ra, tới gần và gõ lên cửa của Alister. Alister ngạc nhiên – nếu anh ấy không mải mê trò chuyện thì đã nhận ra sự việc. Anh kéo cửa sổ xuống và người đàn ông kia hỏi rằng liệu chúng tôi có đậu hẳn ở đây không nếu muốn mua một món đồ trong tiệm. Nếu không phải thế, làm ơn dời xe có được không?
“Chúng tôi sắp rời đi.” Alister nói, người đàn ông ngồi bên cạnh tôi nói, người lẽ ra sắp cưới tôi làm vợ bây giờ sẽ không cưới tôi nữa, nói. “Chúng tôi sắp đi.”
Chúng tôi. Anh ta nói chữ chúng tôi. Trong một lúc tôi bị ám ảnh về chữ ấy và rồi tôi nghĩ rằng đó là lần cuối cùng. Lần cuối cùng tôi được đưa vào hai chữ chúng tôi.
Không phải là chữ chúng tôi có vấn đề gì, chữ ấy không phải là sự thật. Mà chính là giọng nói giữa cánh đàn ông với nhau mà anh ta nói với người tài xế kia, lời xin lỗi trầm tĩnh và biết điều. Tôi ước gì có thể quay lại vào phút đầu tiên khi anh ta bắt đầu nói, khi anh ta không nhận ra chiếc xe tải đang tìm cách đậu vào. Điều anh ta nói thật khủng khiếp nhưng hai bàn tay nắm chặt trên vô lăng, cái nắm chặt và ý thức trừu tượng của anh ta và giọng nói của anh đều biểu lộ đau đớn. Không cần biết anh nói gì, có ý gì, anh nói từ một nơi chốn sâu xa, đúng là nơi mà anh đã nói khi chúng tôi nằm bên nhau, làm tình. Nhưng bây giờ thì không phải thế nữa, sau khi anh đã trò chuyện với người tài xế kia. Anh ta kéo cửa sổ lên và tập trung vào chiếc xe hơi, tìm cách đưa nó ra khỏi chỗ đậu khá chật hẹp để tránh khỏi va quẹt vào chếc xe tải kia.
Và chỉ một lát sau tôi đã bắt đầu vui sướng nếu có dịp quay lại lúc anh rướn cổ lên quay đầu nhìn đằng sau. Tốt hơn là đang lái xe – anh đang lái xe bây giờ - chạy xuống dọc đường phố chính của thành phố, vì chẳng còn gì để nói nữa hay để tần ngần xoay xở.
Anh không làm được chuyện ấy, anh ta nói thế.
Anh nói thế, bảo anh không thể cáng đáng nổi chuyện này.
Anh cũng không thể giải thích.
Chẳng qua là nhầm lẫn.
Tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ có thể nhìn lên dòng chữ vòng vèo trên tấm bảng hiệu đề tên mài sắc lưỡi trượt băng, mà không nghe giọng nói của anh ta vang lên trong đầu. Hay những tấm bảng gỗ xù xì đóng đinh bằng chữ X trước cửa nhà màu vàng đối diện với tiệm kia.
“Anh sẽ chở em tới trạm xe buýt bây giờ. Anh sẽ mua vé cho em về Toronto. Anh chắc rằng sẽ có xe lửa chạy về Toronto vào chiều tối nay. Anh sẽ nghĩ ra một câu chuyện rất hợp lý và sẽ nhờ một người nào đó gói ghém đồ đạc cho em. Em cho anh địa chỉ ở Toronto vì anh không giữ. Ồ, anh sẽ viết cho em một cái thư giới thiệu. Em đã làm việc rất tốt. Nhưng em chưa làm xong thời hạn của mình – anh chưa nói cho em nghe nhưng những đứa trẻ sẽ được rời đi. Rất nhiều thay đổi lớn sắp xảy ra.”
Giọng nói của anh trở nên mới mẻ, gần như hoạt bát vui vẻ. Làm như một gánh nặng đã được trút đi. Anh ta cố gắng giữ lại điều ấy không muốn vội vàng để lộ cái thở phào nhẹ nhõm cho đến khi tôi biến mất tăm.
Tôi nhìn xuống đường phố. Một điều gì đó như thể có ai chở tôi đến đoạn đầu đài. Chưa. Chỉ gần đến thôi. Cũng chưa hẳn là lần cuối cùng tôi nghe giọng nói của anh. Chưa.
Anh không cần hỏi đường. Tôi hỏi anh lớn tiếng, liệu có cô gái nào trước đây đã bị anh chở đến xe lửa như thế này chăng.
“Đừng nói thế.” Anh bảo.
Mỗi lần rẽ ngoặt đường là một lần xé rách tươm những mảnh đời còn lại của tôi.
Có xe lửa về Toronto lúc năm giờ chiều. Anh bảo tôi chờ trong xe hơi trong khi tự mình đi vào nhà ga. Anh đi ra với tấm vé trên tay và một vật nhỏ mà tôi nghĩ là nắp hộp quẹt. Anh ta nhận ra điều này vì khi tới gần xe hơi bỗng trở nên lặng lẽ.
“Trời ấm và rất tuyệt ở trong nhà ga. Có một phòng đợi dành cho phụ nữ rất tốt.”
Anh mở cửa xe cho tôi.
“Hay là anh nghĩ anh sẽ chờ cho đến khi em lên xe lửa? Có thể có nơi chúng ta ngồi kiếm một cái bánh ngọt ngon lành. Bữa ăn tối thật là khủng khiếp?”
Câu nói của anh làm tôi tức lên. Tôi bước ra khỏi xe đi thẳng tới nhà ga. Anh đưa tay chỉ phòng đợi của phụ nữ, nhướn mày lên nhìn tôi và cố gắng nói đùa một câu cuối cùng. “Có thể ngày nào đó em sẽ nhận ra rằng đây là một trong những ngày may mắn nhất của cuộc đời mình.” 
Tôi chọn một băng ghế dài trong phòng đợi nhìn ra trước sân ga. Nhờ thế tôi có thể nhìn thấy anh nếu anh trở lại. Anh sẽ nói đây là một chuyện đùa, hay là một phép thử, như trong các vở kịch thời cổ đại.
Hay có thể anh đổi ý. Lái xe dọc theo đường cao tốc nhìn thấy ánh sáng mặt trời mùa xuân xanh xám lướt qua những tảng đá mà chúng tôi đã cùng ngồi bên nhau nhìn chúng. Sực tỉnh vì nhận ra sự điên rồ của mình anh vòng xe lại ngay trên đường và lao vun vút trở lại nhà ga.
Một giờ trôi qua trước khi xe lửa Toronto tới trạm, nhưng hình như thời gian thật ngắn. Và ngay cả lúc ấy những giấc mộng hoang đường vẫn cứ lướt qua tâm trí tôi. Tôi bước lên xe mà như gông xiềng kêu lẻng xẻng trên cổ chân. Tôi áp mặt vào cửa sổ nhìn xuống mặt đường khi còi tàu vang lên từng chặp chuẩn bị rời đi. Ngay cả bây giờ cũng không quá trễ nếu tôi muốn nhảy khỏi đoàn xe. Nhảy đại và chạy xuyên qua nhà ga tới đường nơi anh có thể đang đậu xe lại và chạy ngược lên các bậc tam cấp, thầm nghĩ không quá trễ, trời ơi, cầu xin không quá trễ.
Tôi cũng chạy về phía anh ta, cũng không quá trễ.
Và rồi sự chấn động sự la hét ầm ĩ, không phải một người mà cả một đám người chạy lăng xăng giữa những hàng ghế. Những nữ sinh trung học, mặc áo quần thể thao, cười rú lên trước sự hoảng loạn. Người tài xế xe lửa tỏ vẻ bực mình và hối chúng ngồi vào chỗ.
Một trong những đứa ấy, có lẽ to tiếng nhất, chính là Mary.
Tôi quay đầu đi và không nhìn chúng.
Nhưng nó chẳng tha, kêu tên tôi rõ to và hỏi cô giáo đi đâu mất biệt thời gian qua.
Đi thăm một người bạn, tôi bảo nó.
Mary nhào tới bên tôi kể chúng vừa đấu bóng rổ với đội bóng của Hunstville. Hỗn loạn ghê lắm. Chúng bị thua.
"Tụi mình thua, phải không?" nó la lớn, rõ ràng là vui vẻ, trong khi những đứa khác rên rỉ hoặc cười khúc khích. Nó bảo tỉ số quá sức đáng xấu hổ.
"Cô giáo mặc đồ diện quá," nó nhận xét nhưng thực ra không chú ý lắm, lắng nghe lời giải thích của tôi với vẻ hững hờ.
Nó cũng không để tâm khi tôi nói mình đi về Toronto để thăm ông bà. Ngoại trừ nhận xét rằng chắc họ phải già lắm rồi. Không một chữ nào về Alister. Ngay cả một lời tồi tệ. Chắc nó không quên. Chỉ là dọn dẹp, thu cất, trong ngăn tủ của một cái tôi khác trong quá khứ. Hoặc con bé không mấy để tâm những tổn thương kiểu này.
Tôi thầm cảm ơn nó, ngay cả khi tôi chưa thể làm được thế. Tất cả mọi thứ dồn vào tôi, giờ tôi biết phải làm gì khi tới Amundsen? Nhảy khỏi đoàn tàu, xông tới nhà anh ta và hỏi cho ra lẽ, tại sao, tại sao. Thật là nỗi xấu hổ suốt đời. Khi đến ga, thời gian tàu dừng chỉ vừa đủ để cả đội bóng tập hợp, đập tay ầm ĩ lên cửa sổ ra dấu cho người nhà đến đón, trong khi người soát vé không ngừng nhắc nếu chúng không mau mau ra khỏi tàu thì sẽ bị chở thẳng tới Toronto.  
Nhiều năm tôi vẫn nghĩ có ngày tôi bỗng dưng chạm mặt anh ta. Tôi đã về sống và đến nay vẫn sống ở Toronto. Đối với tôi hình như người nào cũng có lúc về ở Toronto một thời gian. Tất nhiên điều đó cũng không có nghĩa là bạn sẽ gặp lại người ấy, ngay cả khi bạn muốn thế.
Rồi cuối cùng dịp ấy cũng đến. Băng qua một con đường đông đúc nơi bạn không thể nào bước chậm lại. Đi ngược chiều nhau. Nhìn sững, đầy kinh ngạc, gương mặt đã sạm nắng gió, đã lấm tấm màu thời gian của nhau.
Anh ta la lớn, em có khỏe không? Và tôi trả lời tốt lắm. Và thêm, với vẻ tự hào, “Rất hạnh phúc”
Vào lúc ấy điều đó chỉ đúng chung chung mà thôi, chứ thực ra tôi đang có chuyện bực mình với chồng tôi, vì chuyện phải trả nợ nần cho một trong những đứa con của anh ấy. Tôi đã đến một chương trình biểu diễn ở bảo tàng mỹ thuật chiều hôm ấy, để lấy lại thanh thản.
Anh ta gọi lại một lần nữa:
“Mừng cho em.”
Dường như chúng tôi vẫn có thể bằng cách nào đó dứt khỏi đám đông, và trong một thoáng, bỗng trở lại bên nhau như những tình nhân cũ. Nhưng cũng chắc chắn không kém là chúng tôi mỗi người sẽ đi một đường. Và chúng tôi làm thế thật. Không một than khóc nghẹn ngào, không một bàn tay đặt trên vai níu tôi lại khi tôi đặt chân lên vỉa hè. Chỉ là một chớp sáng mà tôi thấy trong giây phút ngắn ngủi, khi một mắt của anh mở lớn. Đó là con mắt trái, lúc nào cũng mắt trái, như tôi hằng nhớ lại. Và lúc nào cũng lạ lùng, cảnh giác, tự hỏi, như thể một điều gì không thể nào xảy ra đang xảy ra với anh, một điều gì khiến anh gần như phá lên cười.
Đối với tôi dường như chuyện ấy cũng xảy ra lúc tôi rời bỏ Amundsen ngày nọ, chuyến xe lửa kéo tôi ra khỏi nơi ấy, bàng hoàng, ngơ ngác, không tin được câu chuyện của đời mình.
Thực ra chẳng có gì thay đổi, bạn biết không, bản chất tình yêu của chúng ta. 


------------------------------------ 
Chú thích:
(*) tên một nhà thám hiểm nổi tiếng người Na Uy, Roald Amundsen. Ở Canada, là tên của các địa danh. Ví dụ phía bắc Toronto có một thị trấn nhỏ có tên như vậy.
(1) San, cách gọi tắt của sanatorium, trại điều dưỡng, ngày trước thường là trại cách ly cho bệnh nhân lao.
(2) chơi chữ, tan your hide. Có sự đồng âm giữa họ cô giáo Hyde và chữ hide trong câu này.