Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017
Trần Từ Mai: THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”
Bài thơ này sau được in lại trong tập Chúng ta mất hết chỉ còn nhau
(Paris : Rừng Trúc, 1974).
Để
giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa”
thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí
Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một
cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn
Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
Sau
đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện
ấy giữa tháng 12-2016:
Năm
2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những
bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới
nhận thấy.”
Chúng
tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm
hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên
Diễn Đàn Thế Kỷgiữa tháng 1-2013:
và
trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
Hôm
nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với
chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.
Trước
hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của
Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:
Đọc
lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định
hà biên cốt
Do thị xuân khuê
mộng lý nhân
Trần
Đào
Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu
Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Vũ Hoàng Chương
(1976)
Ý
nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây
là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du
trong Truyện Kiều:
Ngẫm từ dấy việc
binh đao
Đống xương Vô Định
đã cao bằng đầu.
Đó
là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời
Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
隴西行
誓掃匈奴不顧身
五千貂錦喪胡塵
可憐無定河邊骨
猶是深閨夢裡人
LŨNG TÂY HÀNH
Thệ tảo Hung nô bất cố thân
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn
ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:
Thề quét sạch giặc
Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ
mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống
xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người
trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.
Đây
là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ
lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ,
người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp
với hình bóng “chàng.”
“Lũng
Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh
Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm
Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ
mình khi đi đánh Hung Nô.
Bài
thơ có thể tạm dịch như sau:
Một nguyệnquên
thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác
đất Hung nô.
Thương ơi, xương
trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai
giữa giấc mơ.
hay:
Quét Hung nô, mạng
chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn
vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống
xương khô
Đêm đêm vẫn dệt
giấc mơ khuê phòng.
Bài
“Đọc lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu
cuối của bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng
Chương.
Mười
câu đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm
chàng vẫn trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc.Hàng ngày, hàng tháng, rồi
hàng năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô
trắng ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với
nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét
sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:
Là Nam Bắc, là âm
dương
Lệ hay máu rỏ con
đường nào đây.
Con
đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con
đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết).Chúng
ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu
và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’
(sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao
nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam,say sưa với khẩu hiệu
“tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.”Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh
niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn
sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường
mòn Hồ Chí Minh.”
Trước
ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước
cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng
hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội
cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:
Bao nhiêu chàng
trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái
đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy
miền dân
Cớ sao còn chửa
kéo quân vơ về?
Trong
trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở
hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều
không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi
ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về,
ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời
trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền
dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”
Ông
phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình
chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với
mình một cách hăng say:
Riêng ai tóc mới
buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc
đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá
tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc
qua từng cửa ô.
Vì
kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được.
Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi,
hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến
Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):
Nghé kêu, Rồng quẫy
hai đô
Sỏi khan rồi, đá
cũng khô tâm tình.
Vậy
cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc
chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào.
Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:
Sỏi khan rồi, đá
cũng khô tâm tình.
Khi
chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài
(thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:
Được thua mình chỉ
với mình
Hình thua, bóng
được, cô mình buồn, vui?
Bài
thơ này được in trong tập Tân Thi
(Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.
Đầu
năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuân bài thơ khai bút như sau:
Trường chinh mộng
hậu tức phong yên
Thiên lý long
câu, vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền
thân: nhất yển thử
Ẩm hà mãn phúc,
túy xuân thiên.
(Sau giấc mộng
trường chinh, gió và khói đã tắt
Một con “thiên lý
long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền
tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt nhận ra tiền
thân của mình: vốn là một con chuột
Uống nước sông đầy
một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ
Hoàng Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ
là công cụ cho người ta ngồi lên vàsử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo
quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ
khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên,
lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả
là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi
khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền
thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng)
trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản
tiếng Việt của ông như sau:
Giấc mộng trường
chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra, ngựa đấy
với thuyền đây
nhìn nhau: Chuột
nhỏ tung tăng dạo
vừa uống sông
xuân một bụng đầy.
Tóm
lại, sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của
cuộc chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này
không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
Giật mình đợt
súng xa đưa
Niềm quê hương chẳng
gió mưa cũng buồn.
Hay
của Đông Hồ trong những câu:
Giao thừa đâu nữa
trầm phun xạ ?
Nguyên đán về đây
gió vẫn tanh !
Tóm
lại, đó là nỗi buồn vì chiến tranhmột cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ
của Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày
30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều
ấy thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc
Lân,” chúng ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng,
không “hồ hởi” chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm
quyền miền Bắc. Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao
nhiêu đau thương cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam
của những người cầm quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để
dụ dỗ và thúc đẩy thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt
đổ xuống là con đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí
Minh. Nói cách khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ
tương tàn trước năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy
“đọc kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế
sau khi từ nhà giam Chí Hòa vềcuối tháng 8-1976, thi sĩVũ Hoàng Chương không
dám để bài thơ này(cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ
bị khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương
Trang đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất
giữ. Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và
nhà thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến
2012 mới cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương
Trang đã không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý
nghĩa chứng nhân trong một giai đoạn lịch sửquan trọng khiến chúng không bị mai
một.
Trần
Từ Mai