Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017
Trần Hữu Thục: VỀ HAI TÁC PHẨM ĐỘC ĐÁO CỦA GEORGE ORWELL: ANIMAL FARM VÀ NINETEEN EIGHTY-FOUR (Tiếp theo và hết)
Nineteen Eighty-Four (1984) là một truyện dài như bất cứ một tiểu thuyết nào khác. Nhưng ngoài câu chuyện chính ra, nó có thêm hai phần khác bổ sung: một là cuốn sách có tựa đề là “The Theory and Pratice of Oligarchical Collectivism” được xem là của Emmanuel Goldstein, thủ lãnh của Brotherhood là tổ chức bí mật chống lại Đảng và nhà nước. Cuốn sách lý giải tình hình thế giới, quan niệm về chiến tranh và chính sách thống trị nhân dân của Đảng; hai là phần phụ lục gọi là “The principles of Newspeak”, giải thích cách sử dụng từ ngữ mới nằm trong cuốn tự điển do Đảng biên soạn.
Truyện mô tả một thế giới bị chi phối bởi ba siêu cường
quốc: Eurasia, Eastasia và Oceania. Oceania luôn luôn sống trong tình trạng chiến
tranh với hai siêu cường kia, đẩy toàn thế giới ở trong một tình trạng thù hận,
cô lập và sợ hãi. Nhân vật chính là Winston Smith, 39 tuổi, một nhân viên làm
việc cho Bộ Sự Thật, trú sở tại London, thuộc siêu cường Oceania. Xứ sở được
cai trị bởi Đảng và nhà lãnh tụ nắm giữ quyền hành tuyệt đối có tên là Big
Brother, mà khuôn mặt của ông ta hiện diện khắp nơi trên các tấm pa-nô tuyên
truyền lớn với dòng chữ “Big Brother Is Watching You” (Big Brother đang theo
dõi bạn). Điều đó nhắc nhở mọi người rằng bất cứ những việc anh làm, dù khi ngủ
hay thức, khi ăn hay làm việc, ở trong nhà anh hay ở bên ngoài, trong phòng tắm
hay trên giường ngủ…, Đảng luôn luôn theo dõi anh. “Không có gì là phần
riêng tư của anh ngoại trừ một ít phân khối nằm bên trong cái sọ của anh.”[10]
Nhà độc tài kiểm soát đất nước bằng bốn bộ: Hoà Bình,
Tình Yêu, Thịnh Vượng và Sự Thật. Chức năng của bốn bộ này là một nghịch lý: Bộ
Hoà Bình thì đảm nhiệm chiến tranh, Bộ Tình Yêu thì phụ trách chuyện hành hạ, Bộ
Thịnh Vượng thì chuyên lo về bỏ đói và Bộ Sự Thật thì đảm trách chuyện nói láo.
Tất cả những gì lưu trữ trong Bộ Sự Thật, nơi Winston làm việc, đều không mảy
may liên hệ gì đến thực tại bên ngoài. Chúng được hoàn toàn dựng nên bởi Đảng,
nghĩa là bằng sự dối trá. Vì không còn tài liệu nào khác ngoài chúng nên chúng
nghiễm nhiên đi vào lịch sử và trở thành sự thật. Bộ Sự Thật không những chỉ lo
thay đổi hiện tại mà còn tiêu hủy cả quá khứ. Ai kiểm soát được quá khứ, sẽ kiểm
soát được tương lai: ai kiểm soát được hiện tại sẽ kiểm soát quá khứ. Đó là khẩu
hiệu của Đảng.
Hãy nghe Winston giải thích điều này với Julia, người yêu
của anh: “Em có biết rằng quá khứ, mới bắt đầu từ hôm qua thôi, là đã bị
tiêu hủy rồi không? Nếu nó có còn tồn tại một nơi nào đó thì chỉ là một vài đồ
vật mà chẳng có ghi lại chữ nghĩa gì cả, giống như mảnh thủy tinh vỡ nằm kia
kìa. Chúng ta nào có biết gì về Cách Mạng và những năm trước Cách Mạng đâu. Mỗi
một hồ sơ đã bị tiêu hủy hoặc thay đổi, mỗi một cuốn sách đều được viết lại, mỗi
một hình ảnh đều được vẽ lại, mỗi một bức tượng và đường phố và lâu đài đều được
đặt tên lại, mỗi một ngày tháng đều được sửa đổi. Tiến trình đó cứ diễn ra liên
tục ngày này qua ngày khác, phút này qua phút khác. Lịch sử đã ngừng lại. Không
có gì hiện hữu ngoài một hiện tại không ngừng nghỉ qua đó Đảng luôn luôn đúng.”[11]
Bộ Thịnh Vượng cũng thế, chuyên môn công bố những bản thống
kê hoang đường. Lúc nào trong báo cáo, đại khái cũng đều một kiểu: so sánh với
năm trước, thì đất nước luôn luôn sản xuất được nhiều thực phẩm hơn, nhiều áo
quần hơn, nhiều nhà cửa hơn, nhiều đồ dùng hơn, nhiều tàu thủy, tàu bay, nhiều
sách vở hơn, vân vân. Nghĩa là từng năm, từng tháng thậm chí từng phút, mọi người
và mọi vật đều gia tăng, trong lúc đời sống thực sự thì giảm xuống.
Đảng lo tất cả mọi nhu cầu hàng ngày của cuộc sống cá
nhân, từ ăn, mặc cho đến các sinh hoạt khác đồng thời theo dõi sát từng cử chỉ
và tư tưởng của mỗi một cá nhân bằng những màn ảnh viễn vọng, những máy ghi âm
giấu kín và gián điệp ở khắp mọi nơi. Cảnh sát Tư tưởng, bộ phận bí mật của Big
Brother, có nhiệm vụ phát hiện bất kỳ một âm mưu nổi loạn chống nhà nước nào.
Winston không chịu đựng được không khí ngột ngạt đó, nuôi ý đồ chống lại Big
Brother. Anh bí mật mua một cuốn sổ nhật ký, thứ sản phẩm cũ xưa từ cả 40 năm
trước còn sót lại và ghi chép chuyện này chuyện nọ nhằm lưu giữ những gì đang xảy
ra cùng ghi lại những màn độc thoại nội tâm liên tục diễn ra trong đầu óc anh
năm này qua năm khác. Câu đầu tiên anh ghi vào đó là “Hạ bệ Big Brother”. Anh
âm thầm tìm hiểu và ghi lại các bí mật của xã hội, nhất là thời kỳ trước cách mạng
mà Đảng tìm cách xóa bỏ cũng như những biến cố và người vào thời tuổi trẻ của
anh.
Anh còn nhớ một tai nạn khi gia đình đang rất đói. Lúc đó
cả nhà chỉ còn một mẩu sô cô la nhỏ được mẹ đem chia cho anh và đứa em gái đang
hấp hối. Đói quá, anh ăn phần của anh và giựt luôn mẩu sô cô la từ em anh. Cô
bé khóc. Người mẹ ôm cô trong tay và cố dỗ dành. Winston thấy hành vi đó, tuy
chẳng có hiệu quả gì, nhưng đầy tình nhân ái. “Nó vô ích, nó không thay đổi
được gì hết, nó không sản xuất ra thêm sô cô la, nó không làm cho cô bé khỏi chết;
nhưng dường như bà làm thế là vì phải làm như thế.” Hành vi đó khiến
Winston nhớ lại cảnh trong một phim chiến tranh: một bà mẹ ôm đứa con trong
lòng cố che cho nó khỏi bị trúng đạn dù biết rằng đó là một chuyện vô ích. Hai
hành vi này, với Winston, chúng chẳng có giá trị chính trị nào cả, nhưng cho
anh manh mối của lòng nhân ái. Anh biết rằng không bao giờ một hành vi vô ích sẽ
trở thành vô nghĩa. “Nếu bạn yêu một ai đó, là vì bạn yêu người đó, và
khi bạn không còn gì hết để cho, bạn vẫn cứ còn yêu người đó.”
Quan điểm anh được vài người chia sẻ, trong đó có Julia,
người yêu vụng trộm của anh, ông Charrington, người bán cho anh cuốn nhật ký và
O’Brien, người làm cùng sở với anh. Họ gặp nhau và thảo luận về việc gia nhập tổ
chức bí mật “Brotherhood” có mục đích lật đổ nhà độc tài. O’Brien cho Winston
biết anh ta là người của nhóm bí mật và tuyển anh và Julia vào nhóm. Để củng cố
thêm lập trường chống Đảng, O’Brien cho Winston mượn cuốn sách “The Theory and
Pratice of Oligarchical Collectivism” gọi là của thủ lãnh “Brotherhood” tên là
Emmanuel Goldstein. Winston say sưa đọc và hiểu được nhiều điều sâu xa hơn
trong đường lối thống trị thâm độc của Đảng.
Nhưng hóa ra, Charrington là một cảnh sát tư tưởng còn
O’brien là thành viên cao cấp của Đảng. Và cuốn sách mà anh ta cho Winston mượn
cũng là do Đảng viết ra nhằm dụ những kẻ chống đối Đảng như Winston xuất đầu lộ
diện. Winston và Julia bị bắt. Cả hai trải qua một quá trình tẩy não. Lúc đầu
Winston tỏ ra kiên cường, không chịu khuất phục. Nhưng dần dà, do tra tấn, anh
đành chịu thua, phản bội cả người tình và tất nhiên, phản bội cả lý tưởng của
anh. Khi được tạm thả sau khi bị tẩy não, anh chạy đi tìm Julia. Nàng thú nhận
rằng nàng cũng đã phản bội anh. Anh cảm thấy không còn ham muốn nàng nữa và
thay vì ở với nàng, anh đi kiếm một chỗ trong quán cà phê. Lúc đó, màn ảnh viễn
vọng loan báo tin về chiến thắng cuối cùng của Big Brother trong cuộc chiến
tranh. Anh khóc lên vì sung sướng: Đảng đã hoàn toàn kiểm soát được anh. Cuối
cùng “Anh đã yêu Big Brother” (He Loved Big Brother).
Câu chuyện của Nineteen Eighty-Four tương
đối giản dị, ít biến cố và không đầy kịch tính như trong Animal Farm.
Nhưng trong lúc Animal Farm chỉ mô tả lại những gì vốn đã diễn
ra trong thực tế bằng cách dựng lại một khung cảnh khác, Nineteen
Eighty-Four đẩy cuộc cách mạng và nhà nước độc tài tiến xa hơn, đi sâu
vào bản chất của sự toàn trị, bản chất con người và đặc biệt ảnh hưởng của ngôn
ngữ và ý niệm chính trị lên cuộc sống cá nhân. Orwell đã sáng tạo ra nhiều từ mới,
mà một số đã trở thành ngôn ngữ chính thức được ghi vào tự điển Anh như: Big
Brother, Hate Week, Thought Police, doublethink…
Một trong những phương cách thống trị quần chúng của Đảng
là sáng tạo ra một hệ thống ngôn ngữ mới gọi là “Newspeak” và bắt buộc tất cả mọi
người đều phải sử dụng. Newspeak thay thế Oldspeak là thứ ngôn ngữ chúng ta
đang sử dụng, có mục đích không chỉ là cung cấp từ ngữ để diễn đạt cái nhìn về
thế giới mà đồng thời cũng để loại bỏ những thứ ngôn ngữ không thích hợp. Mỗi một
từ chỉ cho một nghĩa chính xác duy nhất mà Đảng muốn diễn tả và không còn nghĩa
nào khác. Rất nhiều từ sẽ không còn hiện hữu như tự do, dân chủ, công bằng,
tôn giáo, danh dự, vân vân… Mục đích của việc tạo ra thứ chữ mới là giới hạn
“tầm tư tưởng” (range of thought) của con người và đồng thời nhằm mục đích xóa
bỏ tất cả ký ức về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Nghĩa là tiêu hủy quá khứ.
Nhân vật Syme, nhà ngôn ngữ học phụ trách biên soạn bộ tự
điển Newspeak, giải thích với Winston về công việc của anh ta: “Tôi dám quả
quyết rằng anh tưởng công việc chính của chúng ta là tạo ra chữ mới. Không phải
đâu. Chúng ta đang phá hủy chữ, hàng chục chữ, có thể đến hàng trăm chữ mỗi
ngày. Chúng ta giảm thiểu ngôn ngữ đến mức tận cùng.” Bằng phương pháp đó,
theo Syme, Newspeak là “ngôn ngữ duy nhất trên thế giới mà số từ vựng mỗi
năm một ít đi.” Vì sao lại như vậy? “Anh không thấy rằng toàn thể mục
đích của Newspeak là thu hẹp tầm tư tưởng đó sao? Cuối cùng, chúng ta sẽ khiến
cho người ta không còn có thể phạm tội tư tưởng được nữa, bởi vì người ta chẳng
còn chữ để diễn tả chúng. Mỗi một ý niệm, nếu còn cần thiết, sẽ chỉ được diễn tả
bởi một từ với cái nghĩa được xác định chặt chẽ của nó, còn tất cả nghĩa phụ đều
bị loại bỏ và đi vào quên lãng,”[12] Syme giải thích với Winston. Đến một
lúc nào đó, không còn tư tưởng nữa như ta hiểu ngày nay. Lúc đó, người ta không
suy nghĩ, không cần phải suy nghĩ nữa.
Quy luật của Đảng là giữ tất cả vào trong một lý tưởng
chung. Đảng viên không có quyền phạm một sai lệch nào, dù nhỏ nhặt nhất. Tất cả
mọi biến cố, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải diễn ra theo cách mà Đảng
muốn. Do đó, phải sắp xếp lại quá khứ, hay nếu cần, xóa sạch quá khứ. Đó là
cách mà Đảng khống chế hiện thực (reality control). Trong Newspeak, từ ngữ để
chỉ ý niệm này là doublethink. Doublethink có
nghĩa là năng lực giữ hai niềm tin mâu thuẫn nhau trong tinh thần của một ai đó
đồng thời và thừa nhận cả hai. “Biết hoặc là không biết, ý thức rõ sự thật
hoàn toàn trong lúc vẫn nói những điều bịa đặt một cách cẩn thận, giữ đồng thời
hai ý kiến trái ngược hẳn nhau, biết chúng là mâu thuẫn và vẫn tin tưởng ở cả
hai, dùng luận lý để chống luận lý, khước từ luân lý trong lúc vẫn đòi hỏi nó,
tin tưởng rằng chế độ dân chủ là bất khả thực hiện đồng thời tin rằng Đảng là
người canh giữ chế độ dân chủ, quên đi bất cứ cái gì cần quên rồi kéo nó trở lại
ký ức ngay khi cần để rồi lại quên ngay nó đi.“[13]
Từ khái niệm căn bản đó, Newspeak khai sinh ra một số từ
mới khác như:
- unperson: một người bị xóa hoàn toàn ra khỏi
lịch sử, nghĩa là không còn hiện hữu nữa vì tất cả hồ sơ cá nhân bị tiêu hủy.
Đó chính là trường hợp của cha mẹ của Winston và của nhà ngôn ngữ học Syme, người
đảm nhận công tác biên soạn bộ từ điển Newspeak. Một ngày nọ, anh ta biến mất,
không để lại dấu vết gì đúng theo tiên đoán của Winston vì anh cho rằng Syme
thông minh quá mà Đảng lại không hề ưa những kẻ thông minh! Đảng chỉ dùng cái
thông minh của anh ta để hoàn tất bộ từ điển. Xong rồi, Đảng không cần nữa nên
trừ khử anh ta. Syme chết mà không một ai hỏi han, thắc mắc. Một buổi sáng nọ,
Winston tới sở làm, nhìn lên bảng danh sách ghi tên nhân viên. Bảng danh sách
trông chẳng khác chi mọi ngày, không có dấu xóa, chỉ thiếu đi một tên: Syme đã
ngừng hiện hữu. Anh ta không bao giờ hiện hữu. Một unperson!
- duckspeak: nói mà không suy nghĩ; nói như
con vịt kêu quạc quạc; nói như vẹt. Đây là chữ, theo Syme, có hai nghĩa trái
nhau. Áp dụng cho người chống đối thì có nghĩa là lạm dụng; áp dụng cho ai đồng
ý thì có nghĩa là ca ngợi. Con người chỉ như một cái máy nói. Ở trong Bộ Sự Thật
mà Winston làm việc, khi một vài trong số bạn đồng nghiệp của anh lên phát biểu
một điều gì đó, anh nhìn thấy đó chỉ là cái khuôn mặt vô hồn với chiếc hàm chuyển
động lên xuống nhanh chóng. Anh có cảm giác rằng “đó không phải là một con
người thật sự mà là một loại đồ giả. Đó không phải là bộ óc con người đang nói
mà là sự phát âm của một cái thanh quản. Những gì phát ra khỏi anh ta gồm có những
từ ngữ, nhưng không phải là sự phát biểu theo nghĩa thực sự của nó: đó là tiếng
động thốt ra trong trạng thái vô thức, y như tiếng kêu quạc quạc của con vịt.”[14]
- blackwhite: cũng có nghĩa đôi. Nếu áp dụng
cho kẻ thù thì có nghĩa là nói sai sự thật. Nhưng nếu áp dụng cho đảng viên thì
có nghĩa là khả năng thừa nhận bất cứ cái gì Đảng nói với anh. “Tự ý nói đen
là trắng khi kỷ luật Đảng đòi hỏi như thế. Nó cũng có nghĩa là khả năng tin rằng
đen là trắng và hơn thế nữa, biết rằng đen là trắng, và quên đi rằng người ta
đã từng có lần tin ở cái ngược lại (nghĩa là đen là đen trắng là trắng). Điều
này đòi hỏi phải có một sự thay đổi quá khứ liên tục, khiến cho hệ thống tư tưởng
thực sự chấp nhận tất cả cái còn lại.”[15]
Với biện pháp này, Đảng có thể bác bỏ hay chấp nhận bất cứ
hiện thực nào hay lối lý luận nào mà Đảng thấy có lợi cho mình. Nói khác đi,
nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng xong. Hôm nay Đảng gọi cái này là con bò,
nhưng ngày mai Đảng có thể gọi nó là con ngựa hay bất cứ một con gì khác cũng
không sao. Tóm lại, Đảng phá vỡ tính nhất quán của ngôn ngữ và tư tưởng, tiến đến
phá vỡ luôn sự suy tưởng. Nghịch lý và phi lý trở thành ý thức hệ của nhà cầm
quyền. Đó là phương pháp mà người phụ trách tẩy não của Đảng là O’Brien thực hiện
để thay đổi bản chất con người Winston.
Trong phòng tra tấn, O’Brien vừa tra tấn để khủng bố tinh
thần Winston vừa giải thích với Winston trong quá trình tẩy não. Đề cập đến bản
chất của hiện thực bên ngoài, O’Brien giải thích: “Chỉ có một đầu óc có kỷ
luật mới có thể nhìn thấy thực tại, Winston à. Anh tưởng rằng thực tại là một
cái gì khách quan, nằm ở bên ngoài, tự nó hiện hữu. Anh cũng tưởng rằng bản chất
của thực tại là hiển nhiên. Khi anh tự đánh lừa mình rằng anh thấy một điều gì
đó, anh cũng tưởng rằng mọi người đều cùng thấy một điều như anh. Nhưng Winston
này, nói cho mà biết, thực tại không nằm ở bên ngoài đâu. Nó nằm trong tinh thần
con người, chứ chẳng ở đâu cả. Nhưng không phải ở trong tinh thần cá nhân đâu
vì cá nhân thì có thể sai lầm và sớm biến mất: chỉ có trong tinh thần của Đảng,
đó là tinh thần tập thể và bất tử. Bất cứ cái gì mà Đảng xem là chân lý thì đó
là chân lý.”[16]
Bằng cách kết hợp thuyết phục và tra tấn, O’Brien chứng
minh cho Winston thấy rằng người ta có thể từ chỗ chỉ chấp nhận con số “bốn” đến
chỗ chấp nhận con số “năm” một cách tự nguyện. Trói chặt Winston vào giường và
gắn với một máy quay điện, O’Brien đưa bốn ngón tay và hỏi Winston có bao nhiều
ngón? Winston trả lời là “bốn”. O’Brien bảo là “năm”. Winston không chấp nhận.
O’Brien tăng diện áp bằng cách kéo cái cần máy tra điện để làm cho toàn thân
Winston đau đớn hơn rồi hỏi tiếp: bốn ngón hay năm ngón? Đau quá không chịu nỗi,
Winston phải nói bừa là “năm”. Nhưng chưa xong. Vì thực sự, O’Brien biết là
trong thâm tâm, Winston vẫn cho là “bốn”. Khi Winston hỏi là làm sao có thể nói
khác đi với điều hiển nhiên trước mắt, hai với hai là bốn (2 + 2 = 4), O’Brien
trả lời: “Khi thì chúng là bốn. Khi thì chúng là năm. Khi thì chúng là ba.” Tóm
lại, theo O’Brien, thực tại bên ngoài là không cần thiết, tùy chúng ta muốn cho
là bao nhiêu thì là bấy nhiêu.
Cứ thế, Winston dần dần bị khuất phục. Cuối cùng, khi
O’Brien đưa ra bốn ngón tay lên nói: “Đó là năm ngón tay. Anh có thấy năm
ngón không?” Winston trả lời là năm. Và trong một khoảnh khắc nào đó trước khi
trạng thái tinh thần anh thay đổi, anh đã thấy rõ chúng. Anh thấy năm ngón tay,
không chút gì sai khác.” Không những thế, anh còn có thể thấy chúng là ba
ngón, cũng dễ dàng như thấy năm ngón vậy, nếu cần.
Thế là Winston đã bị (hay được) tẩy não. Anh trở thành một
con người khác. Rốt cuộc, anh yêu Big Brother, người mà trước đây, anh kịch liệt
chống đối. Đó là mục đích cuối cùng mà Đảng, qua O’Brien, muốn. Đàng nào, Đảng
cũng sẽ giết Winston, nhưng chỉ giết khi đã chuyển đổi tư tưởng của anh ta. Đảng
không muốn anh ta chết như một kẻ tuẫn giáo, mà là chết như một người đã nhìn
ra chân lý mà Đảng áp đặt. O’Brien giải thích cho Winston mục tiêu của tẩy não
“Cuối cùng nếu anh đầu hàng chúng tôi thì chính là xuất phát từ ý chí tự do
của riêng anh. Chúng tôi không giết một kẻ phạm tội bởi vì hắn chống chúng tôi;
chừng nào hắn còn chống chúng tôi thì chúng tôi không bao giờ giết hắn. Chúng
tôi tìm cách chuyển đổi hắn, chúng tôi tìm cách nắm bắt nội tâm của hắn, chúng
tôi nặn lại hắn… Ngay cả trong khi hắn chết chúng tôi không thể cho phép bất cứ
một lệch lạc nào”. “Quan trọng nhất là, chúng tôi không cho phép những người chết
nổi lên chống lại chúng tôi. Đừng có ảo tưởng rằng hậu thế sẽ minh oan cho anh,
Winston. Hậu thế sẽ chẳng bao giờ nghe đến tên anh. Anh sẽ bị xóa sạch ra khỏi
dòng lịch sử.”[17]
Vậy mục tiêu của Đảng là gì? O’Brien giải thích cho
Winston: “Đảng tìm quyền hành hoàn toàn chỉ vì chính mình. Chúng ta không cần
phải quan tâm đến phúc lợi của người khác, chúng ta chỉ quan tâm đến chuyện nắm
quyền. Không cần giàu sang hay xa hoa hay trường thọ hay hạnh phúc gì cả: chỉ
có quyền hành, quyền hành thuần túy” […] Những đảng viên Đức
Quốc Xã và những người Cộng sản Nga rất gần gũi với chúng ta trong phương pháp,
nhưng họ không bao giờ can đảm thừa nhận những động cơ riêng của họ […] Đối
tượng của khủng bố là khủng bố. Đối tượng của hành hạ là hành hạ. Đối tượng của
quyền hành là quyền hành.“[18]
***
Qua hai kiệt tác nói trên, có thể nói Orwell là một nhà
văn đại chống Cộng, thậm chí chống Cộng cực đoan. Chính vì thế mà về phương diện
văn chương, một số nhà phê bình, như D. S. Salvage chẳng hạn, cho rằng Orwell
không bao giờ có thể được sắp xếp vào hàng ngũ những nhà văn hàng đầu trên thế
giới vì quan điểm chính trị của ông đã tước mất đi “tính chính trực của người
nghệ sĩ thuần túy.” Irving Howe, một nhà phê bình văn chương khác, cũng cho rằng
không thể gọi Nineteen Eighty-Four là truyện được vì thiếu các
đặc tính căn bản của một tiểu thuyết thực sự: không có ý thức cá nhân, không có
phân tích tâm lý và khảo sát các quan hệ thân mật. Richard Woorhees thì cho rằng Nineteen
Eighty-Four là “một tổng hợp giữa chuyện khủng bố và bản luận án chính
trị.” Còn Wyndham Lewis thì “toàn thể tác phẩm là một tài liệu chính trị hàng đầu.”[19]
Bernard Crick – giáo sư chính trị học tại đại học
Birkbeck (Anh), tác giả của cuốn tiểu sử George Orwell: A Life, một
cuốn sách dày đến gần 500 trang – là người hết lòng bênh vực cho một Orwell-nhà
văn. Crick đọc khá kỹ tiểu luận “Why I Write” của Orwell, qua đó theo ông, quan
điểm viết lách của Orwell hiện ra rất rõ ràng. “Trong thời kỳ hòa bình, lẽ ra
tôi phải viết những tác phẩm hoa mỹ hoặc những tác phẩm có tính cách gợi tả và
đừng quan tâm gì đến những cam kết chính trị của mình. Ấy thế mà, trong tình thế
này, tôi bị buộc phải trở thành một tay viết sách chuyên đề.”[20] Theo Crick, những lời lẽ này dường
như thay thế cho một lời xin lỗi. Trong bài viết, Orwell không úp mở thú nhận rằng
nếu không có một quan điểm chính trị mạnh mẽ, ông sẽ không bao giờ viết lách được
gì. “Nhìn lại những gì tôi đã viết ra, tôi thấy rằng lúc nào cũng vậy, hễ thiếu
đi một mục tiêu chính trị là tôi viết ra những tác phẩm vô hồn và trở thành dài
dòng, rườm rà, câu kéo vô nghĩa, những tính từ hoa hòe và nói chung là xảo trá,
bịp bợm.”
Crick quả quyết Orwell là nhà văn đã biết sử dụng tài
năng của mình để biến những bài viết về chính trị thành nghệ thuật. Và ông đã
thành công ngay trong khi còn sống, khi ông “chuyển từ một nhà văn Anh không mấy
nổi tiếng trở thành một khuôn mặt quốc tế, trở thành một cái tên tạo nên tranh
cãi bất cứ nơi đâu mà các tác phẩm của ông được đọc” […] “…ông đã là một nhà
văn, một nhà văn phổ thông, tác giả của những truyện dài, những tác phẩm mà tôi
gọi là những “phim tài liệu”, các bài tiểu luận, các bài thơ và vô số những bài
điểm sách và bình luận trên các cột báo hàng ngày.” Crick gọi ông là một “nhà
văn chính trị” (political writer) hay nhất trong những nhà văn viết bằng tiếng
Anh kể từ nhà văn trào phúng Swift.[21] Danh tiếng và ảnh hưởng của ông
không hề giảm bớt mà còn gia tăng kể từ khi ông mất.
Thực tế thì Orwell cũng tự xem mình là một nhà văn chính
trị. Những tác phẩm hay nhất của ông đều trực tiếp hay gián tiếp đều đề cập đến
những vấn đề xã hội và chính trị. Mà trong thế kỷ 20, chẳng có vấn đề xã hội
nào mà không mang tính cách chính trị. Trong những tác phẩm đầu tiên, chính trị
chưa hiện ra rõ ràng lắm. Chẳng hạn như trong Burmese Days (1934),
ông phê phán chủ nghĩa đế quốc Anh, nhưng đó chỉ là những phê phán có tính chất
cảm tính. Qua kinh nghiệm những năm trong vai trò của một viên chức thuộc địa,
ông cho rằng những người châu Âu có quyền hành, nhưng khi làm việc ở các thuộc
địa, họ chẳng khác nào những dân ngụ cư (alien), sống giữa một thế giới xa lạ
và thù địch. Chủ nghĩa thuộc địa, ngoài việc đàn áp dân thuộc địa, đồng thời
cũng đàn áp chính sự tự do tư tưởng và tự do phát biểu của chính người châu Âu.
Những kinh nghiệm đó sau này đã đưa ông đến chỗ trở thành một người ủng hộ chủ
nghĩa xã hội. Và cho đến trước khi chết, ông vẫn khẳng định lòng trung thành của
mình đối với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ông cực lực bài bác quan điểm cho rằng
sự bình đẳng xã hội nhất thiết phải tiêu hủy tự do của con người. Theo ông, tự
do là cái quyền được nói với nhà cầm quyền rằng họ không muốn nghe những gì mà
họ không muốn nghe.
Trong lời tựa viết cho ấn bản Animal Farm xuất
bản năm 1947 bằng tiếng Ukrain (một nước Cộng sản nằm trong Liên Bang Xô Viết),
ông khẳng định: “Trong 10 năm qua, tôi đã được thuyết phục rằng sự phá hủy huyền
thoại Xô Viết là vấn đề cốt lõi nếu chúng ta muốn làm sống lại phong trào xã hội
chủ nghĩa.”[22] Như thế, Orwell không giấu giếm tư
tưởng chính là phê phán cuộc cách mạng năm 1917 ở Nga, nhằm mục đích phá đổ cái
niềm tin rằng nước Nga Xô Viết đồng hóa với lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà giới
trí thức Âu Châu hằng tin tưởng.
Nhưng trong một lá thư viết cho Dwight MacDonald, chủ bút
tạp chí Politics (New York), ông cho biết Animal Farm còn nhằm
lên án “những cuộc cách mạng bạo động có tính cách âm mưu” (violent
conspirational revolutions) được lãnh đạo bởi những kẻ khao khát quyền hành một
cách vô ý thức.” Điều đó, theo Orwell, chỉ “dẫn đến sự thay ngôi đổi chủ” chứ
không thay đổi số phận của xã hội. Trong “Why I Write”, Orwell cho biết kinh
nghiệm trong thời nội chiến Tây Ban Nha đã có ảnh hưởng lớn lên tư tưởng chính
trị của ông và tác phẩm. “Mỗi một dòng trong tác phẩm nghiêm túc mà tôi đã viết
từ năm 1936, dù gián tiếp hay trực tiếp, đều nhằm chống lại chế
độ độc tài toàn trị và hỗ trợ cho một chế độ xã hội chủ nghĩa
dân chủ, theo như tôi hiểu […] Trại Súc Vật là tác phẩm đầu
tiên trong đó tôi cố gắng với đầy đủ ý thức về những gì tôi đã làm, kết hợp mục
đích chính trị và cùng đích nghệ thuật vào trong một toàn thể.”
Thực ra, những khẳng định như trên chỉ là đơn giản hóa
nhiều điều phức tạp hơn trong tư tưởng của nhà văn gây nhiều tranh cãi này. Vì
rốt cuộc, ngoại trừ sự lên án quyết liệt cái nhà nước toàn trị mà ông cho là phản
bội chủ nghĩa xã hội chân chính, ông không đưa ra một mô thức xã hội nào hoàn
thiện hơn loại trừ được các khuyết điểm của nó. Ngược lại, những phê phán của
ông đều đưa đến thái độ bi quan về tương lai của nhân loại trong việc kiến tạo
một mô thức chính trị và xã hội đáp ứng với khát vọng của con người. Có thể
nói, trải qua một thời gian say mê lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sau cuộc chiến
tranh Tây Ban Nha (1936-1939) mà ông có trực tiếp tham dự, Orwell hoàn toàn tan
vỡ ảo tưởng về các hình thức trị nước: chủ nghĩa phát xít thì tàn bạo, vô luân,
chủ nghĩa Cộng sản thì bị phá sản về mặt tinh thần. Còn các nhà hoạt động chính
trị thì chỉ muốn thỏa mãn tham vọng về quyền hành. Nhiều nhà chính trị mê quyền
hành hơn mọi thứ khác và tìm cách nắm quyền hành bằng mọi giá, kể cả phải phá hủy
cả thế giới, nếu cần. Trong lúc đó, những người nói nhiều nhất về cái đúng cái
sai là các nhà trí thức tả phái và hữu phái Âu Châu lại hoàn toàn bất lực trước
quyền hành. Trong một bài xã luận viết về Arthur Koestler vào năm 1944, ông cho
rằng “Những vấn đề chính của con người sẽ không bao giờ có thể
giải quyết được. Mà nó cũng không thể nghĩ bàn được! […] Từ năm 1930, thế giới
không còn lý do gì để lạc quan nữa. Chẳng có gì nhìn thấy được ngoài một mớ hổ
lốn những điều láo khoét, hận thù, tội ác và sự ngu dốt.”[23]
Animal Farm và Nineteen
Eighty-Four là biểu hiệu cao nhất của cái “không bao giờ” giải quyết
mà Orwell nêu ra. Hai tác phẩm dường như rất khác nhau về cấu trúc, bố cục, văn
phong và kể cả tư tưởng, thực ra đều nhằm cùng một cùng đích: tố cáo chế độ
toàn trị. Nhiều tài liệu còn để lại cho thấy ông có dự tính viết Nineteen
Eighty-Four trước cả Animal Farm. Và tương quan giữa hai
tác phẩm gần gũi nhau hơn là nhiều nhà phê bình giả thiết.[24] Đọc kỹ, ta sẽ thấy có một sự liên tục
về mặt tư tưởng giữa câu chuyện của cuộc cách mạng bị phản bội trong Animal
Farm và câu chuyện của những kẻ phản bội, tức là sự khao khát quyền
hành và vĩnh cửu hóa quyền hành của mình bằng con đường thống trị về mặt tư tưởng
trong Nineteen Eighty-Four. Animal Farm nhái lại một
hiện thực đã có bằng hình thức ngụ ngôn. Nineteen Eighty-Four hư
cấu ra một hiện thực sẽ có trong tương lai.
Nếu Animal Farm mô tả một thế giới đang
chuyển biến từ thời tiền-cách mạng đến cách mạng và sự phá sản của lý tưởng
cách mạng, thì Nineteen Eighty-Four mô tả một thế giới trong
đó hình thức nhà nước toàn trị đã đạt đến giai đoạn ổn định và đang trên đường
hoàn chỉnh lý tưởng mà nó đã đặt ra. Đó là một nhà nước mà quyền lực đạt mức
cao nhất đến độ trở thành vô chính phủ. Xã hội đó hầu như vô luật pháp, vì
không có gì còn được gọi là bất hợp pháp nữa. Một xã hội nghịch đảo. Những người
có kiến thức tốt nhất về những gì đang xảy ra đồng thời cũng là những người xa
cách nhất với cái thế giới thực sự. Nói chung, càng hiểu biết chừng nào thì
càng ảo tưởng chừng ấy, càng thông minh chừng nào thì càng ngu dốt chừng ấy.
Hay nói như Irving Howe, một nhà phê bình văn chương khác, đó là một loại thế
giới mà trong đó, “cá tính trở nên lỗi thời và nhân cách thì trở thành tội ác.”[25]
Trong cái thế giới lạ lùng đó, mọi vấn đề không thể giải
quyết được bằng luận lý và toán học. Nhân vật Winston tồn tại như một con người
thời tiền sử. Trong khi cả xã hội không còn quá khứ thì anh cố đi tìm quá khứ.
Trong khi mọi người trở thành những cái máy vô tri thì anh muốn tồn tại như một
con người bình thường: một người con, một người bạn, một người tình. Anh muốn
chứng tỏ cái “tôi”, điều đi chệch ra khỏi đòi hỏi của xã hội đang tồn tại dưới
dạng của cái “chúng ta”. Anh lại dùng cây viết hay cuốn sổ ghi chép, những thứ
“dụng cụ cổ xưa” vì chẳng ai cần dùng chúng nữa. Tóm lại, anh muốn tồn tại như
một cá nhân, một sinh vật tranh đấu để sống còn, vì trong một xã hội như thế,
cá nhân được xem một cái gì đang trên đà tuyệt chủng. Nỗ lực của Winston là cố
duy trì quá khứ, duy trì tính cách cá nhân và thứ ngôn ngữ bình thường như đã
có. Vì chỉ với những yếu tố đó, người ta mới có thể hiểu được và hiểu đúng hiện
thực bên ngoài. Chính vì thế mà đàng nào anh cũng phải bị bắt, ngay cho dù anh
không hề tham gia chống lại Big Brother đi nữa. Trong thực tế, việc anh tham
gia trong tổ chức chống Đảng chỉ là màn cài đặt thường xuyên của cảnh sát tư tưởng
để phát hiện và tiêu diệt những người như anh – những kẻ còn tin ở quá khứ, những
kẻ còn tư tưởng và còn cố gắng tồn tại ở đời như một cá nhân.
Với những biện pháp như thế, Đảng nhằm xây dựng một xã hội
hoàn toàn mới, trong đó, Đảng là Thượng Đế. Xã hội tương lai đó như thế nào? “Những
nền văn minh cũ xưa nhận rằng chúng được hình thành trên tình yêu hoặc sự công
chính. Nền văn minh chúng tôi hình thành trên hận thù. Trong thế giới đó, sẽ
không có xúc động nào ngoại trừ sự sợ hãi, giận dữ, chiến thắng và tự-hạ-giá.
Còn tất cả mọi thứ chúng tôi sẽ hủy diệt hết. Chúng tôi đã và đang phá hủy những
thói quen tư tưởng vốn còn sót lại từ thời tiền Cách Mạng. Chúng tôi sẽ cắt đứt
mọi liên hệ giữa con cái và cha mẹ, giữa đàn ông và đàn ông, giữa đàn ông và
đàn bà. Không ai còn dám tin cậy một chút gì nữa nơi một người vợ hay một đứa
con hay một người bạn. Trong tương lai, sẽ không còn vợ không còn bạn. Trẻ con
sẽ được mang đi khỏi người mẹ ngay khi mới sinh, như người ta lấy trứng ra khỏi
con gà mái. Bản năng tình dục sẽ bị loại trừ. Sự sinh sản chỉ còn là một thủ tục
diễn ra hàng năm y như người ta gia hạn một cái thẻ lương thực. Chúng tôi sẽ hủy
diệt trạng thái kích ngất tình dục […] Sẽ không còn sự trung
thành nào khác ngoài trung thành với Đảng. Sẽ không còn tình yêu nào ngoài tình
yêu đối với Big Brother. Sẽ không còn nụ cười nào ngoài nụ cười mừng chiến thắng
khi kẻ thù bại trận. Sẽ không còn nghệ thuật, không còn văn chương, không còn
khoa học. Khi chúng ta có quyền năng vô biên thì chúng ta đâu có cần gì đến
khoa học. Sẽ không còn phân biệt giữa đẹp và xấu. Sẽ không còn sự tò mò, không
còn cái thú hưởng thụ cuộc sống. Tất cả những lạc thú sẽ bị hủy diệt […] Nếu
anh muốn có một hình ảnh về tương lai thì hãy tưởng tượng đó là một chiếc giày ống
đạp lên trên một khuôn mặt người – mãi mãi.”[26]
Thật kinh khiếp! Đó là cùng đích của một chế độ độc tài
toàn trị, trong cách hình dung của Orwell. Một thế giới hoàn toàn vô vọng, phi
nhân bản và phi lý. Tác phẩm đã gây nên nỗi kinh hoàng trong một số độc giả lúc
nó mới ra đời, vào đầu thập niên 1950, khi mà chế độ Cộng sản toàn trị đang
nghênh ngang hiện diện ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đồng thời bắt đầu ở Trung
Hoa lục địa và xu hướng Cộng sản đang bành trướng mạnh mẽ trên khắp thế giới.
Nói khác đi, dù không mấy tin là có thật, người ta cũng bàng hoàng xao xuyến vì
tính khả hữu của nó ngay cả ở mức độ thấp nhất. Cứ nhìn vào sự im lặng chịu đựng
của nhân dân Liên Xô hàng thập niên trời dưới bàn tay sắt của Đảng Cộng sản,
tình hình bưng bít thông tin toàn diện, các chiến dịch khủng bố, những phong
trào phê và tự phê, các bài kiểm thảo của các nhà văn hay những người bất đồng
chính kiến, vân vân… trong các nước Cộng sản, những người bi quan không thể
không cảm thấy cái thế giới hư cấu mà Orwell dựng nên đang tiến đến không thể
tránh khỏi, dù sớm dù muộn. John Atkins tự hỏi “Tại sao Orwell lại xác định cái
ngày thế giới khủng khiếp này ra đời quá sớm như thế?” (Ý Atkins muốn nói
Orwell chọn tựa đề 1984 có dụng ý ám chỉ năm đó là năm chế độ toàn trị hiện diện
trên toàn thế giới). Và ông trấn an “Tôi khuyên là các bà già đừng quá sợ hãi
cuốn sách này như thế.”[27]
Bởi vậy, ta không ngạc nhiên khi nhiều nhà phê bình cho rằng
Orwell hoàn toàn rơi vào chủ nghĩa bi quan khi sáng tác Nineteen
Eighty-Four. Ngay cả Crick, một tác giả rất yêu chuộng Orwell, cũng cho rằng Nineteen
Eighty-Four là một thành quả nghệ thuật của chủ nghĩa bi quan, và rất
giống với Gulliver’s Travels của Jonathan Swift, là hình ảnh của
một nhân loại xuống cấp. Có người không ngần ngại cho rằng tác phẩm chịu ảnh hưởng
của những ngày cuối cùng bệnh hoạn của ông vì nó được viết trong thời gian ông
bệnh hoạn và hoàn thành chỉ một thời gian ngắn trước khi ông mất. Tom Hopkinson
ghi lại là Orwell đã nói về tác phẩm như sau “Nó có lẽ không đến nỗi buồn thảm
như thế nếu tôi đã không quá đau ốm như thế.”[28] Nhưng nói chung, đánh giá trên
không có mấy cơ sở vững chắc.
Robert Lee trong Orwell’s Fiction hay
John Atkins trong George Orwell, A Literary and Biographical Study,
chẳng hạn, đều cho rằng Nineteen Eighty-Four là đỉnh cao không
thể tránh khỏi trong sự phát triển tư duy của Orwell về chế độ toàn trị. Người
ta tìm thấy rằng, những ý tưởng triển khai trong Nineteen Eighty-Four đã
hiện diện cách này hay cách khác, dưới dạng tiềm ẩn hay rõ ràng, trong nhiều tiểu
luận chính trị (theo ước tính, ông viết có đến 700 tiểu luận văn chương, chính
trị và xã hội trong nhiều báo và tạp chí khác nhau) cũng như các tác phẩm trước
đó của ông. Ba tác phẩm cuối cùng Homage to Catalonia, Animal Farm và Nineteen
Eighty-Four hầu như đều quan tâm đến tính độc hại của chính trị, sự lạm
dụng ngôn ngữ, khuynh hướng phá hủy lịch sử và thế giới khách quan trong quá
trình tìm kiếm và duy trì quyền hành. Có một sự “bất khả thể tổng hợp giữa quyền
hành và điều phải,”[29] Orwell viết như thế trong bài tiểu
luận về Koestler.
Ngày nay, đọc lại, nếu xem những gì Orwell viết là tiên
tri, thì đều là những lời tiên tri sai lạc: các nhà nước Cộng sản lần lượt sụp
đổ, các nước dân chủ mỗi ngày mỗi tăng thêm. Thực ra, Orwell không hề quả quyết
về bất cứ điều gì cho tương lai. Từ hiện thực cay đắng của các cuộc cách mạng
hay các nhà nước độc tài đầu thế kỷ 20, Orwell nhận ra tính chất phi nhân tiềm ẩn
ngay trong khát vọng về quyền hành của các lãnh tụ và các tổ chức chính trị cực
đoan – dù là tả hay hữu phái. Trong rất nhiều trường hợp, khát vọng đó mang đậm
tính bản năng hơn là tính duy lý và do đó, được thể hiện ra bằng những biện
pháp tàn bạo, khi họ nắm được quyền hành, nhất là khi phải trải qua những đấu
tranh gian khổ. Orwell đẩy đến cùng sự suy diễn của mình. Ông tiến từ cái khả
thể để thiết lập cái bất khả thể. Những khái niệm như doublethink hay duckspeak hay blackwhite vốn
không xa lạ gì với sinh hoạt chính trị trong các xã hội độc đoán. Ở Việt Nam, đọc
những bài kiểm điểm của các văn nghệ sĩ Việt Nam theo kháng chiến thời đấu tố cải
cách ruộng đất hay thời Nhân Văn Giai Phẩm hay những bài “thu hoạch” của các tù
nhân trong các trại cải tạo Cộng sản chẳng hạn, thì có khác gì mấy với những điều
Orwell “hư cấu” trong Nineteen Eighty-Four. Đổi trắng thay đen vốn
là những điều thông thường trong các sinh hoạt tuyên truyền chính trị, nhất là
trong các nước Cộng Sản. Nineteen Eighty-Four, nói như Robert Lee,
là tác phẩm thăm dò các giới hạn của những ám ảnh của mình và những khía cạnh tối
tăm nhất về những đề tài chính trị mà ông quan tâm nhất từ bao nhiêu năm. Thành
thử, nó mang tính cảnh báo và châm biếm hơn là tiên tri. Biết đâu, nhờ những cảnh
báo đó mà nhân loại có được bộ mặt như ngày hôm nay, khi mối đe dọa của các nhà
nước toàn trị kiểu Orwell hầu như không còn nữa hay cũng đã giảm đến mức tối
thiểu. Vả lại, trước sau, Animal Farm hay Nineteen
Eighty-Four đều là những tác phẩm hư cấu. Và Orwell là nhà văn chứ
không hề là nhà chính trị chuyên nghiệp.
*
Tuy nhiên, có một điều cần lưu ý: trong Animal
Farm hay trong Nineteen Eighty-Four, Orwell đều nhấn mạnh
đến hiệu dụng của ngôn ngữ trong tuyên truyền chính trị. Nói một cách khác,
Orwell đề cập đến khoảng cách giữa ngôn ngữ và hiện thực. Trong cuộc sống bình
thường, khoảng cách đó đã gây ra biết bao điều tuế toái, ngược ngạo, bất thường.
Càng đưa ngôn ngữ tiếp cận với chính trị, thì khoảng cách giữa ngôn ngữ và hiện
thực lại càng rộng, càng đa nghĩa, càng lệch lạc: ngôn ngữ bị suy đồi
(corruption of language). Một mặt, ngôn ngữ không hề phản ảnh được hoàn toàn hiện
thực. Mặt khác, người ta vẫn bị thuyết phục hay bị đầu độc bởi ngôn ngữ, hay
nói cho đúng, bởi cách vận dụng chúng. Đọc những đoạn O’Brien thuyết giảng
Winston, dù biết nó lếu láo, lệch lạc nhưng về mặt lý luận và nhận thức, phải
thừa nhận rằng chúng có cái hữu lý riêng của nó. Chúng vẫn nằm trong lãnh vực khả
thể. Và chính vì cái khả thể đó mà nó có tính thuyết phục. Nghĩa là tính đầu
độc.
Ngày nay, khác với Newspeak của nhân vật Syme trong Nineteen
Eighty-Four là thứ ngôn ngữ duy nhất trên thế giới mà số từ vựng mỗi
năm một ít đi, ngôn ngữ dường như bành trướng đến vô hạn. Mỗi năm, tiếng Anh
thêm đến hơn 2000 từ. Đồng thời một số từ cũ được tăng thêm nghĩa: số từ đa
nghĩa mỗi ngày mỗi nhiều. Và cách vận dụng chúng càng ngày càng đa dạng, phong
phú và do đó, càng xa rời hiện thực. Thay vì bị giới hạn “tầm tư tưởng”, người
ta có quyền bành trướng chúng đến vô hạn. Điều này gây nên một hiệu quả ngược:
rối loạn thông tin.
Con người bị truyền thông đàn áp. Mỗi một hành vi, ước muốn,
nhu cầu và thậm chí cả cá tính của chúng ta cũng bị uốn nắn bởi truyền thông.
Cái đáng sợ nhất là chúng có vẻ như chẳng dính dáng gì đến chính trị cả (do đó,
chúng ta không hề cảnh giác) mà lại dính dáng đến chính những nhu cầu bức thiết
của chúng ta: cái ăn, cái mặc, chuyện giải trí hàng ngày. Qua TV, radio,
computer, truyền thông chui rúc vào từng ngõ ngách của đời sống mỗi người, chi
phối chúng ta từ bữa ăn đến giấc ngủ. Doublethink hay duckspeak hay blackwhite không
xa lạ gì trong các phát biểu và diễn văn của các nhà hoạt động chính trị cũng
như bài viết và đủ dạng quảng cáo của các tổ hợp thương mại. Chúng ta dần dần
đánh mất mình. Chúng ta bị toàn trị, không bởi chỉ một Đảng hay một Big Brother
nào đó, mà còn bởi những con bạch tuộc truyền thông mà chủ nhân là những Big
Brothers giấu mặt, nhưng mỗi khi có dịp xuất hiện trên báo chí hay TV, lại mang
những khuôn mặt rất nhân đạo và hiền lành.
Big Brother Is Watching You!
Lời đe dọa/lời cảnh báo/thông điệp đó của George Orwell vẫn
còn nóng sốt đối với chúng ta!
Trần Hữu Thục
(Tác giả, tác phẩm và sự kiện, nxb Văn Mới,
California, 2006.
Tác giả nhuận sắc 4/2017)
[1] Orwellian: of or like the
society portrayed by Orwell in his novel Nineteen Eighty-four, characterized by
totalitarian government, irrational political concepts, the politicization of
everyday language, etc. (Webster’s New World College Dictionary, 2010 – Wiley Publishing, Inc., Cleveland, Ohio).
[4] Glenn Frankel, A Seer’s Blind Spots on
George Orwell’s 100th , a Look at a Flawed and Fascinating
Writer,
Washington Post Foreign Service, 25/6/03.
[5] Fiachra Gibbons, Blacklisted writer says
illness clouded Orwell’s judgement, The Guardian 24/6/03.
[7] Vì Animal Farm là một tác phẩm khá
phổ thông và ngắn gọn, dễ kiếm trong các thư viện, nên xin được miễn phần ghi
chú cho các đoạn trích. Ở trong nước, hiện có hai bản dịch tác phẩm này, một
“Chuyện ở nông trại”, dịch giả: An Lý; và hai, “Trại Súc Vật”, dịch giả Phạm
Minh Ngọc.
[8] George Orwell, The Collected Essays,
Journalism & Letters of George Orwell, dẫn lại theo Bernard Crick,
George Orwell, A Life, nxb Little, Brown and Company, Boston, 1980, USA , tr.
309.
[9] Hội nghị giữa ba cường quốc Mỹ, Nga và Anh vào năm
1943 tại Teheran, Iran bàn chuyện hòa bình thế giới sau khi đánh bại Đức Quốc
Xã.
[19] Dẫn theo Robert Lee, Orwell’s Fiction,
nxb University of Notre Dame Press, Notre Dame, London, England, tr. 129, 130.
[22] George Orwell, The Collected Essays,
Journalism & Letters of George Orwell, dẫn lại theo Bernard Crick, sđd,
tr. 309.
[23] Dẫn theo Roberta Kalechofsky, George Orwell,
nxb Frederick Ungar Publishing Co., NY, 1983, tr. 110.
[25] Dẫn theo Robert Lee, sđd tr. 129 “In 1984, Orwell
is trying to present the kind of world in which individuality has become
obsolete and
personality a crime”.
[27] John Atkins, George Orwell, A Literary and
Biographical Study, Frederick Ungar Publishing CO., NY, trang 252, 253.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét