Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2017
Trần Hữu Thục: Về Hai Tác Phẩm Độc Đáo Của George Orwell: Animal Farm Và Nineteen Eighty-Four
Những người quan tâm đến văn học và chính trị, có lẽ không ai không biết đến George Orwell, tác giả của Animal Farm/Trại Súc Vật.
Vào đầu năm nay
(2017), tên tuổi của George Orwell bỗng nhiên trở lại với công chúng Hoa Kỳ:
một tác phẩm độc đáo khác của nhà văn, Nineteen Eighty-Four hay 1984,
nằm đầu danh sách bestsellers của Amazon vào cuối tháng
1/2017, khiến cho nhà xuất bản phải in thêm 75 ngàn ấn bản mới. Tác phẩm này
cũng đã từng nhiều lần nằm trên danh sách bestsellers trước
đây. Gần nhất là lúc Edward Snowden tiết lộ chương trình do thám cá nhân của cơ
quan National Security Agency năm 2013. Lần này, sự gia tăng số bán xuất hiện
vào thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống của Trump, lúc có một sự tranh cãi
kéo dài giữa tòa Bạch Ốc và báo chí liên hệ đến việc đưa thông tin, khiến xuất
hiện một số từ mới như fake news hay alternative facts. Fake
news (tin bịa đặt) là nhóm từ tổng thống Donald Trump quy cho cách đưa
thông tin mà ông gọi là bịa đặt nhằm chống lại ông của một số cơ quan truyền
thông như CNN, New York Times, Washington Post…; alternative
facts (sự kiện thay thế/sự kiện chọn lựa) là nhóm từ do bà Kellyanne
Conway, cố vấn của tổng thống Trump, sử dụng nhằm biện hộ cho phát ngôn viên
Tòa Bạch Ốc Sean Spicer khi ông này đưa thông tin sai lạc về số người tham dự
lễ nhậm chức của tổng thống Trump vào tháng 1/2017. Có thể nói, alternative
facts cũng là sự kiện bịa đặt nhưng được chọn lựa có chủ đích nhằm
biện minh cho một ý định nào đó. Cách tạo từ mới này khiến người ta liên hệ
đến Newspeak, là tên của một hệ thống ngôn ngữ mới do chế độ độc
tài toàn trị tạo nên nhằm kiểm soát hiện thực, trong Nineteen
Eighty-Four.
Một lý do khác giải
thích cho hiện tượng này là kịch bản của tác phẩm do hai nhà sản xuất Anh Sonia
Friedman và Scott Rudin dàn dựng sẽ được được đưa lên sân khấu Broadway, New
York vào tháng 6/2017.
Đây là dịp để đọc/và
đọc lại nhà văn độc đáo này, mà tác phẩm Nineteen Eighty-Four đã
khiến cho danh từ riêng Orwell trở thành một tính từ, orwellian,[1] tạm
dịch là “có tính cách orwell.” Thế nào gọi là “tính cách
orwell”? Nội dung của truyện sẽ cho ta câu trả lời.
*
George Orwell mất vào
năm 1950. Ông không để lại nhiều tác phẩm, nhưng ảnh hưởng của chúng không hề
tan biến theo thời gian. Nhân kỷ niệm một trăm năm ngày sinh (6/1903-6/2003),
tác phẩm và cuộc đời của George Orwell được nhiều giới khác nhau (sử gia, phê
bình văn học, nhà văn, nhà báo…) đánh giá lại, gây ra tranh cãi tại nhiều nơi ở
Hoa Kỳ và Anh Quốc. Tháng 5/2003, 300 học giả hội họp tại Wellesley (Hoa Kỳ) ba
ngày liên tiếp trong một cuộc hội thảo có tiêu đề là “An Exploration of His
Work and Legacy”. Nhân dịp này, người ta phát hành hai cuốn tiểu sử mới viết về
Orwell. Xin trích lại đây vài ý kiến về Orwell trên báo chí nhân kỷ niệm 100
năm ngày sinh:
- “Như là một trong
những bậc thầy của nền văn xuôi Anh Quốc, George Orwell là một trường hợp gây
bối rối, khó xử. Những người đương thời biết rằng ông có cái gì đặc biệt, nhưng
lại khó giải thích tại sao. Việc mang ông ra thảo luận chẳng dễ dàng hơn chút
nào theo thời gian.”[2]
- “George Orwell là
một nhà văn chính trị, một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ 20 [...] Một
nhà văn chính trị là một nhà văn hết sức quan tâm đến từ ngữ công chính, khinh
bỉ những thành quả lớn và không tự xem mình là anh hùng hay một nhà tiên tri.”[3]
- Orwell là “một cây
bút không hoàn hảo mà lại hấp dẫn” [...] “Và tên của Orwell đã trở thành tiếng
tính từ tiêu chuẩn được sử dụng khi đo lường khoảng cách giữa ngôn ngữ chính
trị và thực tế đạo đức.”[4]
Washington Post, trong
một bài viết khác của Jeremy Lovell, lại tố cáo là Orwell “có tinh thần bài Do
Thái và là một kẻ cô đơn không bè bạn thường khoác chiếc áo giai cấp thợ thuyền
nhưng lại ăn nói theo kiểu giai cấp lớp trên – là người bị xâu xé giữa một bên
là xã hội chủ nghĩa và bên kia là chống báng Liên Xô của Stalin.” Và mới đây,
không lâu trước ngày kỷ niệm, một tài liệu chưa hề công bố cho biết, ít tháng
trước khi chết, Orwell đã giao cho Sở Ngoại Vụ Anh một bản danh sách gồm 38
người Cộng sản và những bạn hoạt động bí mật của ông. Danh sách sau đó đã được
sử gia Timothy Garton Ash tiết lộ đầy đủ.
Sự kiện đó đã khiến
người ta nghi ngờ xu hướng xã hội chủ nghĩa và tinh thần chống độc tài của ông,
đồng thời làm hoen ố danh tiếng mà ông có được từ cả hơn nửa thế kỷ nay. Tuy
nhiên, trong một cuộc trò chuyện với tờ Guardian,[5] sử gia Norman Mackenzie – một trong
số 38 người có tên trên bản danh sách, hiện còn sống – cho rằng khi bị bệnh
lao, ông không còn kiểm soát được mình nữa. “Đó là một danh sách không đáng tin
cậy. Những bệnh nhân bị bệnh lao thường rất kỳ quặc vào giai đoạn cuối. Tôi là
một người ngưỡng mộ Orwell, tôi đồng ý với ông về Liên Xô, nhưng tôi cho rằng
ông đã phần nào trở nên lẩm cẩm rồi.”
*
George Orwell là bút
hiệu của Eric Arthur Blair, sinh ngày 25 tháng 6/1903 tại Bengal (Ấn Độ), con
thứ hai của một viên chức Anh làm việc tại sở thuốc phiện, Ấn Độ. Ít tháng sau
khi sinh, ông theo mẹ về lại Anh Quốc và sống ở đó cho đến khi trưởng thành.
Ông học hành không lấy gì xuất sắc, do đó, không được học bổng để vào đại học.
Chán nản, năm 1922, ông đăng ký làm cảnh sát thuộc địa tại Burma (Miến Điện).
Công việc này chẳng làm ông thú vị gì, nhưng giúp ông nhìn thấy rõ bản chất của
chủ nghĩa thuộc địa và hình thành xu hướng xã hội chủ nghĩa của ông sau này.
Trong thời gian phục vụ, ông bắt đầu viết lách lăng nhăng, nhưng không mấy
thành công. Nhiều bài sau này in trong tuyển tập Shooting an Elephant (1950)
đề cập đến cung cách làm việc của các viên chức thuộc địa. Một trong những bài
viết nổi tiếng nhất là “A Hanging” kể chuyện một người Ấn bị treo cổ chết.
Sau năm năm làm việc,
ông từ chức và trở về lại Âu Châu. Ông sống như một kẻ vô gia cư, làm những
việc vặt vãnh ở cả Anh và Pháp, có lúc phải đi ăn xin. Để biết qua về kiếp tù
đày, một lần, ông giả vờ say sưa để bị bắt nhốt. Kinh nghiệm sống đó cung cấp
cho ông chất liệu độc đáo, dồi dào để ông hoàn tất truyện dài Down and
Out in Paris and London (1933), diễn tả cuộc sống bi đát của những kẻ
sống bên lề xã hội. Một vài nhân vật chẳng khác gì mấy nhân vật trong truyện
của Charles Dickens (Anh). Sợ không thành công, ông không dám dùng tên thật mà
lấy một tên khác làm bút hiệu: George Orwell. Trái với sự lo ngại của tác giả,
tác phẩm được sự ca ngợi của giới phê bình, mặc dầu không tránh khỏi những
nhược điểm tất nhiên của một tác phẩm đầu tay. George Orwell, từ đó, được dùng
làm tên chính thức cho tất cả các tác phẩm cũng như tiểu luận về sau của ông.
Bốn năm sau, một tác
phẩm khác ra đời: The Road to Wigan’s Pier (1937). Đó là một
ký sự, kết quả của hai tháng đi lang thang trong các hầm mỏ, bến tàu, những khu
láng giềng tồi tàn, bẩn thỉu vùng Lancashire và Yorshire (Anh). Tác phẩm chấm dứt
với lời thú nhận rằng ông tin ở chủ nghĩa xã hội và rằng các phong trào cánh tả
là lực lượng duy nhất đủ sức chống lại cơn triều dâng của chủ nghĩa phát-xít
đang hoành hành ở Châu Âu. Nhưng đồng thời tác giả không quên cảnh báo về nguy
cơ của một xã hội theo chủ nghĩa toàn trị kiểu Stalin ở Liên Xô. “Chúng ta cần
có chính sách tuyên truyền thông minh. Bớt đi những là “ý thức giai cấp”,
“trưng thu tài sản của những kẻ bóc lột”, “ý thức hệ trưởng giả”, “tình liên
đới vô sản”… và thêm vào đó công lý, tự do và thực cảnh của những người thất
nghiệp”, Orwell viết.
Năm 1937, Orwell sang
Tây Ban Nha, gia nhập tổ chức “Workers’ Party of Marxist Unification” (POUM =
Đảng Công Nhân Mác-Xít), chiến đấu chống quân đội phát-xít. Một thời gian sau,
ông bỏ đảng, dù vẫn đứng trong hàng ngũ công nhân. Về Anh, ông gia nhập một
đảng khác, “Independent Labour Party” (Lao Động Độc Lập). Và rồi lại bỏ đảng
vài tháng sau đó. Con người Orwell là như thế. Cam kết theo đuổi lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, nhưng lại không muốn lệ thuộc vào bất cứ một đảng phái chính trị
nào. “Một nhà văn chỉ có thể giữ gìn sự ngay thẳng của mình nếu anh ta không
chịu ảnh hưởng của bất cứ đảng phái nào”, ông phát biểu. Những ngày tháng ở Tây
Ban Nha, ông chứng kiến mật vụ Xô Viết đàn áp tàn bạo phong trào vô chính phủ,
đồng thời dưới áp lực của Liên Xô, chính phủ Tây Ban Nha đàn áp phong trào của
ông. Kết quả là sự ra đời của Homage to Calalonia (1938), phản
ảnh bộ mặt của cuộc nội chiến Tây Ban Nha với tất cả những bi thương khủng
khiếp của nó và là một bản tố cáo chính sách khao khát quyền thống trị của
Stalin đối với các phong trào cánh tả trên toàn thế giới. Khác với hai tác phẩm
trước đó, Homage to Catalonia không gây mấy tiếng vang, vì lúc
đó, dư luận chung cho rằng tố cáo Stalin sẽ làm yếu đi phong trào chống
phát-xít ở Châu Âu.
Thời đệ Nhị Thế Chiến,
do yếu phổi và bị thương trong cuộc chiến Tây Ban Nha, ông được miễn nhập ngũ.
Ông làm việc cho đài BBC, rồi sau làm chủ bút tờ báo cánh tả Tribune cho đến
cuối chiến tranh. Lúc này, tài năng viết lách của ông đã đến độ chín toàn diện
và tên tuổi của ông cũng đã nổi tiếng khắp châu Âu. Năm 1943, ông bắt đầu
viết Animal Farm, một tác phẩm mà nội dung đã được thai nghén từ
năm 1937, như ông cho biết. Tác phẩm gặp trắc trở lúc đầu. Có đến bốn nhà xuất
bản từ chối in với một trong những lý do khá thuyết phục: tác phẩm có nội dung
chống Stalin trong lúc Stalin đang là đồng minh của Anh Quốc và Hoa Kỳ chống
Hitler.
Mãi cho đến tháng
8/1945, vài ngày sau khi khi Hoa Kỳ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima
và Nagasaki, tác phẩm mới lặng lẽ xuất hiện trên những kệ sách của các tiệm
sách Luân Đôn. Lúc này, Đức và Nhật đã hoàn toàn bại trận. Một liên minh với
Stalin không còn cần thiết nữa. Đúng thời điểm, cuốn sách mỏng có tựa đề Animal
Farm, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có tiếng vang lớn trong giới chính
trị và văn chương Anh thời hậu chiến, trở thành bestseller và
được giới phê bình xem là một kiệt tác. Nhờ thế, Orwell có tiền và tậu được một
trang trại tại Hebrides, nơi ông hoàn thành tác phẩm kế tiếp, Nineteen
Eighty-Four (sau này đổi cho gọn thành 1984), xuất bản năm 1949. Khác
với Animal Farm, Nineteen Eighty-Four là một cái
nhìn về tương lai. Theo các nhà phê bình, Nineteen Eighty-Four chứa
đựng dấu vết của nhà viết truyện châm biếm Anh gốc Irish thế kỷ thứ 18 là
Jonathan Swift và hai nhà văn đương thời: Aldous Huxley (Anh) và Yevgeni
Zamyatin (Nga). Cần ghi nhận: tựa đề Nineteen Eighty-Four không
chứa đựng bất cứ một tiên tri nào, mà đơn giản chỉ là cách nói ngược của năm
1948. Nhưng ông không sống lâu để hưởng thụ thành quả của mình. Cố gắng để hoàn
tất Nineteen Eighty-Four trong ngôi nhà lộng gió và thiếu sưởi
ấm đã khiến bệnh lao phổi của ông nặng thêm. Một hôm, kiệt sức, ông được đưa
gấp đến viện điều dưỡng Gloucestershire. Bệnh mỗi ngày mỗi nặng. Tám tháng sau,
người ta chuyển ông qua bệnh viện Luân Đôn. Ông chết tại đó vào tháng 1/1950
sau một cơn xuất huyết.
Orwell là một người
khá bất thường. Giọng nói thì the thé khó nghe, ăn mặc lúc nào cũng xoàng xĩnh,
y như một tay nghèo túng kinh niên, nghiện thuốc nhưng chuyên môn hút thuốc tự
mình vấn lấy. Người đầy cá tính, không mấy tin cậy người lạ mặt, và do đó, ít
bạn bè. Có lẽ vì thế mà các nhân vật hư cấu của ông thường khô khan, cứng nhắc,
thiếu tính thuyết phục. Các nhân vật nữ được phác họa sơ sài, thiếu nét hấp dẫn
và thiện cảm khiến người ta ngờ rằng ông có tâm lý ghét phụ nữ (misogyny). Phải
chăng vì ông là người ưa săn đuổi phụ nữ, nhưng không mấy thành công? Một đặc
điểm khác: ông không thích ai đọc trước bài viết của mình và góp ý. “Tôi không
cần ai [góp ý] cả. Bài viết luôn luôn toàn hảo. Kể cả những dấu chấm phết,” ông
khẳng định. Lại mặc cảm tự ti. “Ngay từ lúc mới đầu, tham vọng văn chương của
tôi thường lẫn lộn với cảm giác bị cô lập và bị coi thường,” ông thú nhận về
sau này. Ông xem cuộc đời riêng của ông là một phấn đấu không ngừng nghỉ để
thoát ra khói cảm giác bị coi thường đó và nhiệt tình với chuyện viết lách.
Trong một bài viết năm 1947, ông nhận xét: “Tất cả mọi nhà văn đều hão huyền,
ích kỷ và lười biếng và ngay trong tận cùng động cơ viết lách của họ, vẫn tồn
tại một điều bí ẩn. Viết một tác phẩm là một cuộc tranh đấu khủng khiếp, kiệt
sức giống như trải qua một cơn bệnh đau đớn kéo dài. Người ta sẽ không bao giờ
làm được một công việc như thế nếu không bị lôi kéo bởi loại quỷ quái nào đó mà
người ta không cưỡng chống được mà cũng chẳng hiểu rõ.”[6]
*
Tên tuổi của Orwell gắn liền với hai cuốn tiểu
thuyết độc đáo: Animal Farm và Nineteen Eighty-Four.
Một số người cho rằng đó là hai kiệt tác của Orwell.
Animal Farm[7] – Trại Súc Vật – là một câu chuyện hài
hước cay đắng mô tả cuộc nổi loạn của một nhóm súc vật chống lại ông chủ Người
của chúng. Trước hết, đám súc vật đói khổ trong nông trại của ông Jones được
con heo “lý thuyết gia” Old Major truyền bá tư tưởng: tất cả mọi đau khổ của
kiếp súc vật là do sự thống trị của Con Người, một tạo vật lười biếng và độc
đoán, bắt súc vật làm việc tối đa để phục vụ cho quyền lợi của họ. Để chấm dứt
đau khổ, loài vật phải lật đổ ách thống trị của Con Người và xây dựng một xã
hội, trong đó mọi con vật đều được bình đẳng. “Nên nhớ rằng trong cuộc chiến
đấu chống lại Con Người, chúng ta không được bắt chước hắn. Ngay cả khi chiến
thắng hắn rồi, đừng chấp nhận những thói xấu của hắn… Tất cả mọi thói quen của
Con Người đều xấu xa”.
Mọi con vật đều thích
thú tán đồng. Nhưng trong cuộc họp đầu tiên bàn việc lật đổ Con Người, trong
khi Major tuyên bố “mọi con vật đều là đồng chí” thì mấy con chó nhìn thấy bốn
con chuột lớn bèn vồ ngay, ăn ngấu nghiến. Major bất bình, yêu cầu đại hội bầu
phiếu về sự kiện đó. Đa số đều tán thành rằng chuột cũng là đồng chí. Nhưng có
bốn phiếu chống là phiếu của ba con chó và một con mèo: đúng là bản năng thú
tính làm việc. Dù chỉ là một thiểu số rất nhỏ, nhưng điều đó chứng tỏ đã có một
dấu hiệu bất bình thường trong đám súc vật.
Sau khi Old Major
chết, hai con heo Snowball và Napoleon, đứng ra lãnh đạo cuộc cách mạng với sự
phụ tá của Squealer, một con heo khác có tài về tuyên truyền thuyết phục quần
chúng. Lợi dụng lúc ông chủ say sưa, không quan tâm gì đến các con vật đang bị
đói, đám súc vật nổi loạn, đuổi ông Jones đi. Cách mạng thành công, ba con heo
thiết lập một hệ thống chính quyền mới dựa trên “Animalism” (thú vật chủ nghĩa)
với bảy điều cam kết (the Seven Commandments) như sau:
Bất kỳ con vật nào đi bằng hai chân đều là kẻ thù
Bất cứ con vật nào đi bốn chân, hoặc có cánh đều là bạn
Không con vật nào được mặc áo quần
Không con vật nào được ngủ trên giường
Không con vật nào được uống rượu
Không con vật nào giết con vật nào
Mọi con vật sinh ra
đều được bình đẳng
Tên nông tại vốn là
“Manor Farm” được đổi thành “Animal Farm”. Cuộc cách mạng phát triển nhanh
chóng tới các trại súc vật khác. Mọi con vật hăng hái, phấn khởi làm việc trong
niềm hy vọng ở một cuộc sống mới tự do, no ấm và bình đẳng. Nhưng một thời gian
ngắn sau, mọi việc dần dà biến đổi. Sản xuất nghe nói được tăng gia, nhưng sữa
bò thường bị biến mất thay vì được chia đồng đều. Trái cây rụng trong vườn nho
cũng không được phân phối. Hóa ra, tất cả đều được để dành cho những con heo
lãnh đạo. Dần dà, đám heo lãnh đạo dời vào ở nhà của chủ nhà cũ là Jones. Chúng
ăn ở trong bếp và ngủ trên giường. Giải thích về những chuyện trái với những
điều cam kết, con heo Squealer cho rằng những điều đó không có gì sai trái và
ích kỷ cả. Vì nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, những con heo làm nhiều việc khó
khăn hơn, nhọc nhằn hơn các công việc nông trại như là “hồ sơ”, “biên bản”,
“báo cáo”… và do đó cần được bồi dưỡng thêm để có sức khỏe mà phục vụ cách
mạng.
Không lâu sau, hai con
heo cầm quyền tranh chấp, kết quả là Snowball phải ra đi. Quyền hành thu tóm
trong tay Napoleon. Với quyền hành đó, Napoleon bắt đầu dùng chính sách đàn áp
và bỏ đói để cai trị. Hắn ta bắt đầu sống trong xa hoa, sa đọa một cách công
khai. Bảy điều cam kết từ lúc bắt đầu cách mạng lần lượt được sửa đổi cho phù
hợp với ý muốn của Napoleon. Khi Napoleon giết người thì điều thứ 6 được đổi
thành “Không con vật nào được giết con vật nào nếu không có lý do”. Khi
Napoleon uống rượu thì điều thứ 5 được đổi thành “Không con vật nào được uống
rượu quá độ”. Tóm lại, bất cứ điều gì cũng có thể được giải thích một cách hợp
lý, cho dù chúng mâu thuẫn nhau hay chúng không phù hợp với sự thật.
Nhiều năm về sau, hầu
hết mọi con vật thời cách mạng đều đã lần lượt chết, chỉ trừ một vài con như
con ngựa cái Clover, con lừa đực Benjamin, con quạ Moses và một số con heo.
Trại Súc Vật giờ thì đông đúc, nhưng hầu hết đều là thế hệ sau hoặc là từ các
nơi khác đến. Không mấy ai nhớ gì về thời gian cách mạng. Trại mỗi ngày mỗi ổn
định, nhưng đời sống các con vật vẫn vất vả. Chúng không biết là đời sống bây
giờ so với trước cách mạng, cái nào hơn cái nào. Chúng chỉ biết tuân lệnh,
không có ý kiến gì. Vì chúng chẳng biết gì hơn để mà có ý kiến. Tất cả những
thông tin đều do những con heo cung cấp. Ngoài chuyện cắm cúi làm việc hàng
ngày, chúng chỉ còn một điều: niềm hy vọng. “Nếu chúng đói thì không phải vì
chúng phải nuôi những con người độc đoán; nếu chúng làm việc nhọc nhằn, ít nhất
thì chúng cũng làm việc cho chúng. Không có sinh vật nào trong chúng đi bằng
hai chân. Không có sinh vật nào phải gọi con khác là ‘Chủ’. Tất cả mọi con vật
đều bình đẳng”.
Một buổi chiều đẹp
trời nọ, khi đám súc vật đang trên đường trở về trại sau một ngày làm việc nhọc
nhằn thì bỗng nghe có tiếng ngựa hí bất thường từ ngoài vườn. Tất cả đều dừng
lại chờ xem. Và chúng vô cùng sửng sốt chứng kiến một cảnh tượng khác thường,
chưa hề nhìn thấy bao giờ: một đoàn thú vật gồm toàn heo và chó – những phần tử
lãnh đạo trại – nối đuôi nhau bước đi, và bước đi bằng hai chân sau, con nào
con nấy tỏ vẻ phấn khởi. Cuối đoàn là con heo lãnh tụ Napoleon, hai chân sau
thẳng đứng, hiên ngang bước đi, đầu ngẩng cao hãnh diện nhìn ngang nhìn ngửa
với một đoàn chó tùy tùng nhảy nhót reo vui. Đúng lúc đó, bỗng nhiên bầy cừu,
nhận hiệu lệnh từ đâu đó, đồng thanh hát to một bài ca mới sáng tác:
“Đi bốn chân là
tốt, đi hai chân lại tốt hơn! Đi bốn chân là tốt, đi hai chân lại tốt hơn! Đi
bốn chân là tốt, đi hai chân lại tốt hơn!”
Bài hát là một phủ
nhận điều cam kết số Một. Hay nói một cách khác, đám lãnh tụ cách mạng bốn chân
bây giờ muốn làm Con Người đi hai chân. Bài hát được lặp đi lặp lại cho đến khi
những con heo vào hẳn trong trại. Trong lúc đó, ở bên ngoài “Benjamin cảm
thấy như có lỗ mũi của ai cọ cọ vào vai. Hắn nhìn lui. Hóa ra là Clover. Mắt ả
trông mờ đi hơn bao giờ hết. Không nói một lời, ả kéo nhẹ chiếc bờm của hắn và
dẫn hắn đi vòng tới cuối nhà kho lớn, nơi mà Bảy Điều Cam Kết được viết lên. Khoảng
một hay hai phút, chúng nhìn sửng vào bức tường nền đen với chữ trắng viết lên
trên.
Cuối cùng, ả nói: “Mắt
tôi giờ quá tệ. Hồi còn trẻ tôi chẳng hề đọc xem thử họ viết cái gì trên đó.
Nhưng giờ tôi thấy bức tường trông có vẻ khác đi. Thế thì Bảy Điều Cam Kết ngày
xưa không biết có còn như cũ không vậy, Benjamin?”
Lần đầu tiên, Benjamin
bằng lòng phá lệ và hắn đọc cho ả nghe những dòng chữ trên bức tường. Giòng chữ
như sau: TẤT CẢ MỌI CON VẬT ĐỀU BÌNH ĐẲNG. NHƯNG MỘT VÀI CON THÌ BÌNH ĐẲNG HƠN
NHỮNG CON KHÁC”
Thế nghĩa là Bảy Điều
Cam Kết từ ngày cách mạng thành công, bây giờ chỉ còn lại một, là điều thứ bảy,
nhưng thêm một câu, khiến cho nó mang một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn: chỉ có
những kẻ lãnh đạo mới được bình đẳng.
Thế là, sau một thời
gian huy động hết năng lực của đám súc vật chống lại con người và lao động cật
lực để xây dựng thành công “Trại Súc Vật”, cuối cùng, lãnh tụ Napoleon đàm phán
với con người, bỏ lốt heo để trở thành người, đưa tới liên minh Người-Vật. Trại
được đổi ngược lại tên cũ là Manor Farm. Trong đoạn kết, Animal Farm kể
lại một buổi nhậu giữa Napoleon và Người trong quá trình thương thuyết một hợp
đồng làm ăn mới. Hai kẻ thù không đội trời chung bây giờ ngồi nhậu nhẹt say sưa
và đánh bài với nhau trong khi bên ngoài, đám súc vật khép nép nhìn vào:
“Bên ngoài, những
con vật nhìn từ heo đến người và từ người đến heo rồi lại từ heo đến người; rốt
cục, bọn chúng không thể nào phân biệt được ai là heo ai là người”.
Animal Farm cho thấy tiến hóa của một cuộc cách
mạng, khởi đầu từ một nhóm người ưu tú đi đến chỗ một cá nhân thâu tóm mọi
quyền hành, độc quyền lãnh đạo, qua đó, ta có thể tìm thấy đầy đủ các khuôn mặt
cũng như những biến cố chính đã xảy ra ở Liên Xô: từ Lenin, Stalin, Trosky đến
cuộc nổi loạn Kronstadt, chính sách tuyên truyền chính trị, kiểm duyệt báo chí,
nạn thiếu đói, các kế hoạch ngũ niên, việc tập thể hóa cưỡng bức, nạn đói năm
1932 ở Ukraina, đồng minh tiền-Đệ Nhị Thế Chiến Hitler-Stalin, hiệp định
Molotov-Ribbentrop, vân vân. Nhưng tại sao Orwell lại dùng hình thức ngụ ngôn?
Nói khác đi, tại sao ông lại dùng những con heo để tượng trưng cho Stalin và
Trosky? Chuyện khá đơn giản. “Trên đường trở về từ Tây Ban Nha tôi nghĩ đến
việc trình bày huyền thoại Xô Viết trong một câu chuyện dễ hiểu đối với mọi
người và dễ dịch sang các ngôn ngữ khác. Tuy nhiên những chi tiết trong câu
chuyện chỉ đến với tôi khi vào một ngày nọ (lúc đó tôi sống trong một ngôi làng
nhỏ), tôi nhìn thấy một chú bé khoảng chừng mười tuổi, lái một chiếc xe ngựa
lớn đi vào một lối đi hẹp, vun vút quất roi vào con ngựa mỗi khi nó cố quay
sang đường khác. Điều đó khiến tôi suy nghĩ rằng nếu những con vật như thế mà
biết được sức mạnh của chúng thì chúng ta không thể nào đè ép chúng được và
rằng con người lợi dụng con vật theo các cách chẳng khác gì người giàu lợi dụng
giai cấp vô sản. Tôi tiếp tục phân tích lý thuyết của Marx từ quan điểm của
những con vật”, Orwell giải thích.[8]
Biến chuyện chính trị
lớn lao thành một câu chuyện ngụ ngôn mà trẻ con có thể đọc được (ở Hoa Kỳ
Aminal Farm được đưa vào chương trình đọc sách mùa hè – Summer
Reading – của học sinh lớp 9) khiến cho những chuyện trái khoáy trong chính trị
trở thành khôi hài hơn nhưng đồng thời cũng khiến ta có cảm giác cay đắng hơn và
chua chát hơn; do đó, gây hiệu quả tâm lý cao hơn. Nhất là khi mà chúng ta đối
chiếu chúng với những biến cố có thực bên ngoài xảy ra trong xã hội Cộng sản.
Mặt khác, chúng lại giúp giải thích được bản chất của các hiện tượng đó. Sống
trong xã hội Cộng sản rồi, chúng ta sẽ “ngộ” ra ngay cái cảnh thay đổi những
điều cam kết đi kèm theo những giải thích “lấy được” của bộ phận tuyên truyền:
thay trắng đổi đen trở thành chuyện bình thường, thậm chí trở thành chân lý. Từ
“bốn chân tốt hai chân xấu” đi đến “bốn chân tốt, hai chân tốt hơn” dường như
không có gì khác nhau trong một xã hội toàn trị, trong đó ngôn ngữ không còn
được dùng để biểu đạt hiện thực mà chỉ để biểu đạt ý muốn của chủ thể. Hiện
thực phục vụ cho ngôn ngữ và được đúc cho vừa cái khuôn ngôn ngữ tuyên truyền.
Sự thất bại của cách
mạng bắt đầu từ chỗ: người bị áp bức muốn trở thành kẻ áp bức mới. Mầm mống của
sự phá hủy cách mạng nằm ngay trong chính cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng của
đám súc vật thất bại không phải vì con người phản công mà chính vì “bản chất
người” nằm ngay trong con vật. Chúng muốn biến thành người, nghĩa là thành kẻ
áp bức mà chúng muốn lật đổ. Có thể nói Animal Farm là lời
than khóc cho một cuộc cách mạng bị thất bại, than khóc cho sự phá hủy tự do
diễn đạt nghệ thuật và tất cả những hy vọng gắn liền với thời kỳ đầu của cuộc
cách mạng. Tóm lại, đó là lời than khóc cay đắng về sự hư hỏng của lý tưởng do
quyền lực gây nên.
Khi đề cập đến hợp
đồng giữa Napoleon và con người trong đoạn cuối của Animal Farm,
nhiều nhà phê bình cho rằng Orwell tin tưởng có sự hòa giải giữa các nước tư
bản Tây phương và Liên Xô. Sau này, ông thú nhận là ông viết đoạn đó khi đang
diễn ra hội nghị Teheran,[9] trong đó Mỹ, Anh và Nga bàn đến
chuyện sống chung hòa bình. Nhưng rồi hội nghị Teheran thất bại , dẫn đến cuộc
chiến tranh lạnh sau này. Phải chăng thất bại của hội nghị Teheran đã góp phần
đưa đến sự hình thành Nineteen Eighty-Four?
(Còn một kỳ)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét