Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2017
Lỗ Tấn/Trương Chính dịch: Khổng Ất Kỷ
Các quán rượu ở Lỗ Trấn có một cách sắp đặt khác hẳn nơi khác: Quán nào cũng có một cái quày to, hình thước thợ ngoảnh ra đường cái; phía trong quày có sẵn nước nóng lúc nào cũng có thể hâm rượu được. Trưa hay chiều, các bác thợ đi làm về, người nào cũng đến bỏ ra bốn đồng trinh mua một bát rượu, - đó là chuyện hơn hai năm về trước, bây giờ mỗi bát cũng phải đến nửa đồng - rồi đứng tựa vào quầy, uống khi còn nóng bỏng, vừa uống vừa nghỉ cho đỡ mệt. Nếu chịu bỏ thêm một đồng nữa thì có thể mua được một đĩa măng muối mặn hoặc một dĩa đậu hồi hương làm thức nhắm.
Còn bỏ ra hơn mười đồng thì có
thể mua được một đĩa thịt xào. Nhưng những khách hàng này phần nhiều là bọn áo
cộc không mấy ai chơi sang như vậy. Chỉ có những vị khách áo dài mới đi vào tận
phòng trong, gọi rượu, gọi thịt, ngồi uống khề khà.
Từ hồi mười hai tuổi, tôi (1)
đã đến làm công cho quán rượu Hàm Hanh ở chỗ cửa ô đi vào trấn.(2) Ông chủ quán
bảo là tôi dáng người đần độn quá, e không hầu nổi các vị khách áo dài, thôi ra
đứng ngoài làm việc vặt vậy. Khách áo cộc ở ngoài, tuy dễ dãi hơn nhiều, nhưng
cũng lắm ông hay sách hoạch, kỳ kèo đáo để. Thường thường họ đòi được nhìn tận
mắt xem rượu có thật múc ở vò ra hay không, đòi nhìn tận mắt xem trong ấm có nước
lã hay không, lại đòi được nhìn tận mắt xem khi tôi đặt ấm vào nước nóng. Có thế
mới an tâm. Kiểm soát chặt chẽ như vậy, thì làm thế nào mà pha nước vào đây!
Cho nên được mấy ngày ông chủ quán lại bảo là tôi không thể đứng bán hàng được.
May mà người đưa tôi đến đây là chỗ thân tình với ông ta lắm, nên ông ta không
thải ra mà để cho tôi chuyên coi việc hâm rượu, một việc hết sức tẻ nhạt.
Từ đó, tôi đứng cả ngày trong
quày, chăm chú làm công việc của mình. Tuy không đến nỗi không làm tròn phận sự,
nhưng tôi thấy buồn và chán ghê. Ông chủ quán thì mặt dữ lắm, khách hàng cũng
chẳng ai dễ thương, tôi khó lòng vui lên được. Chỉ khi nào có bác Khổng Ất Kỷ đến
thì mới có thể cười được ít tiếng. Cho nên mãi đến nay vẫn còn nhớ bác ta.
Bác Khổng Ất Kỷ là người độc nhất
mặc áo dài mà lại đứng trước quày uống rượu. Bác ta người to cao, mặt tai tái,
giữa những nếp răn thường có vài vết sẹo, lại có một bộ râu hoa râm lổm xổm, rối
như mớ bòng bong. Áo tuy là áo dài nhưng vừa bẩn vừa rách, hình như hơn mươi
năm nay chưa hề vá mà cũng chưa hề giặt. Bác ta nói chuyện với ai, mở miệng là
chi hồ giả dã (3) làm cho người ta chẳng hiểu gì hết. Vì bác ta họ Khổng, nên
người ta mới lấy ba chữ Khổng ất Kỷ trong cái câu cũng khó hiểu: "Thượng đại
nhân Khổng ất Kỷ" (4) in son trên các thiếp đồ mà đặt biệt hiệu cho. Hễ
bác ta bước chân đến quán là bao nhiêu khách đều nhìn bác ta mà cười dậy lên hết.
Có người hỏi:
- Ông Khổng ất Kỷ này! Sao trên
mặt lại có một vết thương mới nữa rồi!
Bác ta không trả lời, nói vào
trong quày:
- Hâm cho hai bát rượu, và lấy
ra đây một đĩa đậu hồi hương nhé!
Rồi xỉa ra chín đồng trinh.
Mấy người kia lại cố ý nói to:
- Nhất định lại xoáy cái gì của
nhà ai rồi!
Bác ta trừng mắt lên cự:
- Sao khi không các người lại bịa
chuyện làm mất danh giá người ta đi như thế?
- Danh giá cái gì? Chẳng phải
hôm trước chính mắt tớ trông thấy ông ăn cắp sách nhà ông Hà rồi bị treo ngược
lên đánh là gì?
Bác ta đỏ mặt, trán nổi gân
xanh, cãi lại:
- Lấy sách không phải là ăn cắp!
Có biết chữ mới lấy sách chứ? Thế mà bảo là ăn cắp được à?
Tiếp theo là những câu khó hiểu
nào là "Quân tử cố cùng" (5), nào là gì "giả hồ", làm cho mọi
ngươi cười dậy lên. Trong quán ngoài quán không khí nhộn hẳn.
Nghe người ta bàn tán riêng với
nhau thì bác Khổng ất Kỷ vốn cũng có đi học, nhưng thi mãi không đỗ, lại không
biết lảm gì ra ăn, do đó, càng ngày càng túng quẫn đến nỗi gần phải đi ăn xin.
May được cái viết chữ tốt, nên đi chép sách thuê kiếm cơm. Khổ một nỗi, tính nết
không ra gì, thích rượu mà lại nhác làm. Ngồi chép được vài hôm, thế là cả người
lẫn sách vở, giấy bút, nghiên mực đều biến mất tang. Mấy lần như vậy, chẳng ai
thuê chép nữa. Không còn cách nào khác, bác ta đôi khi phải giở ngón xoáy.
Nhưng ở quán rượu chúng tôi thì bác ta đứng đắn hơn ai hết, lúc nào cũng sòng
phẳng. Có khi không có tiền mặt thì tạm ghi vào bảng. Nhưng chưa hết tháng, thế
nào cũng trả đủ rồi, và tên bác ta lại được xóa đi.
Bác Khổng ất Kỷ uống hết nửa
bát rượu thì sắc mặt lại đã trắng dã ra y như trước, không đỏ nữa. Có người đứng
cạnh lại hỏi:
- Ông Khổng ất Kỷ này! Ông biết
chữ thật đấy chứ?
Bác ta nguýt một cái, tỏ ý
không thèm cãi lại. Thì họ đã nói tiếp:
- Làm thế nào mà đến một chút
tú tài cũng không gỡ được hả?
Tức thì trông bác ta tiều tụy,
bối rối hẳn, mặt tái mét, miệng lẩm bẩm cái gì. Lần này thì toàn những chi hồ
giả dã, không hiểu chút gì cả. Lúc ấy, mọi người lại cười dậy lên. Trong quán
ngoài quán không khí nhộn hẳn.
Nhân những dịp đó, tôi cũng có
thể cười góp vào, ông chủ quán không mắng. Vả lại, mỗi lần thấy bác Khổng ất Kỷ,
ông ta cũng thường hỏi đùa như thế làm cho ai nấy phải bật cười. Bác Khổng ất Kỷ
biết là mình không thể cùng nói chuyện với những người kia được bèn quay lại
nói chuyện với bọn trẻ con. Có lần bác ta hỏi tôi:
- Đã đi học chưa?
Tôi khẽ gật đầu.
- Đi học rồi à? Để ta khảo xem
nào! Chữ hồi trong đậu hồi hương viết thế nào nào?
Tôi nghĩ bụng: người dáng như
ăn mày thế kia mà lại dám khảo mình ư? Tôi quay mặt đi, không buồn trả lời. Chờ
một hồi lâu, bác ta nói, giọng khẩn thiết:
- Không biết à? Để ta bày cho.
Nhớ lấy nhé! Những chữ ấy thì phải nhớ mới được. Tương lai làm ông chủ quán,
biên sổ sách phải dùng đến đấy!
Tôi nghĩ bụng giữa ông chủ quán
với tôi còn cách bậc nhiều lắm, mà ông chủ quán của tôi có bao giờ ghi chữ đậu
hồi hương vào sổ đâu! Vừa buồn cười, vừa khó chịu, tôi trả lời uể oải:
- Ai mượn bác bày. Chẳng phải
là thảo đầu trên chữ hồi là về là gì?
Bác ta ra vẻ thích thú lắm, gõ
hai móng tay dài xuống mặt quày, gật đầu nói:
- Giỏi đấy! Giỏi đấy! Chữ hồi
có bốn cách viết, biết không?
Tôi càng khó chịu, bĩu môi bỏ
đi. Bác ta vừa nhúng móng tay vào rượu định viết lên mặt quày, nhưng thấy tôi
thờ ơ thì lại thở dài, tỏ vẻ tiếc cho tôi lắm.
Có mấy lần, bọn trẻ con hàng
xóm nghe tiếng cười cũng chạy đến xem, vây lấy bác ta. Bác ta lấy đậu cho mỗi đứa
một hột. Ăn hết đậu, chúng nó vẫn đứng đấy không đi, mắt nhìn dán vào cái đĩa.
Bác ta hoảng lên, xòe cả năm ngón tay ụp lấy đĩa, cúi khom xuống, nói:
- Chẳng còn bao nhiêu nữa!
Rồi đứng thẳng dậy, nhìn đĩa đậu,
lắc đầu:
- Không nhiều nữa. Nhiều ư? Có
nhiều đâu. (6)
Thế là bọn trẻ con cười ồ lên,
chạy tứ tán.
Bác Khổng ất Kỷ mua vui cho người
ta như vậy đó, nhưng không có bác thì cũng thế thôi!
Một hôm, hình như vào khoảng
hai ba ngày trước tết Trung thu, ông chủ quán ngồi thong thả tính tiền. Ông ta
hạ tấm bảng xuống, bỗng dưng nói:
- Đã lâu không thấy lão Khổng ất
Kỷ đến nhỉ? Còn nợ mười chín đồng trinh kia đấy!
Tôi mới sực nhớ ra là đã lâu lắm
bác ta không đến quán thật. Một người khách nói:
- Làm thế nào mà đến được! Bị
đánh què chân rồi!
Ông chủ quán nói:
- Thế à?
- Vẫn giữ cái thói ăn cắp. Lần
này điên hay sao lại nhè nhà cụ Cử Đinh mà ăn cắp. Của nhà ấy mà hòng ăn cắp à?
- Rồi thế nào?
- Rồi thế nào à! Rồi viết tờ
thú, xong là lôi ra đánh suốt đêm, què chân mới thôi!
- Rồi thế nào nữa?
- Rồi què chân.
- Què chân rồi thế nào nữa?
- Thế nào, ai biết được? Có lẽ
chết rồi cũng nên.
Ông chủ quán không hỏi nữa, cứ
ngồi thong thả tính tiền.
Tết Trung thu qua. Gió thu càng
ngày càng lạnh, xem chừng gần sang đông. Tôi suốt ngày đứng cạnh lò cũng phải mặc
áo bông. Một buổi chiều, quán rượu vắng khách. Tôi đang ngồi, mắt lim dim, bỗng
nghe có tiếng ai gọi:
- Hâm cho một bát rượu nhé!
Tiếng nói nhỏ nhưng nghe quen lắm.
Nhìn chẳng thấy một ai cả. Đứng dậy nhòm ra thì ra là bác Khổng ất Kỷ đang ngồi
trệt dưới quày, ngay chỗ bậc cửa. Mặt bác ta đen sạm, võ vàng, trông không ra hồn
người. Bác ta mặc một chiếc áo kép rách ngồi xếp bằng hai chân, dưới lót một tấm
bao lát có hai dây thừng bằng rơm treo vào vai. Bác ta nhìn thấy tôi lại nói:
- Hâm cho một bát rượu!
Ông chủ quán cũng thò đầu ra
nhìn và lên tiếng:
- Ông Khổng ất Kỷ đấy à? Còn nợ
mười chín đồng trinh đấy nhé!
Bác ta ngẩng mặt lên vẻ tiều tụy:
- Món ấy... lần sau sẽ hay. Bây
giờ, có tiền mặt. Rượu ngon đấy nhé!
Ông chủ quán vẫn như mọi lần,
nhìn bác ta cười:
- Này ông Khổng ất Kỷ! Lại xoáy
của ai cái gì rồi?
Nhưng lần này, bác ta không chối
hẳn, chỉ nói một câu:
- Thôi đừng đùa.
- Đùa à! Không xoáy thì sao lại
bị đánh què chân thế kia!
Bác ta nói khe khẽ:
- Ngã què... Ngã... Ngã...
Mắt bác ta nhìn ông chủ quán
trông có vẻ van xin đừng nói nữa. Lúc đó, có mấy người cũng vừa đến. Họ cùng
ông chủ quán cười dậy lên. Tôi hâm rượu, bưng ra đặt trên bậc cửa. Bác ta nắm
trong túi áo rách lấy ra bốn đồng trinh bỏ vào tay tôi. Tôi thấy tay bác ta lấm
những bùn. Thì ra bác ta đi bằng tay! Một lát sau, uống hết rượu, bác ta thong
thả chống tay lết đi giữa tiếng nói tiếng cười của những người xung quanh.
Từ đó về sau, lâu lắm, tôi
không hề thấy bác Khổng ất Kỷ đâu nữa. Cuối năm, ông chủ quán hạ tấm bảng xuống,
nói:
- Lão Khổng ất Kỷ còn nợ mười
chín đồng trinh kia đấy!
Đến tết Đoan ngọ năm sau, lại
nói:
- Lão Khổng ất Kỷ còn nợ mười
chín đồng trinh kia đấy!
Đến tết Trung thu thì không
nghe nói nữa. Và cuối năm, cũng chẳng thấy bác ta đến.
Cho đến bây giờ tôi chẳng hề gặp
lại. Có lẽ bác Khổng ất Kỷ chết thật rồi chăng?
Tháng 3 năm 1919
* Truyện này đăng lần đầu tiên
tạp chí Tân Thanh Niên tháng 4 năm 1919. Cuối chuyện có mấy lời chua của tác giả
như sau: truyện ngắn vụng về này, tôi viết xong một ngày mùa đông năm ngoái. Ý
định lúc đó là miêu tả một cảnh sống trong xã hội để độc giả xem chơi, chứ chẳng
có thêm ý gì. Nhưng từ khi dùng hoạt tự để in thì có người bỗng dưng dùng tiểu
thuyết để công kích người này người khác. Nhà văn đó đi vào một con đường đen tối
nên có thể làm cho tư tưởng người đọc cũng theo tư tưởng mình mà trở thành hư hỏng.
Y đã lấy tiểu thuyết làm một thứ dụng cụ để hắt nước bẩn, người bị bẩn chưa biết
là ai. Thật là một điều đáng thương, đáng giận hết sức. Cho nên tôi phải thanh
minh ở đây để khỏi phải bị hiểu nhầm, làm hại đến nhân cách người đọc.
16-3-1919."
Chú thích
(1) Lỗ Tấn dùng ngôi thứ nhất.
nhưng ông không hề làm công cho quán rượu Hàm Hanh bao giờ. Đây là một cách viết
làm cho câu chuyện trở thành thân mật, có dáng dấp một thiên hồi ức.
(2) Theo Tôn Phục Viên trong cuốn
Một vài việc về ông Lỗ Tấn và Chu Hà Thọ trong cuốn Nhà cũ của Lỗ Tấn, thì quán
rượu Hàm Hanh là một quán rượu có thật. và cũng có một nhân vật giống như Khổng
ất Kỷ. Ông này họ Mạnh, người ta gọi là Mạnh phu tử, và là bà con xa với Lỗ Tấn.
Nhưng hình tượng này có một ý nghĩa điển hình. Khổng ất Kỷ đại biểu cho tầng lớp
trí thức dưới trong xã hội phong kiến, bị chế độ khoa cử đầu độc trở thành một
người vô dụng.
(3) Chi hồ giả dã các hư tự
dùng trong văn ngôn. Ý là: nói theo chữ nghĩa trong sách, tỏ ra có học hơn người.
(4) Trên các thiếp đồ ngày trước
thường có viết câu bằng chữ son như sau: "Thượng đại nhân, Khổng ất Kỷ.
Hóa tam thiên, thất thập sĩ. Nhĩ tiểu sinh, bát cửu tử. Giai tác nhân, khả tri
lễ dã". Câu này đã có từ lâu, từ đời Minh và có thể từ đời Đường, Tống.
Thường đọc ba chữ một, giống như tam tự kinh, đại khái là kể sự nghiệp của Khổng
tử và khuyên trẻ con gắng học. Những chữ này lại giản đơn nên dùng để tập đồ. Ở
ta. ngày trước đi học chữ nho, cũng lấy câu này tập đồ.
Theo ông Hứa Khâm Văn, tác giả
tập Phân tích Gào thét, thì chính là Thượng đại nhân, thánh ất dĩ tức là Thượng
cổ đại nhân, Khổng thị nhất nhân nhi dĩ. Thời thượng cổ chỉ có một người vĩ đại
là Khổng tử mà thôi). Chữ dĩ nhầm là kỷ, thành ra ý nghĩa không rõ. Ở Việt Nam,
cũng thường đọc thánh ất dĩ.
(5) Quân tử cố cùng, chữ trong
sách Luận ngữ nghĩa là người quân tử dù trong lúc cùng khốn cũng giữ trọn tiết,
không thay đổi.
(6) Câu này nguyên văn là: Đa hồ
tai, bất đa dã, chữ trong sách Luận ngữ.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét