Thứ Tư, 24 tháng 5, 2017

CỔ-LŨY: TỪ NAM CALIFORNIA: NHÌN LẠI LIÊN HỆ VIỆT-MỸ: THẬP NIÊN THỨ NHÌ THẾ KỶ 21

Giáo Sư Michael J. Boyle

“Tháng Tư Đen” đã ra đi lần thứ 42; đây là dịp tiếp tục nhìn lại liên hệ Việt-Mỹ một cách đúng đắn để có khái niệm phần nào về tương lai. Như thường lệ, người viết dựa vào những học hỏi, nghiên cứu, và khám phá từ người đi trước và đương thời của những chuyên gia, giáo sư đại học —những vị này cũng đều dựa vào những khám phá, học hỏi và nghiên cứu của người đi trước và đương thời, theo đúng truyền thống học thuật. Giai đoạn thập niên thứ nhì dựa nhiều vào nghiên cứu của Giáo Sư Michael J. Boyle, chuyên gia về bang giao quốc tế, chính trị học và triết lý thuộc viện đại học La Salle, Pennsylvania. Ông cũng từng học, giảng dạy và nghiên cứu tại các viện đại học khác như Harvard, Stanford ở Hoa Kỳ, St. Andrew ở Scotland và Canberra ở Úc. Ông Jonathan Rauch, nhà phân tích chính trị nguyệt san The Atlantic và The Economist với uy tín lâu đời trong truyền thông thế giới cũng đưa ra nghiên cứu về Tổng Thống Barack Obama so với những tổng thống khác nửa thế kỷ qua.
Cột báo đã đi qua liên hệ Việt-Mỹ thời Tổng Thống Bill Clinton mang nhiều tính chất ngoại giao và lịch sử; thời Tổng Thống George W. Bush chú trọng vào ngoại thương. Không quên những gánh nặng gánh nặng tiêu cực trong quá khứ ngoại giao Mỹ, Tổng Thống Barack Obama hướng liên hệ vào chiến lược lâu dài cho thế kỷ mới. 

BỐI CẢNH ẢNH HƯỞNG TỚI LIÊN HỆ
Năm 2008, cuộc tranh cử và tổng tuyển cử lịch sử đưa ứng viên Barack H. Obama, người da mầu đầu tiên vào tòa Bạch Ốc—cũng mãi cuối thập niên thứ nhất thế kỷ 21 mới xẩy ra (xin xem Từ Nam California, hàng tuần, suốt thời gian 2008-2009, cùng người viết). Giữa những hào hứng lên cao về một trang sử mới với “hy vọng và thay đổi/hope and change” từ tổng thống Dân Chủ trẻ tuổi có lẫn lộn nhiều áng mây mù. Ông Obama lên nhậm chức và thừa hưởng di sản đổ nát từ hai nhiệm kỳ “Chiến tranh Chống Khủng bố Toàn cầu/GWoT” lẫn kinh tế xuống dốc từ Tổng Thống Cộng Hòa George W. Bush (con). Giống như nhiều lãnh tụ Cộng Hòa đi trước (nhất là Tổng Thống Ronald Reagan, thời 1980), ông Bush khi nhậm chức đầu thế kỷ chỉ có mỗi mục tiêu “giảm thuế cho nhà giầu.” Mục tiêu này (cộng thêm với những ủng hộ và dễ dãi triệt để cho “giới đại kỹ thương và tài chính/Big Business” tha hồ làm ăn) đi đúng theo phát triển kinh tế kiểu “Nhỏ giọt/Trickle down” mà ứng viên George W.H. Bush (bố) gọi là “Voodoo Economics/Kinh tế Phù thủy” trong tranh cử tổng thống cuối thời 1970 với ông Reagan.
Nói ngắn gọn, trong “kinh tế kiểu Reagan/Reaganomics” này các “đại gia” tha hồ làm ăn với ràng buộc luật pháp tối thiểu (qua biện pháp: “deregulation/bãi bỏ luật lệ,” và “hạn chế chính quyền/small government” vào việc lo giữ “an ninh, trật tự/law and order” để yên cho “Big Business” làm ăn) cộng với giảm thuế tối đa sẽ “nhỏ giọt” phúc lợi xuống những giai cấp dưới. Giới bảo thủ thường nhắc lời “thần tượng” Reagan: “chính quyền là vấn đề” chứ không phải Big Business. Thực tế cho thấy: không mấy “trickle down” từ thời Reagan tới Bush—chỉ nhiều lem nhem giữa chính quyền và tư nhân (trao đổi quyền lấy tiền và tiền lấy quyền/influence peddling và corruption), thâm thủng ngân sách quốc gia đưa đến vay mượn, nợ nần nước ngoài, và mức cách biệt giầu nghèo ghê gớm chưa bao giờ thấy. Thêm vào đây là gia tăng ngân sách quốc phòng từ “liên hệ mật thiết giữa chính quyền và đại kỹ thương/Militay-Industrial Complex” làm giầu bằng chiến tranh (như tố cáo của Tổng Thống Cộng Hòa Dwight Eisenhower cuối thời 1950), rồi mở màn hay mở rộng xung đột và chiến tranh đưa kinh tế tới mức bại hoại, và khốn đốn cho dân chúng. Đây đã xẩy ra ở thời ông Reagan, gần bị “bãi nhiệm/impeachment” vì liên hệ tới bán vũ khí lậu cho kẻ thù Iran lấy tiền thuê người lật đổ chính quyền thiên tả ở Nicaragua; rồi, thời ông Bush với Phó Tổng Thống Dick Cheney, nắm quyền hạn lớn và hung hăng muốn “trả thù” thất bại ở Việt Nam, đưa ba lý do bịa đặt để đi vào Iraq.
Khác với hai tổng thống đi trước (một là tài tử phim ảnh loại B không bằng cấp đại học. một là sinh viên điểm C ở đại học Yale và Harvard), ông Obama là một chuyên gia về luật hiến pháp Mỹ vô cùng tinh vi. Ông cũng là người học hỏi sâu rộng với gốc gác da đen hẩm hiu nên dễ hiểu những điều trên. Phải đương đầu tức khắc với bại hoại kinh tế (hàng trăm nghìn người thất nghiệp hàng tháng) chính quyền đưa ra nhiều biện pháp chế tài mạnh nhằm ngăn chặn băng hoại. Nhưng ông Obama không quên thực hiện những thay đổi cần thiết nhưng vô cùng khó khăn trong bối cảnh kinh tế và chính trị: làm luật cải tổ y tế đầu tiên, “Obamacare,” giảm thiểu số người Mỹ không có bảo hiểm xuống một nửa (từ 43 triệu cuối thời ông Bush). Và sau đó, với ý thức rõ rệt rằng trong xã hội với “Reaganomics, trickle down” và “small government” người dân dễ thành nạn nhân trực tiếp của Big Business, ông đưa ra luật cải tổ tài chính sâu rộng đầu tiên nhằm bảo vệ quyền của người dân chống lại các bóc lột, lừa đảo bởi các định chế “tư nhân/private sector” cung cấp dịch vụ tài chính (ngân hàng, thị trường chứng khoán, đầu tư, bảo hiểm, y tế, địa ốc…) thông thường trong nước.
Hiến pháp Mỹ, viết ở cuối thế kỷ 18 và nhằm bảo vệ quyền của người bị cai trị, đặt các định chế “công quyền/public sector” (như chính quyền mọi cấp, cảnh sát, quân đội, học khu,…) vào  những ràng buộc luật pháp nặng nề; “private sector,” lúc đó chưa đáng kể, hầu như không bị ràng buộc nào cả.   
NHỮNG THAY ĐỔI CHIẾN LƯỢC 
Tuy không thực hiện ngay được trong nhiệm kỳ đầu bận rộn với kinh tế và những cải tổ quan trọng, ông Obama mang tham vọng thay đổi chính sách ngoại giao căn bản đã đeo đẳng giới lãnh đạo Mỹ từ 1945 sau Thế Chiến 2. Ông thấm nhuần những giảng dậy của nhà thần học Mỹ gốc Đức Reinhold Niebuhr về “Đạo Chúa Hiện Thực/Christian Realism” với ảnh hưởng bao trùm giới trí thức và chính trị thế giới (nổi tiếng với lời nguyện: “Lậy Cha cho con Can Đảm để thay đổi cái phải thay đổi. Thản Nhiên để chấp nhận cái không thay đổi được. Và Trí Tuệ để phân biệt cái này với cái nọ”). Từng chống đối cuộc chiến chống khủng bố “GWoT” thời là nghị sĩ tiểu bang Illinois và tuy bận rộn với những vấn đề trong nước, ông Obama quyết định ngay việc rút quân đội ra khỏi Iraq và giảm thiểu quân số ở Afghanistan. Năm 2011, ông “Chuyển trục/Pivot” hay Tái Quân bằng/Rebalance” chiến lược về Á Châu trong “Thế kỷ Thái Bình Dương” mới mà hai ông Bush-Cheney đã bỏ quên trong khi Trung Quốc đóng vai trò chính. Ngoại Trưởng Hillary Clinton trong chính quyền Obama giải thích, “Trong thập niên thứ nhì, chúng ta cần sáng suốt và có kỷ luật về đầu tư thời gian và nghị lực vào đâu, để ta có thể nắm vị trí lợi thế nhất nhằm duy trì vai trò lãnh đạo, bảo vệ quyền lợi, và xiển dương những giá trị [tự do, dân chủ] của chúng ta. Do đó một trong những công việc quan trọng nhất …sẽ là nắm chặt lấy những đầu tư mỗi lúc một lớn hơn—về mặt ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và những khía cạnh khác-–trong vùng Á Châu Thái Bình Dương.” Bà cũng đưa ra sáu đường lối hành động: củng cố những liên minh an ninh song phương; mở rộng liên hệ với các nước đang lên, kể cả Trung Quốc; gắn bó với các định chế đa phương trong vùng; phát triển thương mại và đầu tư; tạo dựng một hiện diện quân sự rộng rãi; và gia tăng dân chủ và nhân quyền.
(Còn tiếp)