Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017
Vũ Hoàng Chương: Làm Thơ và Tuyên dương Văn nghiệp
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương trả lời cuộc phỏng vấn truyền thanh của đài Tiếng nói Tự do (phát thanh đêm Giao thừa năm Quí Sửu - 1973.) Bách Khoa số 389 [ngày kiểm duyệt 2-4-1973] trang 75.
Câu hỏi 1 — Xin giáo-sư tự giới thiệu quý danh.
[1]- Tôi mang họ Vũ-Hoàng và được cha mẹ đặt tên là
Chương. Như vậy tói là Vũ-Hoàng-Chương. Đó cũng là ba chữ tôi dùng làm bút-danh ngay từ ấn-phẩm thứ
nhất : tập Thơ Say ra đời năm 1940 tại Hà-nội.
Câu
hỏi 2 — Ngoài việc dạy học, giáo sư đã “làm thơ” như thế nào ?
2- Việc
chính-yếu của tôi là “làm thơ”; còn việc
dạy học chỉ là phụ-thuộc. Từ giữa năm 1972 tôi chỉ còn dạy
3 giờ một tuần, lớp 11 trường Trung-học Chu-văn-An, Sài Gòn. Đến như việc “làm
thơ” nó như thế nào ư ? Giản dị lắm. Tôi có cảm hứng là bắt đầu kiến trúc bài
thơ. Thường khi một tuần là xong nhưng cũng có trường
hợp lâu cả tháng như bài Lửa Từ Bi (1963), hay chỉ một ngày đã hoàn tất rồi thí
dụ bài Thôi Hết Băn Khoăn (1961). Thơ làm xong thì cho đăng báo. Tôi hợp tác
thường xuyên với các tạp chí văn học, như VĂN, BÁCH-KHOA... và các nhà xuất bản
lớn như Lửa Thiêng, An-Tiêm, Nam Chi, Khai-Trí, Nguyễn Đình Vượng.
Riêng nhà Lửa Thiêng, từ 1970 đến nay đã ấn
hành của tôi ba tập
thơ : Ngồi Quán, Đời Vắng Em Rồi Say Với
Ai, Rừng Phong (tái bản) và đang ấn
hành hành tập Kịch-thơ Cô Gái Ma và tập
hồi ký Ta Đã Làm Chi Đời Ta. Mà Nguyễn
Đình Vượng thì đã in tập thơ Cành Mai Trắng
Mộng, tái bản tập thơ Say và tập Kịch thơ Vân Muội.
Quanh năm tôi bận rộn chỉ riêng về việc đăng thơ, in thơ. Đôi khi đăng đàn diễn
thuyết, cũng về thơ nữa. Rồi chuyện dịch thơ của mình sang tiếng Pháp, tiếng Đức,
tiếng Ý, tiếng Anh cũng mất công trình lắm. Các thi sĩ ngoại quốc dịch thơ tôi
sang ngôn ngữ nước họ đều liên lạc với tôi thường xuyên, để dịch không phản lại
tác giả. Thí dụ nữ sĩ Simone Kuhnen ở Bỉ, thi sĩ Kosmas Ziegler ở Áo, nữ sĩ
Edvigc Gorlni ở La-mã v.v... Thư đi từ lại cũng đủ mệt rồi. Còn làm việc gì
khác ngoài Thơ được! Còn thì giờ đâu dạy học cho có nhiều tiền ! Bởi vậy tôi đã nói “làm thơ” đối với tôi là việc chính yếu mặc
dầu đó là một cái nghiệp chứ phải là một
nghề !
Câu
hỏi 3 — Thi-sĩ vừa được trao giải Tuyên-dương
Văn-nghiệp, yêu cầu thi-sĩ cho biết rõ hơn về giải này, vì đây mới là lần đầu
tiên ở Việt-Nam có một giải Tuyên-dương như vậy.
Riêng phần tôi, tôi chỉ biết rằng Trung tâm Văn
bút VN và Tạp chí Bách Khoa là hai cơ quan đã giới thiệu tôi với Phủ Quốc vụ
khanh đặc trách Văn hóa, cả hai đều là cơ quan tư nhân mặc dầu Trung Tâm Văn
Bút Việt Nam là một chi nhánh quốc gia của Hội Văn bút quốc tế.
Lẽ dĩ nhiên hai cơ qnan này đã cố gắng thâu thập
mọi tài liệu về văn nghiệp tôi để chứng minh lời giới thiệu. Điều ấy đã khiến
tôi xúc động vô cùng, xúc động gấp nhiều lần hơn khi được tin “trúng giải” và
khi được trao giải. Thật thế, tôi đã từng là một sáng lập viên của TTVBVN từ
1957, từng là Chủ tịch liên tiếp trong 4 năm (từ 1964 đến 1968). Còn như Tạp
chí Bách Khoa thì Tòa soạn lúc nào cũng coi tôi như bạn thân, và sẵn sàng đăng
tải bất cứ bài nào của tôi, kể cả thơ chữ Nho, thơ ngâm vịnh, tùy bút, hồi ký
v.v...
Câu
hỏi 4 — Xin thi-sĩ cho biết đã ấn
hành những thi-tập nào, kể cả những thi-tập in tại Hà-nội hay ở ngoại quốc.
4-
Nhiều lắm. Nhớ sao hết được. Đại khái có hai tập thơ, một tập Kịch thơ in tại
Hà-nội trước 1945, một tập thơ in tại Việt Bắc khoảng 1947, một tập thơ in tại
Sài Gòn trước hiệp định Genève 1954, và chừng 15 tập khác ở Sài Gòn sau đó.
Tập thơ in gần đây nhất là tập “Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai” mới xuất bản giữa năm 1971.
Ngoài ra phải kể ba tập
thơ có bản dịch Pháp-ngữ đối chiếu, một tập có bản Anh ngữ đều in tại Sài Gòn. Và một tập dịch Đức-ngữ, xuất bản tại Hamburg từ
1966, do nhà Hoffmann und Camp. Tập này
không in nguyên tác chữ Việt, nghĩa
là không có đối chiếu.
5- Tập nào cũng ưa chứ ! Nhưng có có lẽ tôi
thích nhất tập “Rừng Phong” (1954) vì
khi phát hành tập ấy khoảng đầu năm tại Sài Gòn, tác giả của nó đang ở Hà Nội
và chưa có ý định nào về chuyện vào Nam. Thế mà chỉ sáu tháng sau tập-thơ và
người-thơ đã xum họp. Quả nhiên “Rừng Phong” đã báo hiệu một biến chuyển lớn
trong kiếp này của Vũ-Hoàng-Chương.
Câu
hỏi 6 — Sang năm, Quý-Sửu, thi-sĩ có những dự tính nào ?
6- Cũng
nhiều lắm. Nhưng thôi, hãy còn là dự tính thì nói ra làm chi! Có điều chắc chắn
là tôi vẫn “làm thơ” như đã làm từ nhiều năm, từ nhiều kiếp.
Câu
hỏi 7 — Thi-sĩ có nhắn gửi gì cho đồng bào ngoài Bắc không ?
7- Nếu có thể nhắn gửi được thì
còn nói gì nữa. Vì đổi với một thi-nhân, đồng bào của hắn (ở bất cứ miền nào)
cũng cần thiết như hơi thở, như nước uống; người ngoại quốc rất có thể hiểu văn
xuôi Việt-Nam qua các bản dịch, nhưng chỉ người Việt Nam ta mới hiểu trọn vẹn
thơ VN, hiểu bằng rung cảm, bằng tiềm thức, bằng linh-khí của giống nòi...
Trở lại câu hỏi thâu hẹp vào “đồng
bào miền Bắc hiện nay” mà quý đài vừa đặt ra, và đặt với một tầm quan trọng đặc
biệt, tôi có thể trả lời như sau:
Tôi mong mỏi cho đồng bào tôi ở ngoài ấy còn
giữ mãi hồn Thơ, và có nhiều cơ hội xem thơ, đọc thơ, ngâm thơ, làm thơ, đề lắng
mình vào giòng càm-hứng Thơ bất chấp mọi biến thiên lịch-sử. Tôi thiết tha mong
mỏi và truyền thông điều ấy, vì tôi tin rằng bản chất của Thơ là hòa-hài, bản
thề của Thơ là nhất-quán. Chúng ta cùng yêu Thơ, sống chết vì Thơ, ấy là gọi
Hòa-bình đến thật sự, ấy là đưa Thổng-nhất lại gần kề. Tổ tiên chúng ta chẳng
đã làm thơ, ngâm thơ suốt mấy ngàn năm dựng nước đấy ư ? Trong lều tranh, ngoài
nương khoai ruộng lúa, bên khung cửi nong tằm, và cả trên mũi thuyền, trên lưng
ngựa ! Còn như nỗi nhớ niềm thương trong bấy lâu, cũng như giữa phút giây này,
thiết tưởng hồ Kiếm, sông Hồng đã hiểu tôi qua vần điệu, và đang bắt gặp trên
làn sóng âm thanh.
Câu
hỏi 8 — Cảm-tưởng của Thi-sĩ ra sao,
về giải Tuyên dương Văn- nghiệp mà Thi-sĩ vừa mới lãnh ?
8- Ai cũng biết rằng giải Tuyên-dương Văn-nghiệp
đầu tiên này đã do phủ Quốc vụ khanh Đặc
trách Văn hoá tổ chức một phần lớn dư luận tham dự việc đề cử người lãnh giải
và giải đã do Phó Tổng-Thống VNCH vừa trao.
Nhưng đối với riêng tôi, Vũ-Hoàng-Chương đã vừa
được một người đẹp tuyên dương, người đẹp có tên là THƠ hay NÀNG-THƠ, như thế
gian thường gọi.
Vâng, đúng thế ! Dân tộc VN là một dân tộc thi
nhân; ai cũng yêu thơ và làm thơ cả. Bắt đầu phải là Thơ, rồi muốn viết truyện
ngắn truyện dài hay kịch-bản chi chi, thì sau đó đã ! Các văn-hữu của tôi kịch-tác-gia
hay tiểu- thuyết-gia, phê-bình-gia ở bên này hay bên kia dòng sông, đều có thể
xác nhận với tôi điều đó. Nghĩa là toàn thể làng văn VN đều coi NÀNG THƠ như
người tình thứ nhất. Lẽ dĩ nhiên cũng rất nhiều văn hữu, dầu muốn dầu không, đã
phụ tình bỏ rơi Nàng Thơ để theo đuổi cái nghiệp viết truyện hay viết kịch.
Riêng Vũ Hoàng Chương, hơn 30 năm nay, vẫn thủy
chung như nhất, vẫn chỉ có một người tình, vẫn từng giây từng phút lên đường, để
rung động giữa vạn biến một trái tim bất biến.
Người-đẹp nào mà không phải “tuyên-dương”, huống
hồ THƠ lại là “người-đẹp của những người đẹp”.
***
Tuy nhiên, nếu chỉ là chuyện giữa Nàng Thơ và
Vũ-Hoàng-Chương thì hà tất phải đợi đến hôm nay, trên thềm Tết Quý-Sửu này ! Thời
gian tuyên đương hẳn phải mang một ý nghĩa gì chứ.
Phải chăng một điềm báo Hòa-bình đang đi tới,
đang nhích lại gần. Vì lẽ THƠ là sứ-giả, đồng thời cũng là hóa-thân của
HÒA-BÌNH. Người yêu chung thủy của THƠ được tuyên dương, ấy là HÒA-BÌNH phải đến
với dân tộc hắn.
Trong niềm hy vọng lớn lao này, tôi chợt thấy
vinh hạnh cho hắn vô cùng. Và tin rằng hắn không thể không xúc động mãnh liệt.