Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH: YÊN ĐÀI THU VỊNH - SỨ THẦN ĐOÀN NGUYỄN TUẤN (1750- ?)
28 bài thơ tuyệt tác viết về mùa thu tại Bắc Kinh
Đoàn Nguyễn Tuấn đi sứ Trung Quốc năm 1790 trong sứ bộ
Tây Sơn. Sau trận Đống Đa, nhà Thanh phải vất vả, hao tổn khá nhiều vàng bạc để tiếp rước, phục
dịch ông vua Quang Trung giả, do người cháu vua là Phạm Công Trị đóng vai, và hoàng
tử Nguyễn Quang Thùy. Một sứ bộ 158 người
đông đảo chưa từng thấy trong lịch sử, có cả một ban hát bộ 10 người và cống phẩm
còn có hai con voi đực. Các đoàn sứ bộ bình thường chỉ khoảng 30 người. Thời
xưa quan niệm thời chiến dùng Võ, thời bình
dùng Văn. Trên trận tuyến Thi Ca, Đoàn Nguyễn Tuấn là một Thi tướng tài
năng dưới trướng Chánh sứ Phan Huy Ích, khiến
các quan Trung Quốc nể phục. Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn được chép trên vách Hoàng Hạc
Lâu. Không ngại ngùng trước bài thơ kiệt tác Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, mà
thi hào Lý Bạch phải thán phục: “Trước mắt
có cảnh không tả được, Vì thơ Thôi Hiệu ở trong đầu”. Đoàn Nguyễn Tuấn viết luôn bốn bài Vịnh Hoàng Hạc Lâu. Một bài
được Chánh sứ Phan Huy Ích duyệt và cho chép lên vách Hoàng Hạc Lâu (Xem cùng
tác giả bài « Hoàng Hạc Lâu qua thi ca các sứ thần Việt Nam », site
Chimvietcanhnam, diendantheky, tapchivanhoanghean)
Ngày xưa tại các nước Đông Á : Trung Quốc, Việt
Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thi ca là một
phương tiện để kẻ sĩ bồi dưỡng nhân cách và tài năng. ‘Xem văn biết người
‘, do đó thi, phú, chiếu, biểu, văn sách... được dùng làm thi cử để xem xét chí
khí, học vấn, tài năng kẻ sĩ. Khi đi sứ, họ là những thi tướng trên mặt trận
văn hóa. Làm thơ khi đi sứ không phải là ‘chuyện một mình một ngựa bầu rượu túi
thơ ’ hay làm thơ ’để làm sang’, mà phải nhanh tay lẹ trí thù tiếp ứng đối trước
bàn tiệc, đáp lễ thơ tặng của vua quan Trung Quốc, dùng thi ca để kết bạn tình
hữu nghị với người đồng sự giao tiếp, trước một di tích thắng cảnh, người thơ
phải thông thái thi ca Trung Quốc, điển tích thắng cảnh... và phải chứng tỏ tài
năng thi ca của kẻ sĩ nước mình là một nước có văn hóa để không bị cười chê là
man di kém cỏi, dốt nát. Đi sứ triều cống cũng không phải là chuyện nộp thuế,
vì phần ban thưởng của vua quan Trung Quốc cũng không phải là ít. Tùy theo tài
năng các sứ thần ứng đối thi ca, phần quà tặng vua, quan Trung Quốc cũng không kém phần giá trị.
Đoàn Nguyễn Tuấn là anh Đoàn Nguyễn Thị Huệ, anh vợ thi hào Nguyễn Du
đã chứng tỏ cái bản lĩnh đó, ông được Bùi Ứng Thắng một vị quan y Trung Quốc khen ngợi làm thơ ca
tụng : Tài tình duy ngã độc tri quân (Bậc người tài tình chỉ có tôi là biết
ông). Các sứ thần Triều Tiên cũng đọc thơ và ca ngợi . Trong khi đi sứ qua
khỏi thành Trịnh Châu qua đò sông Trăn Vị, xe Đoàn Nguyễn Tuấn ngựa ngã xe lăn nhào, bùn đất lấm cả giày áo, ông
bị đau khắp mình phải nhờ lương y cứu chữa, có lẽ ông quen thân Bùi Ứng Thắng
lúc này. Đến Bắc Kinh vào mùa thu, Đoàn Nguyễn Tuấn đã viết 28 bài thơ tứ tuyệt
vịnh cảnh vật mùa thu ở Yên Kinh. Chùm thơ này được vị y quan nhà Thanh, Bùi Ứng
Thắng người Cát Thủy khen ngợi và hai người trở thành bạn tâm giao.
Thơ nguyên tác chữ Hán, tôi xin dịch thơ toàn bộ 28
bài tứ tuyệt để người đời nay có thể thưởng thức tài năng thi ca Đoàn Nguyễn Tuấn.
Bài Thu Khuê : Gió thu ôm vuốt tay áo, nước bỗng
bắt đầu đóng băng. Phòng sâu vắng vẻ, lạnh lùng khôn xiết. Chữ gấm dệt xong
nhưng tin cá vắng. Đêm đêm những chỉ bói điềm vui bằng hoa đèn lạnh. Bài thơ phảng
phất dư âm người thiếu phụ trông chồng trong thơ thi hào Âu Dương Tu đời Tống bài Điệp luyến
hoa. Chữ gấm do tích nàng Tô Huệ mong chồng được về, nàng dệt nên một tấm gấm
có những dòng thỉnh cầu việc đó dâng lên vua nàng đã được toại nguyện. Người
xưa viết thư trên giấy có in hình con cá ở đầu gọi là ngư thư. Theo thi thoại của
Di Bạch Trai : có người đem biếu đôi cá chép, khi mổ ra thấy trong bụng có
bức thư : cho nên thư tín còn được gọi là tin cá.
PHÒNG THU
Gió thu vuốt áo, nước nhen băng,
Vắng vẻ phòng sâu nỗi lạnh lùng.
Chữ gấm dệt rồi tin cá vắng,
Đêm đêm báo hỷ, bói hàn đăng.
THU KHUÊ
Thu phong bả tụ hốt sơ băng,
Liêu tịch thâm khuê, lãnh bất thăng.
Cẩm tự chức thành lân tín diểu,
Hỷ hoa dạ dạ bốc hàn đăng.
Bài Thu Dạ viết : Đêm thu dằng dặc
nơi chốn đình Bắc. Tiếng kèn, tiếng ốc
không sao nghe nổi. Bồn chồn dưới đèn lạnh trong quán vắng. Trên áo chăn tràn đầy
ánh trăng sao.
ĐÊM THU
Thao thức đêm thu chốn
Bắc đình,
Điệu kèn, tiếng ốc chói thanh âm,
Quán vắng bồi hồi đèn lạnh lẽo,
Tràn ngập trăng sao chiếu áo chăn.
THU DẠ
Thu da thiều thiều ngọn Sóc đình,
Giá thanh giác vận bất kham thinh.
Bồi hồi cô quán hàn đăng hạ,
Y bí tàn phân mãn nguyệt tinh.
Bài Mây Thu:
Sứ đoàn được vua Càn Long cho đi thăm vườn
ngự uyển tại Nhiệt Hà, nơi vua đang nghỉ mát. Tôi có đến thăm vườn này
năm 2009. Năm sắc lộng lẫy trên cành vườn
ngự. Mây ngàn một đám bay về nơi đâu ? Lững lờ nếu vượt mặt nước qua biển Nam.
Cho gửi thơ nặng tỏ nỗi nhớ xa.
MÂY THU
Ngự uyển rực màu mây ngũ sắc,
Một vầng mây lạc dạt về đâu ?
Lững lờ vượt biển Nam trôi mãi.
Cho gửi lòng ta một nỗi sầu.
THU VÂN
Ngũ sắc nồng trang ngự uyển chi,
Nhàn vân nhất phiến khứ hà chi ?
Phù du nhược độ Nam minh thủy,
Nghĩ phụ trùng giam đạt viễn ty.
Bài Thu Sơn: Thu tạnh một màu quét sạch mây trôi. Núi biếc,
đèo xanh phơi bay vệt gấm. Ta muốn chống gậy lên đỉnh núi cao vút. Cúi nhìn trời
đất, ngắm ánh bình minh, ánh hoàng hôn.
NÚI THU
Một màu thu tạnh, chẳng mây trôi,
Núi biếc, đèo xanh gấm vẽ vời.
Chống gậy muốn trèo lên đỉnh núi.
Ngắm ánh dương soi rạng đất trời.
THU SƠN
Tình thu nhất sắc tảo phù vân,
Thúy nghiễn, thương nhai hiện cẩm vân.
Ngã dục huề cùng đăng tuyệt đỉnh,
Phủ khan đại khối ác triêu huân.
Bài Thu Mộng:
Núi sông trong mộng không còn gì là xa cách. Đêm đêm trở về với cảnh thu nơi vườn
cũ. Tiếng xe phóng đâu đây khiến mình bừng tỉnh. Thấy mình vẫn là cánh bèo trôi
nổi ở chân trời.
MỘNG THU
Mộng về sông núi chẳng còn xa,
Trở lại đêm đêm vườn thu nhà.
Tiếng ngựa xe qua lòng tỉnh giấc,
Chân trời phiêu bạt, cánh bèo hoa.
THU MỘNG
Mộng lý sơn xuyên thất trở tu,
Qui lại da dạ cố viên thu.
Kinh xao hà xứ khu xa hưởng,
Y cựu, thiên biên nhất ngạnh phù.
Bài Thu Nguyệt : Hình ta, bóng trăng cộng lại thành đôi. Bốn mươi
năm nay bạn bên song nhỏ. Muôn dặm theo nhau tới triền cát Bắc. Tinh thần vẫn
như thuở soi xuống sông Quỳnh. Bài thơ cho ta biết được Đoàn Nguyễn Tuấn sinh
năm 1750, sinh ở Quỳnh Hải, bên sông Quỳnh tỉnh Thái Bình.
TRĂNG THU
Ta hình, mình bóng cộng song đôi,
Bốn chục năm qua sánh bạn đời.
Muôn dặm theo nhau về đất Bắc,
Sông Quỳnh một thuở vẫn còn soi.
THU NGUYỆT
Ngã hình quân ảnh cộng thành song,
Tứ thập niên lai bạn tiểu song.
Vạn lý tương tùy lâm Sóc mạc,
Tình thần nhất dạng chiếu Quỳnh giang.
Bài Thu Thảo : Thu sang màu cỏ thảy đều lóm đóm. Như tóc người buồn
điểm thêm sợi bạc. Chưa chịu để gió bụi ràng buộc mãi. Tới mùa xuân ấm cỏ lại tốt tươi.
CỎ THU
Thu sang màu cỏ điểm màu sương,
Như tóc người buồn điểm sợi buồn.
Chẳng chịu bụi trần vương vấn mãi,
Xuân sang nắng ấm cỏ xanh rờn.
THU THẢO
Thu lai, thảo sắc tận thành ban,
Điểm xuất sầu nhân mãn nhất ban !
Vị hứa phong trần chung quản thúc,
Dương xuân sinh hậu hảo khai nhan.
Bài Thu Diệp
: Hồng tàn không sức chống với trời băng. Xơ xác lìa cành, xào xạc quanh gối.
Đâu bằng Việt Nam tràn trề sức sống. Mùi thơm vẻ đẹp không rụng theo mùa thu.
LÁ THU
Hồng tàn không sức chống trời băng,
Xạc xào quanh gối lá lìa cành.
Đâu bằng đất Việt tràn sức sống,
Hương sắc thu sang chẳng rụng tàn.
THU DIỆP
Tàn hồng vô lực khống băng thiên,
Tiều tụy từ chi, giáp chẩm biên..
Tranh trự Việt Nam sinh ý hảo,
Bất tùy kim lệnh trụy phương nghiên.
Bài Thu Suất : Giữa trời thu trong trẻo chốn
ải xa, giọt nước đồng hồ lê thê. Lên bờ ao tiếng dế sầu bi xen với tiếng ve lạnh
lẽo. Loài côn trùng bé nhỏ cũng hiểu lòng kẻ đi xa. Gợi mối u hoài chuyển đưa tới
quê nhà.
DẾ THU
Đất khách đêm thu giọt nước buồn,
Bờ ao tiếng
dế lạnh kêu thương.
Côn trùng cũng hiểu lòng chinh khách,
Chuyển mối u hoài đến cố hương.
THU SUẤT
Tuyệt tái thanh thu dạ lậu trường,
Trì đường bi suất gián hàn tương !
Vi trùng diệc giải chinh nhân tứ,
Liêu dẫn u hoài đáo cố hương.
CT:
Đồng hồ: ngày
xưa tính thời gian bằng chiếc hồ bằng đồng nhỏ giọt xuống một cái bình khác,
trong hồ có vạch nước chỉ thời gian, canh một, canh hai..
Bài Thu Thủy : Nước thu trong vắt, tuyệt
không gợn bụi. Đó là gương bạc do Tây Đế còn gọi là Tây Hoàng, thần chủ trì của
mùa thu đúc nên chăng ? Chiều dạo bờ ao, nghiêng thấy bóng mình. Râu tóc đã
khác với lúc ra đi.
NƯỚC THU
Trong vắt nước thu chẳng bụi trần,
Mặt gương Tây Đế đúc nên chăng ?
Chiều dạo bờ ao nghiêng thấy bóng,
Tóc râu đã khác lúc dời chân.
THU THỦY
Thanh thanh thu thủy, tuyệt tiêm trần,
Tây Đế dung thành xuất dã ngân.
Vãn bộ trì đường tà kiến ảnh,
Mãn mi bất tự khứ thời nhân.
Bài Thu Cầm : Trăng lặn bên song the, giọt
ngọc (đồng hồ) trầm trầm. Tiếng tơ đồng hiu hắt thoảng qua rừng phong. Âm điệu
ngàn năm: bài cao sơn lưu thủy. Non cao nước chảy của Bá Nha. Não lòng năm canh
kẻ góc biển chân trời.
ĐÀN THU
Trăng lặn song khuya, giọt ngọc trầm.
Tiếng đồng hiu hắt thoảng rừng phong.
‘Non cao nước chảy’ ngàn năm điệu,
Góc biển chân mây, khách chạnh lòng.
THU CẦM
Nguyệt lạc sa song, ngọc lậu trầm,
Tiêu tiêu đồng vận quá phong lâm.
Cao sơn lưu thủy thiên thu điệu,
Hải giốc thiên nhai, ngũ dạ tâm.
Bài Thu Cúc : Trăm cây xơ xác, cúc vẫn xanh
ngọn. Cúc vàn giỡn sương riêng mọc thành
từng khóm. Trước hoa chợt nhớ tới lúc dưới dậu đông. Đào Tiềm đời Tấn trồng cúc
dưới dậu đông. Hai ba thu nay phụ tình bạn cũ.
CÚC THU
Trăm cây xơ xác, cúc còn xanh,
Một khóm đùa sương, khóm cúc vàng.
Trước hoa chợt nhớ bên hàng dậu,
Mấy độ thu qua phụ bạn lòng.
THU CÚC
Bách thu điêu linh, thặng lục sao,
Lăng sương kim giáp độc thành bao.
Đối hoa, hốt ức đông ly hạ,
Tam lưỡng thu lai, phụ tố giao.
Bài Thu Liễu : Tơ ngắn cành thưa, soi bóng
trên sóng biếc. Chiều đến lả lướt, vì ai mà nhọc sức ? Trên bờ đê cũ, trang điểm
cho trăm hoa lúc xuân sang. Chắc tới lúc ta về, liễu đã cao vài trượng.
LIỄU THU
Tơ ngắn, cành thưa soi sóng biếc,
Chiều về lả lướt, nhọc vì sao ?
Bờ hồ trang điểm trăm hoa nở,
Chắc lúc ta về liễu đã cao.
THU LIỄU
Đoản tuyến, sơ chi ảnh bích đào,
Vãn lai, phất lược vị thùy lao ?
Cổ bi bách đoá xuân sơ quải,
Ưng cặp qui thời cổ trượng cao.
Bài Thu Vũ : Tí tách đầu rèm mưa lúc thưa
lúc nhặt. Một mình không ngủ, muốn dậy lại lười. Cô gái Ngô chớ hát khúc thê
lương ấy: “Mưa thu buồn bã, Chàng thanh tú của ta, sao chẳng về nhà”. Từ đây đến
quê nhà (Giang Nam) còn xa cách muôn trùng.
MƯA THU
Đầu rèm tí tách giọt thưa, nhanh,
Không ngủ, một mình lười chỉ nằm.
Ngô nương chớ hát thê lương khúc,
Giờ cách Giang Nam đến vạn trùng.
THU VŨ
Tích lịch thiềm đầu đạm cánh nùng,
Cô miên bất trước, khởi hoàn dung.
Ngô nương mạc xướng tiêu tiêu khúc,
Thử khứ Giang Nam hựu vạn trùng.
CT:
Ngô nương
khúc vãn: Thu vũ tiêu tiêu, phương lang bất qui.
Giang Nam: do
bài phú Giang Nam của Dữu Tín, nhớ quê hương, Giang Nam trở thành điển tích chỉ
quê nhà.
Bài Thu Phong : Gió lạnh từ phương Tây thổi vào rặng cây
phong chiều. Hiu hắt thổi tan bao đóa hồng trong vườn ngự uyển. Sông Quỳnh càng
xa hơn so với sông Ngô. Mùi vị rau rút cá vượt thảy đều giống nhau. Sông Quỳnh
quê hương Quỳnh Hài của Đoàn Nguyễn Tuấn
càng xa hơn so với sông Ngô; nước Ngô thời Xuân Thu Chiến Quốc, người Việt Nam
gọi Trung Quốc là nước Ngô, ca dao có câu: “Sông Ngô, bể Sở tung hoành”. Người
Nhật Bản cũng gọi chữ Trung Quốc là Ngô
tự. Sông Ngô chỉ các con sông ở Giang Bắc, Giang Nam. Cá vượt rau tần chỉ việc
trở về quê hương qui ẩn, từ quan. Việc từ quan về hưởng thú điền viên, nước Nam
hay Trung Quốc đều giống nhau.
GIÓ THU
Gió Tây hiu hắt thổi rừng phong,
Vườn Ngự tàn rơi mấy cánh hồng.
Sông Quỳnh xa cách sông Ngô mấy ?
Cá vược rau tần một vị cùng.
THU PHONG
Túc khí Tây lai nhập vãn phong,
Tiêu tao suy tán ngự viên hồng.
Quỳnh giang cánh tỷ Ngô gfiang viễn,
Chuyên thái, lô ngư nhất vị đồng.
Bài Thu Hà : Ao mùa thu đã tàn tạ, mùi
hương lạ cũng tiêu tan. Trăng mờ, gió lạnh, bạn cùng quạnh vắng. Vẫn còn rễ sâu
cắm trong bùn. Hàng năm lại nẩy ngó sen như cũ.
SEN THU
Ao thu tàn
tạ, sắc tiêu điều,
Gió lạnh, trăng mờ nỗi quạnh hiu.
Vẫn còn rễ cắm trong bùn đất,
Năm năm lại nẩy ngó thanh tao.
THU HÀ
Sơ y thoát
tận, dị hương tiêu,
Đạm nguyệt thê phong bạn tịch liêu.
Hoàn hữu thân căn nê lý tại,
Niên niên y cựu lộ thanh tiêu.
Bài Thu Địch. Trên đường xe ngựa chạy suốt
ngày vang rền như sấm, mấy tiếng sáo xa vọng tự hướng vầng trăng mọc. Lữ khách
buồn hiu, nằm trùm khăn kín đầu. Vô cớ
bên tai cứ giục giã hoài.
SÁO THU
Xe ngựa đường xa tựa sấm rền,
Bỗng nghe tiếng sáo vọng trăng lên.
Hắt hiu lữ khách đầu khăn kín,
Vô cớ bên tai vọng tiếng buồn.
THU ĐỊCH
Xa mã đồ trung tận nhât lôi,
Kỷ thanh viễn địch nguyệt biên lai.
Cơ nhân sầu cực mông đầu ngọa,
Nhĩ bạn vô đoan sác sác thôi.
Bài Thu Lộ: Hoa sương kết thành cửa sổ gíấy
trống rỗng. Trời đất y hệt như sau cơn mưa ướt dầm. Chợt nhớ lối tùng cúc trong
vườn cũ. Vẫn một sức sống tự nhiên như xưa.
SƯƠNG THU
Sương hoa kết tụ cửa song thưa,
Trời đất như vừa đầm ướt mưa.
Cúc tùng chợt nhớ nơi vườn cũ,
Vẫn còn sức sống tự như xưa.
THU LỘ
Sương hoa kết tụ chỉ song hư,
Thiên địa chân như yêm hấp dư.
Hốt ức cố viên tùng cúc kính,
Nhất ban sinh ý tự như như.
Bài Thu Châm : Vằng vặc sông Ngân soi khắp
sáu phố phường. Sông Ngân Hà hiện rõ vào mùa thu tương truyền đàn quạ rụng lông
đầu để bắt cầu trên sông Ngân cho Ngưu Lang, Chúc nữ gặp nhau. Lòng hiu quạnh
không ngủ được, đứng trên thềm vắng. Tiếng chày đập vải lạnh lùng từ đâu vắng tới.
Đập nát lòng kẻ đi xa quê hương ở ngoài muôn dậm.
TIẾNG ĐẬP VẢI
ĐÊM THU
Vằng vặc sông Ngân sáu phố phường,
Quạnh hiu không ngủ đứng bên thềm.
Tiếng chày đập vải từ xa vẳng,
Đập nát lòng ai vạn dậm trường.
THU CHÂM
Cảnh cảnh tinh hà chiêu lục nhai,
Cô khâm bất mị lập không giai.
Hàn châm hà xứ đinh đông hưởng,
Đảo toái du nhân vạn lý hoài.
Bài Thu Lan : Sương tràn ngập trăm loài cây
cỏ, làm rụng cánh hoa thơm. Hoa Lan là chúa các loài hoa trong chậu vẫn trổ
bông lạ. Khổng Tử cho lan là loài hoa có hương vương giả (Lan vi vương giả
hương). Hãy thử mang đến chốn điện cung Quế đỏ (Mặt Trăng). Quế cũng nở hoa mùa
thu, lan cũng nở hoa mùa thu, cả hai đều là loại hoa quý. So hương, khó khen loại
nào thơm hơn.!
LAN MÙA THU
Sương lan cây cỏ rụng hoa thơm,
Hoa chúa phong lan nở sắc hương.
Hãy thử mang vào cung Quế đỏ,
So hương khó kén loại nào hơn.
THU LAN
Sương xâm bách thảo trụy phương hoa,
Bồn lý hoa vương đối dị ba.
Thí vị chí lai đan quế điện,
Chân hương đối hiệu định nan ta.
Bài Thu Tình, Mùa thu trong sáng: Muôn ánh
hào quang giỡn trong ánh sáng chiều. Ánh nắng hồng điểm trang trăm hoa rực rỡ.
Đẩy song cửa có khách thảnh thơi ngắm cảnh. Chỉ thấy trên trời cánh nhạn bay
ngang.
TÌNH THU
Muôn ánh tường quang lộng nắng chiều,
Trăm hoa trang điểm sắc đua màu.
Đẩy song có khách thi nhân ngóng,
Chỉ thấy lưng trời cánh nhạn cao.
THU TÌNH
Vạn đạo tường quang lộng vãn tình,
Hồng trang bạch tiễn bách hoa minh.
Thôi song hữu khách thư nhàn vọng,
Duy hữu trường không nhất nhạn tình.
Bài Thu sắc, Cảnh sắc mùa thu; Bát ngát trời
cao màu xanh phong kín. Bốn phía đồng nội mông mênh, tùng sam già cỗi. Muốn mời
bàn tay tiên làm thợ vẽ. Lượm hết dáng mùa thu, vẽ thành tranh cuộn lại thành từng
ống tranh bỏ vào hòm khách.
SẮC THU
Bát ngát trời cao một sắc xanh,
Đồng nội mênh mông một góc thành.
Muốn gửi tay tiên ai khéo vẽ,
Góp hết thu dung một bức tranh.
THU SẮC
Đạm đãng tràng thiên nhất bích hàm,
Thương thương tứ dã lão tùng sam.
Họa công dục thỉnh chân tiên thủ,
Liễm tận thu dung nhập lữ hàm.
Bài Thu Ngô: Thu đến sương gieo lá ngô đồng
rụng cuống trôi theo dòng sóng nước bạc.
Thân cây già xơ xác trên bờ đê lạnh. Thương thay Tây đế, Thần coi về mùa thu thật
nỡ vô tình. Chẳng vì chim thiêng, chim phương hoàng mà che chở cho một cành.
NGÔ ĐỒNG MÙA
THU
Lá rụng theo sương trôi sóng bạc,
Tiêu điều gốc lạnh cành bờ đê.
Thương thay Tây đế vô tình nhỉ ?
Chẳng để chim thiêng một cảnh về.
THU NGÔ
Diệp chiến sương uy phó bạch ba,
Tiêu điều lão cán thặng hàn đê.
Khả liên Tây đế vô tình cực,
Bất vị linh cầm tí nhất kha.
CT
Chim thiêng:
tương truyền chim phượng hoàng đậu trên cây ngô đồng.
Bài Thu Lô: Phía Nam viện khách có cái đỉnh
nhỏ xua tan hơi rét. Làn khói nhạt bay lẫn vào đám mây chiều. Căn trần tục của
thân thế phù sinh còn nặng. Dốc sức vào lò lửa đến nay đã ba năm rồi. Đoàn Nguyễn
Tuấn muốn nói mình ra làm quan Tây Sơn từ năm 1787 vì căn trần tục mình còn nặng
nên phải dốc sức vào lò lửa luyện đan đã ba năm nay giống như đạo sĩ luyện đan
làm thuốc trường sinh bất tử.
LÒ SƯỞi MÙA
THU
Phía Nam viện khách đỉnh than hồng,
Mây chiều pha khói nhạt màu lam.
Bởi phù sinh vướng căn trần nặng,
Lò hồng chăm sóc đã bao năm.
THU LÔ
Tiểu đỉnh khu hàn khách viện Nam,
Đạm yên phi nhập mộ vân hàm.
Phù sinh thân thế trần căn mộng,
Lô hỏa cần phao tuế dĩ tam.
Bài Thu Thanh: Thê lương não ruột lọt vào bức
rèm thưa. Trời đất không có tiếng mà ngẫm lúc bổng lúc trầm. Lúc thì yên, lúc
thì gợi ra như vạn mối sầu. Cứ sáng ra, mái tóc lại bạc thêm mấy sợi. Âu Dương
Tu cũng có bài Phú Tiếng Thu tuyệt tác. Bài Thu Thanh của Đoàn Nguyễn Tuấn gợi
vài câu mùa thu thi hào Âu Dương Tu, và kết luận bằng hình ảnh câu thơ Lý Bạch,
mái tóc sớm xanh chiều đã bạc.(Xem bài cùng tác giả Nguyễn Du qua mộ Âu Dương
Tu. Site tapchivanhoanghean, chimvietcanhnam..)
TIẾNG THU
Thê lương não ruột nhập rèm thưa,
Trời đất vô thanh, trầm bổng mà !
Lúc gợi, lúc yên sầu vạn mối,
Sáng ra tóc bạc mái đầu xưa.
THU THANH
Thê thê thiết thiết nhập sơ liêm,
Thiên địa vô thanh khởi phục tiềm.
Bài dẫn u sầu thiên vạn chủng,
Hiểu lai bạch phát sổ hành thiêm.
Bài Thu Phố: Khói liễu đu đưa, gió chiều lạnh
lẽo. Trời sông hiu quạnh chẳng nỡ ngắm nhìn. Vài ba chim âu trên bãi cát giật
mình muốn vùng dậy. Ngư ông đi về bến nước đầy rau tần xanh.
BẾN THU
Khói liễu điều hiu lạnh gió chiều,
Trời sông biếng ngắm cảnh đìu hiu.
Vài chim âu trắng kinh hoàng dậy,
Ngư phủ đi về nơi bến rêu.
THU PHỐ
Liễu yên phi phất vãn phong hàn,
Đạm đãng giang thiên bất nhẫn khan.
Tam lưỡng sa âu kinh dục khởi.
Ngư ông qui khứ lục tần than.
Bài Thu Hà, chữ Hà này là ráng chiều mùa
thu. Ánh thu vạn dậm ở trong bầu ngọc. Rán hồng lả bóng vào trong kinh đô. Trên
hội Bàn Đào, trời cùng vui chung. Cửa trời mở ra như bức tranh treo. Nhìn ráng hồng chiều thu, Đoàn Nguyễn Tuấn tưởng
tượng đến cảnh Tây Vương Mẫu hiến bàn đào, mở tiệc ăn trái đào trên trời. Cảnh
trời đất như chung vui với nhau.
RÁNG THU
Vạn dậm ánh thu ngọc một bầu,
Ráng hồng lả bóng xuống kinh đô.
Bàn đào mở hội trời chung hưởng,
Trời mở như treo một họa đồ.
THU HÀ
Vạn lý thu quang tại ngọc hồ,
Hồng hà đồ
ảnh nhập hoàng đô.
Bàn đào hội thượng thiên đồng lạc,
Xương hạp môn khai quải họa đồ.
Bài Thu Sương viết: Đèn lẻ đêm dài hơi lạnh
thấm áo. Lác đác hoa sương bay phủ quanh mặt. Râu tóc một nửa bạc theo nỗi sầu.
Chẳng cần vị thần sương Thanh Nữ bạn cùng cửa lạnh.
SƯƠNG THU
Đèn quạnh đêm thâu lạnh áo choàng,
Mặt người lác đác phủ hoa sương.
Tóc râu một nửa sầu lên bạc,
Chẳng bạn nàng Thanh chốn cửa hàn.
THU SƯƠNG
Cô đăng dạ vĩnh lãnh xâm y,
Lạc mạc sương hoa táp diện phi.
Mao mấn bán tùy sầu lý bạch,
Mạc tu Thanh Nữ bạn hàn phi.
CT: Thanh Nữ:
theo sách Hoài Nam Tử là vị thần của sương.
Bài Thu
Nhạn: Phía Nam huyện Hành Dương, tỉnh Hồ Nam có dãy Hành Sơn, gồm có 70 ngọn
núi, trong đó có ngọn Hồi Nhạn Phong là đỉnh núi cao nhất. Tương truyền chim nhạn
bay đến đó thì quay về. Mấy bóng chim nhạn sà ở đầu tường. Mộng về Hành Dương bởi
ai nên chậm ? Ân cần cùng người kể chuyện tâm tình. Hãy theo gió Tây mà tìm
cành cũ.
NHẠN THU
Chim nhạn đầu tường thoáng bóng sa,
Hành Dương mong nhớ chậm ai về.
Ân cần tâm sự cùng ai đó,
Quay hướng Tây phong kiếm lối xưa.
THU NHẠN
Sổ cá tường đầu
nhạn ảnh đê,
Hành Dương vi
mộng vị thùy kê.
Ân cần dữ nhĩ
thoại trung khúc.
Hảo tưởng cô
phong mịch cố chi.
Mùa thu Việt
Nam không rõ nét, trên quê hương Việt Nam hai mùa mưa nắng. Không có cảnh rừng thu phong đã nhuốm màu
quan san. Cảnh vật rực đỏ màu lá phong khi sương muối về chen lẫn màu vàng rực
rỡ, trong mưa thu, trong gió heo may. Trong thi ca cổ điển Việt Nam, chúng ta
chỉ biết những bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến: Ao Thu, Thu Điếu, Thu Vịnh thỉnh
thoảng cá vài chiếc lá vàng rơi rụng trên ao thu, hay
hình ảnh cung điện thành quách ngậm
ngùi bên màu cỏ úa : Lối xưa xe ngựa hồn
thu thảo của Bà Huyện Thanh Quan Nguyễn Thị Hinh. Nguyễn Du có bài tả cảnh
mùa thu tại miền núi Vân Nam trong Thanh
Hiên Thi tập. Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương có
những bài thơ tình mùa thu đối đáp nhau chép trong Hương Đình Cổ nguyệt
thi tập, Lưu Hương Ký
và Thanh Hiên thi tập (xem bài cùng tác giả: Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối
tình Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du) nhưng 28 bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn là một chùm
thơ viết về mùa thu thật là đặc sắc, nói lên tâm sự người đi sứ xa nhớ về quê
hương. Xin giới thiệu cùng độc giả những bài thơ tuyệt tác trong kho tàng thi
ca chữ Hán Việt Nam của Đoàn Nguyễn Tuấn viết tại Bắc Kinh để đọc uống trà, ngâm thơ, ngắm hoa cúc mỗi độ thu về.
Paris
7-3-2017
PHẠM TRỌNG
CHÁNH
Tài liệu tham khảo: Thơ Văn Đoàn Nguyễn Tuấn. Hải Ông
Thi Tập. Viện Hán Nôm. Nxb Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1982.