Thứ Bảy, 25 tháng 3, 2017
Lê Mạnh Chiến: Cớ sao đổi tên chim Én thành chim Nhạn?
I. Nỗi băn khoăn khó dứt
Trong một lần
giở cuốn Từ điển Anh Việt (của Ủy ban Khoa học Xã hội, Viện ngôn
ngữ học, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975,
1960 trang, khổ 17 x 25cm), gặp từ swallow, người viết bài này không khỏi
ngỡ ngàng khi nhìn thấy những dòng sau đây:
swallow1 dt (động)
Chim nhạn. One swallow does not make a summer = Một con
nhạn không làm nên mùa xuân.
(Từ swallow
trong tiếng Anh có vài nghĩa khác nhau; swallow1tức là nói về nghĩa thứ nhất, là danh từ chỉ
tên một loại động vật)
Nhóm từ does not
make a summer nghĩa là không làm nên mùa hạ chứ chẳng phải
là không làm nên mùa xuân. Hơn nữa, từ swallow trong
tiếng Anh (là danh từ chỉ tên chim) hoàn toàn đồng nghĩa với từ hirondelle trong
tiếng Pháp và với từ chim én trong tiếng Việt. Vậy, câu “One swallow
does not make a summer” phải được dịch sang tiếng Việt là “Một con én
không làm nên mùa hạ”.
Không ít người
Việt Nam đã từng biết câu ngạn ngữ “Một con én không làm nên mùa xuân”. Nó đã đến
nước ta qua sách báo tiếng Pháp, vốn là câu “Une hirondelle ne fait pas le
printemps”. Ở cuốn Pháp Việt từ điển của học giả Đào
Duy Anh, từ hirondelle được dịch sang tiếng Việt là chim
én, yến 燕, và sau khi nêu vài nghĩa phái sinh khác thì tiếp đến
câu Une hirondelle ne fait pas le printemps, được giải nghĩa
là: Lấy một việc chưa nên kết luận, quyết đoán.
Trong từ điển Robert, tại mục từ hirondelle, câu
ngạn ngữ này được giải thích một cách sáng sủa hơn: un fait isolé, un seul exemple n’autorise pas de conclusion
générale (nghĩa là: một sự việc riêng lẻ, một ví dụ duy nhất
không cho phép rút ra kết luận tổng quát). Cũng có thể diễn giải rằng: không nên quá vội tin vào những biểu hiện bề ngoài; một cá nhân đơn độc không đủ để thực hiện một mục tiêu cao cả.
Đây vốn là một câu danh ngôn triết lý của nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Aristote (384 – 322 tr CN) và đã trở thành ngạn ngữ rất phổ biến ở
các nước châu Âu và nhiều nước khác, những nơi mà mỗi năm đều có một mùa xuân
rõ rệt. Người Nga cũng có câu одна ласточка весны не делает; người
Trung Hoa thì nói rằng, độc yến bất thành xuân 獨燕不成春,
hoàn toàn tương ứng với câu trong tiếng Pháp. Chim én di cư về phương nam để
tránh rét, sang mùa xuân thì trở về phương bắc, xuất hiện ở miền nam nước Nga
và ở hầu khắp các nước Châu Âu nhưng sang mùa hạ mới về đến nước Anh, nên câu
ngạn ngữ này ở xứ sương mù cũng khác một chút so với tiếng Pháp hoặc tiếng Nga.
Hẳn là các
soạn giả của cuốn Từ điển Anh Việt kia đã biết rõ câu ngạn ngữ
tiếng Pháp nọ cùng với lời dịch ra tiếng Việt quá quen thuộc nên đành phải dịch
chữ summer (nghĩa là mùa hạ) thành
ra mùa xuân. Có thể thông cảm với lời dịch sai này, nhưng một câu ví
dụ nêu trong từ điển mà phải dịch sai một từ thì có nên hay không? Một điều
đáng băn khoăn hơn nữa là, họ đã dịch từ swallow (tương đương với hirondelle)
thành chim nhạn rồi đặt nó vào câu ngạn ngữ “Một con nhạn không làm nên mùa xuân”. Đem câu này dán
lên thanh tìm kiếm của Google trên máy tính, độc giả sẽ không tìm thấy một văn
bản nào viết như thế, mà chỉ gặp rất nhiều văn bản có câu “Một con én không làm nên mùa xuân” hay “Một cánh én không làm nên mùa xuân”. Nghĩa là,
không ai chấp nhận việc đổi ÉN thành NHẠN, bởi vì Nhạn và
Én là hai loại chim khác nhau. Ca dao đã có câu: Nhạn về biển bắc
Nhạn ơi/ Bao thuở Nhạn hồi để Én đợi trông. Việc đổi Én thành Nhạn thì sai
hoàn toàn, tệ hơn việc đổi Gà thành Vịt. Câu ngạn ngữ kia vẫn mãi mãi phải dịch
là Một con én không làm nên mùa xuân.
II. Én và nhạn
trong trong tâm thức người Việt
1.Chim én –
biểu tượng của mùa xuân
Đối với mọi
người Việt Nam, Én (hoặc Yến 燕, theo Hán ngữ) là một loại chim rất quen thuộc. Sắp đến
mùa lạnh, chim én lặng lẽ rời khỏi “bản quán” để tránh rét, ít khi bay
thành từng đàn. Chỉ đến mùa xuân ấm áp chúng mới rủ nhau lũ lượt về “cố hương”
tạo nên biểu tượng của mùa xuân, và là hình ảnh hết sức quen thuộc trong tâm
trí mọi người: Ngày xuân con én đưa thoi (Truyện Kiều). Người
nông dân theo dõi cách bay lượn của chim én để “dự báo thời tiết”, và chim én
đi vào câu tục ngữ: Én bay thấp, mưa ngập bờ ao / Én bay cao, mưa rào lại tạnh.
(Theo sách Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan,ở
đoạn nói về Khí tượng và lao động sản xuất).
Trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du còn nhắc đến chim én ở một số câu thơ khác, với hình tượng chim
én để tả tình tả cảnh mà thật khó dùng thứ khác để thay thế: Thiếp như
con én lạc đàn (câu 2117); Xập xè én liệng lầu không
(câu 2274). Chim én có miệng rộng, cằm bạnh, cho nên hàm én (trong
Hàn ngữ là yến ham 燕頷) là một đặc điểm về tướng mạo toát
lên vẻ uy nghiêm của một võ tướng. Ban Siêu (32 – 102, danh tướng thời Đông
Hán) thì có cổ hùm hàm én (yến hạm hổ cảnh); Trương Phi (? –
221, dũng tướng thời Tam quốc) thì có râu hùm hàm én (yến hạm
hổ tu). Cái hàm én của Từ Hải đã được Nguyễn Du nhắc đến hai lần
trong Truyện Kiều: Râu hùm, hàm én, mày ngài (câu 2167)
và Hãy còn hàm én mày ngài như xưa (câu 2274)
Khi chim én
được gọi là yến, lại đi liền với anh (chim vàng anh)
thì thường để diễn tả quang cảnh đông vui nhộn nhịp, có khi mang sắc thái “trăng
hoa”, như ở các câu trong Truyện Kiều: Gần xa nô nức yến
anh (câu 45); Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh (câu
64); Quá chiều nên đã chán chường yến anh (câu
514); Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai (câu
944) Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh (câu 1098);
hoặc: Điều đâu lấy yến làm anh
(câu 955); Quyến anh rủ yến sự này tại
ai ? (câu 1180).
Chim én có mặt
trong vô số bài hát mừng xuân. Nó đã là đề tài của các nhạc sĩ nổi tiếng. Chỉ cần
kể tên một số bài như Cánh én tuổi thơ của Phạm Tuyên,
Tạm biệt chim én của Trần Tiến, Mùa chim
én bay của Hoàng Hiệp, Những cánh én mùa xuân của
Nguyễn Hiền; Khi chim én về của Võ Công Anh … cũng đủ thấy
chim én thân thiết với các nhạc sĩ như thế nào.
Các nhà nhiếp
ảnh và các họa sĩ không thể không chú ý đến chim én. Ở Trung Quốc, Xuân
phong yến hỷ 春風燕喜 (Én mừng gió xuân) là một chủ đề lớn trong hội họa suốt
nhiều thế kỷ, nổi tiếng nhất về chủ đề này là tác phẩm của Lữ
Kỷ 呂紀(1477
- ?), họa sĩ lừng danh thời Minh. Loạt tranh này đã từng lưu hành ở nước
ta. Hiện nay, một số bức tranh thuộc chủ đề này đang được thêu hoặc
in lại vì có nhiều người ưa chuộng.
Thật khó tìm
thấy một loại chim nào khác đi vào tâm thức người Việt sâu xa hơn chim Én.
Nó có mặt trong ca dao, tục ngữ và ở mọi lĩnh vực nghệ thuật khác như văn, thơ,
nhạc, họa.
2. Chim nhạn
và bóng dáng của nó trong thơ ca
Nhạn không gần
gũi với con người như én. Nhiều người chỉ nghe nói đến chim nhạn nhưng không biết
rõ về nó. Nhưng trong văn thơ và ca dao, sau chim én thì chim nhạn được nói đến
nhiều hơn các loại chim khác. Bởi vậy, việc tra cứu trong sách vở để biết rõ về
chim nhạn là điều cần thiết.
a). Theo Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus
Của, Imprimerie REY CURIOL & Cie
Saigon, 1896:
Nhạn = Thứ chim giống con ngỗng.
b) Theo Từ điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập,
Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài gòn, 1951:
Nhạn = giống chim loài vịt trời.
Nhạn tín = tin do chim nhạn đem tới (lấy tích Tô Vũ bên Tàu xưa
sang sứ Hung- nô, bị đày, phải buộc thư vào chân
chim nhạn để nhắn tin về cho vua Hán).
c) Theo Việt nam tân từ điển, Thanh Nghị,
Nxb Thời thế, Sài gòn, 1952
Nhạn = chim thuộc loài vịt, cũng gọi là mòng
Nhạn tín = tin nhờ con chim nhạn đem đến (theo tích Tô Vũ bị đày, viết
thư vào lụa buộc vào chim nhạn đưa về cho vua). Thơ có câu: Ngày
sáu khắc nghe tin nhạn vắng .
d) Theo Từ điển Việt Nam, Lê Văn Đức – Lê Ngọc
Trụ, Nhà sách Khai trí, Sài gòn, 1970.
Nhạn = con mòng hay chim mòng, loại chim giống như vịt, hay bay xa:
Nhạn
về biển bắc nhạn ôiBao
thuở nhạn hồi để én đợi trông (Ca dao)
e) Theo Từ điển Việt – Pháp (Dictionnaire
Annamite – Français), J.F.M. Génibrel,
Imprimerie de la Mission à Tân Định, Saigon, 1898
NHẠN 雁=
Oie sauvage ( =Ngỗng trời)
f). Theo Từ điển Việt – Pháp phổ thông, Đào
Văn Tập, Nhà sách Vĩnh – bảo, Saigon, 1950
Nhạn = Oie sauvage ( =Ngỗng trời)
g) Theo Việt – Pháp từ điển, Đào Đăng Vỹ,
Nhà sách Nguyễn Trung, Saigon, 1970
Nhạn
(mòng) = Oie sauvage ( =Ngỗng trời)
Ngày sáu khắc mong tin nhạn vắng (Cung oán)
Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa (Kiều)
Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa (Kiều)
h) TheoHán – Anh song giải Tân Hoa tự điển (Tự điển
Tân Hoa, giải thích bằng Hán ngữ và Anh ngữ), Thương vụ ấn thư quán Quốc tế
hữu hạn công ty, Bắc kinh, 2000
雁(鴈), 大雁,鸟名, 多指鴻雁, 羽毛褐色, 腹部白色, 嘴
扁平,
腿短,
群居
在水边. 飞时排列成行. 是候鸟. wild
goose; goose, usu.hóngyan, any of various brown and
white-bellied aquatic birds with a flat bill and short legs, living
by waterside in groups, and flying in one-line flocks. It is migratory
bird.
Dịch: Nhạn = ngỗng hoang dại, thường chỉ hồng nhạn, là mọi
loài thủy cầm lông nâu, bụng trắng có mỏ bẹt và chân ngắn, sống ven các
vùng nước, thành từng đàn, bay theo từng nhóm thành một hàng. Đây
là loại chim di cư.
i). Theo Từ điển Wikipedia Hán ngữ và Anh ngữ trên
mạng Internet thì Nhạn 雁 có tên Latin là Anser, loài tiêu biểu nhất
có tên là Anser anser, tên tiếng Anh là Grey goose, Greylag goose
(Ngỗng xám), có khi cũng gọi là Anser, nặng khoảng 2,5 – 4,1kg.
Trong
sách Chim Việt Nam tập I (Nxb Khoa học & Kỹ thuật, HN,
1975), tại trang 110, GS Võ Quý cho biết: loài Anser
anser có tên tiếng Việt là Ngỗng trời (đừng nhầm với Thiên
nga), trọng lượng 2,6 – 6,0kg, về mùa đông, loài này có nhiểu ở vùng đồng
bằng gần bờ biển (về phía nam, đến Thừa Thiên).
Như vậy, tất
cả các từ điển ở nước ta từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1970 đã diễn giải về chim nhạn
đúng như nghĩa của từ Nhạn 雁trong Hán ngữ và phù hợp với ý nghĩa biểu tượng của nó
trong thơ văn Việt Nam. Đó là một giống chim thuộc họ Vịt (Anatidae), sắp
đến mùa rét thì bay thành hàng dài xuống phương nam để tránh rét, kiếm ăn ở ven
biển, ở ven sông, ở các hồ đầm hoang vắng. Xuất phát từ truyện Tô
Vũ thời Hán, chim nhạn đã đi vào văn thơ Việt Nam với nghĩa bóng là phái viên
đưa thư (như chú giải trong một số từ điển kể trên):
Nhạn
=Ngỗng xám = Ngỗng trời
Mây giăng ải bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non nam bặt tiếng hồng
(Nguyễn Đình Chiểu, trong
bài Xúc cảnh)
Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông
rền.
(Nguyễn Gia Thiều, trong Cung oán ngâm
khúc)
Thấy nhạn luống tưởng thư
phong,
Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn
sàng.
(Đoàn Thị Điểm,
trong Chinh phụ ngâm)
Tin nhạn vẩn, lá thư bài,
Đưa người cửa trước, rước người
cửa sau
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nhiều khi chim nhạn là hình tượng
thích hợp để đưa vào những câu thơ tả cảnh, tả tình, như Nguyễn Du đã mấy lần
sử dụng trong Truyện Kiều:
Buồn trông phong cảnh quê người.
Đầu cành quyên nhặt, cuối trời
nhạn thưa
và:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy
niên.
Hoặc như trong truyện thơ khuyết
danh Bích câu kỳ ngộ
Những là én bắc nhạn nam,
Cánh hoa mặt nước biết làm sao
đây.
Và cả trong những câu ca dao
trữ tình, lãng mạn:
Nhạn về biển bắc nhạn ơi
Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông!
Hay:
Nhạn nam én bắc lạc bầy
Biết bao giờ đặng duyên vầy ái ân
3. Những nét tương phản giữa nhạn và én
Nhạn và én
là hai loại chim khác nhau hoàn toàn về mọi đặc điểm, chúng tạo thành một cặp
tương phản. Trước hết, về độ lớn của thân thể, chúng khác xa nhau, có trọng lượng
chênh lệch nhau khoảng 100 lần. Loài nhạn nhỏ nhất cũng có trọng lượng từ
1,2 đến 1,6kg, còn loài én nhỏ nhất chỉ năng 10 – 20g; Loài nhạn lớn nhất có thể
nặng tới 6kg nhưng loài én lớn nhất chỉ nặng không quá 60g. Nhạn bay rất cao
thành hàng dài thẳng tắp, trong khi én bay lượn rất thấp không theo hàng lối
nào cả. Chim nhạn mò cua bắt cá dưới nước, còn chim én thì săn bắt muỗi và các
loại côn trùng nhỏ bé trên không. Người ta thường thấy từng đàn chim nhạn trên
trời vào mùa thu, khi chúng bắt đầu bay về phương nam để để tránh rét, nhưng lại
được ngắm nhìn từng đàn chim én bay lượn về mùa xuân khi mùa rét đã trôi qua. Nhạn
và én thật khó gặp nhau, dường như chúng luôn luôn ở hai phương trời cách biệt.
Ở miền bắc nước ta, cuối mùa thu, khi chim nhạn từ phương bắc bay về thì chim
én (chịu rét kém hơn) đã phải tìm đến nơi xa hơn, ấm hơn. Bởi thế cho
nên, trong bài Cảm thu, tiễn thu, thi sĩ Tản Đà đã viết:
Nhạn
về én lại bay đi,Đêm
thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Giữa nhạn và
én có những đặc điểm tương phản như vậy cho nên, trong thơ ca, mỗi khi nhạn
và én cùng được nhắc đến trong một tình huống, chúng đều đứng ở những vị trí
tương phản, ví dụ như trong các câu thơ: Đổi thay nhạn yến đã
hòng đầy niên; Nhạn về én lại bay đi hay: Những là én bắc nhạn
nam, hoặc như trong ca dao:
Nhạn
về biển bắc nhạn ơi / Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông.và: Nhạn nam én bắc lạc bầy / Biết bao giờ lại duyên vầy
ái ân
III.
Chim én đã bị đổi tên thành chim nhạn
Trong tất cả
các từ điển Pháp -Viêt và Việt –Pháp lưu hành từ những năm 1970 về trước,
từ Én trong tiếng Việt được dùng để dịch từ Hirondelle trong tiếng Pháp. Theo
chiều ngược lại, từ Hirondelle được dịch sang tiếng Việt bằng từ Én, với sự nhất
trí của mọi người. Đối với từ Swallow trong tiếng Anh cũng vậy, vì nó hoàn toàn
tương đương với từ Hirondelle nên cũng luôn luôn được dịch sang tiếng Việt bằng
từ Én. Nghĩa là: Hirondelle = Swallow = Én. Nhưng, có lẽ vì GS
Lê Khả Kế (một nhà sinh vật học và một người biên soạn từ điển) chủ trương đổi
tên chim Én thành chim Nhạn, khi ông khẳng định rằng Hirondelle = Swallow
= Nhạn thì tất cả những người biên soạn từ điển tiếp sau đều phụ họa theo.
Sau đây là những thí dụ cụ thể:
Tất cả các
cuốn Từ điển Anh- Việt và Từ điển Việt- Anh được
biên soạn từ năm 1975 đến nay đều dịch swallow = chim nhạn, và ngược
lại: nhạn = swallow
Có thể kể một
số cuốn như:
a). Từ điển sinh học Anh- Việt, Nxb Khoa học
& Kỹ thuật HN, 1976
b). Từ điển Anh- Việt, Lê
Khả Kế, Nxb Khoa học Xã hội, 1997
c). Từ điển Anh -Việt, Đại học ngoại ngữ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997
d). Từ điển Anh- Việt, Phan
Ngọc chủ biên; Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995
e). Từ điển Anh
-Viêt, Viện Ngôn ngữ học (Hồ Hải Thụy, Chu Khắc Thuật, Cao Xuân
Phổ), Nxb TP Hồ Chí Minh, 1994
f). Từ điển Việt – Anh,
Viện Ngôn ngữ học (Đặng Chấn Liêu, Lê Khả Kế, Phạm Duy Trọng), Nxb TP Hồ
Chí Minh, 1997
g). Từ điển Việt - Anh , Bùi Phụng, Nxb Thế giới, HN,
1996
Tất cả các cuốn Từ
điển Pháp - Việt và Từ điển Việt-Pháp được biên soạn
từ năm 1975 đến nay đều dịch hirondelle = chim nhạn, và ngược lại: nhạn
= hirondelle
Cụ thể, điều
đó đã xẩy ra trong các từ điển sau đây
a). Từ
điển sinh học Pháp Việt, Lê Khả Kế, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1981
b). Từ điển
Pháp – Việt, Viện Khoa học Xã hội, Lê Khả Kế
chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991
c). Từ
điển Việt –Pháp, Viện Ngôn ngữ học, Lê Khả Kế, Nguyễn Lân, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989
Các cuốn Từ
điển tiếng Việt đều mô tả chim Nhạn đúng như chim Én mà chúng ta vẫn thấy:
a).
Theo Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, (In lần thứ hai,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977): nhạn = loài chim trời thuộc bộ sẻ, đuôi dài chẻ đôi, mỏ ngắn, thường làm
tổ trên hang đá hay bay từng đàn về vách đá
b). Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học,
Hoàng Phê chủ biên, (tái bản nhiều lần):
nhạn = chim nhỏ di cư, cánh dài nhọn,
đuôi chẻ đôi, mỏ ngắn, thường bay thành đàn
c). Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân, Nxb TP Hồ
Chí Minh, 2000:
nhạn= loài chim trời thuộc bộ sẻ, đuôi dài chẻ đôi,mỏ ngắn; Nhạn
bay cao mưa rào lại tạnh, nhạn bay thấp mưa ngập bờ ao; nhạn tín
= (Theo truyền thuyết, Tô Vũ đời Hán bị giam ở đất Hung-nô viết thư buộc vào chân chim nhạn
gửi về cho vua) Tin tức (cũ) .
d).Theo Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb
Văn hóa – Thông tin, 1999:
nhạn= chim nhỏ, cánh dài nhọn, đuôi chẻ đôi, mỏ ngắn, bay thành
đàn
Trong tất cả
các từ điển về tiếng Việt từ cuốn đầu tiên (Đại Nam quấc âm tự vị, cuối
thế kỷ 19) đến mọi cuốn khác in trước những năm 60 của thế kỷ 20 thì Nhạn chính
là Ngỗng trời. Nhưng sau đó, trong bốn quyển từ điển vừa kể (3 quyển
do Viện Ngôn ngữ học bảo trợ) thì Nhạn lại là loại chim mà trước đây
có tên là Én. Lời diễn giải trong các quyển ấy, kết hợp với sự xác
nhận nhạn = hirondelle = swallow trong các cuốn từ điển Anh
–Việt, Việt –Anh, Pháp – Việt, Việt – Pháp, cộng với việc đổi Én thành Nhạn trong
các câu danh ngôn và ca dao (như GS Nguyễn Lân và GS Lê Khả Kế đã
làm) đã xác nhận điều đó. Nghĩa là loại chim mà bao đời nay người Việt vẫn gọi
là Én thì nay đã được các nhà ngôn ngữ học đổi tên thành Nhạn.Tuy
nhiên, hình như bây giờ Nhạn không còn là biểu tượng của mùa xuân nữa vì không
thấy từ điển nào nhắc đến điều đó.
Các sách
chuyên khảo về Chim Việt Nam hiện có đều không nói đến chim
én và không hề nhắc đến nó mặc dầu đó là loài chim hết sức quen thuộc ở nước
ta. Cụ thể, các sách đó là
a). Chim
Việt Nam – Hình thái và phân loại, Võ Quý, Nxb Khoa học & Kỹ
thuật, Hà Nội (tập I, 1975; tập II, 1981). Hai tập sách này dày hơn 1000
trang, mô tả khá kỹ các loài chim ở nước ta, gồm hơn 1000 loài, có minh họa
bằng hình vẽ đen-trắng. Sách này không nói đến chim Én, mà có một mục viết
về Họ Nhạn – Hirundinidae. Vì Hirundinidae là họ của Hirondelle trong tiếng
Pháp hoặc Swallow trong tiếng Anh, cho nên, người viết bài này biết rõ rằng, đó
chính là Họ Én trước đây nhưng nay đã bị đổi thành Họ Nhạn. Sách này cho biết:
Họ Nhạn gồm
các loài chim nhỏ cỡ bằng chim sẻ. Cũng như yến, nhạn là những loài
chim chuyên sống trên không, thân có hình thuôn, cổ ngắn, đầu tròn, mỏ dẹp, ngắn,
hình tam giác và có thể há được rất rộng. Kiểu cấu tạo mỏ như thế giúp cho nhạn
bắt mồi dễ dàng trong không trung. Giò nhạn ngắn, ngón chân yếu nhưng móng chân
khá phát triển và cong. Cánh nhạn rất dài, nhọn và có 9 lông cánh sơ cấp thứ nhất
rất bé. Đuôi có 12 lông; ở phần lớn loài, hai lông đuôi ngoài cùng dài hơn hẳn
các lông khác. Bộ lông thường mượt, chủ yếu là màu đen ánh thép và màu trắng.
Chim đực và chim cái có bộ lông giống nhau hay gần giống nhau.
Các loài
nhạn đều bay rất giỏi và rất nhẹ nhàng. Chúng có thể đậu ở cành cây, ở vách đá,
vách tường hay trên mặt đất nhưng không đi được hay đi rất khó khăn. Thức ăn của
nhạn là côn trùng nhỏ mà chúng bắt trong khi bay. Nhạn thường làm tổ ở vách đá,
vách tường và đôi khi làm tổ trên cây. Mỗi lứa đẻ 4 – 6 trứng.
Họ Nhạn gồm
khoảng 75 loài phân bố rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam có 10 loài thuộc 3 giống.
Ghi chú
Ở đây, tác giả dùng từ yến để chỉ loại chim có bề
ngoài rất giống chim én, có tên bằng tiếng Anh là Swift, (tiếng
Pháp là Martinet, tiếng Hán là Vũ yến 雨燕), hợp
thành Họ Apodidae (= Swift family) mà Trung Quốc gọi là Họ Vũ Yến, ở Việt
Nam hiện nay đang gọi là Họ Yến.
b). Chim
Việt Nam, Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải, Karen Philipps, Nxb Lao động – Xã
hội, Hà Nội, 2000.
Sách này do
chương trình Bird Life International tại Việt Nam tổ chức biên
soạn và phát hành, với sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới (World
Bank) và Hiệp hội Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (International
Union for Conservation of Nature). Phần mô tả các loài chim ngắn gọn, có 85
trang ảnh màu mô tả hơn 500 loài chim. Dưới đây là vài hình ảnh của
“chim nhạn” (hàng ngàn năm qua được gọi là chim én) theo sách này.
IV. Có
nên đổi tên chim én thành chim nhạn hay không?
Điều gì khiến
người ta đổi tên của chim Én?
Én (tương
ưng với Hirondelle, Swallow vàYến 燕 (trong Pháp ngữ, Anh ngữ và Hán ngữ)
là loại chim nhỏ gồm nhiều giống, rất nhiều loài, bằng cỡ chim sẻ hoặc nhỏ hơn,
là nhóm tiêu biểu của họ Hirundinidae mà trước đây người Viêt gọi là họ Én mà
khoảng hơn 40 năm gần đây lại đổi thành họ Nhạn. Chim Én đi lại rất kém, cũng
không bơi được nhưng bay rất giỏi, sống nhờ tài bay lượn để bắt bọn côn trùng
nhỏ trên không. Mọi hoạt động của chúng như bắt mồi, rỉa lông, kể cả ngủ và
giao phối đều diễn ra trong lúc bay. Suốt một thời gian rất dài, người ta
coi mọi loài chim có những đặc điểm bên ngoài như vậy đều thuộc Họ Én, bao gồm
cả một số loài có khả năng gắn tổ vào vách đá bằng chất keo tiết ra theo nước bọt.
Trong thế kỷ 20, người ta mới khám phá ra rằng, những loài chim có nước bọt
dính ấy và chim Én không có quan hệ họ hàng với nhau. Chỉ vì điều kiện sống giữa
chúng với chim Én giống nhau nên đã diễn ra sự tiến hóa hội tụ (convergent
evolution) khiến cho chúng có những biểu hiện bề ngoài giống như chim Én,
nhưng về bản chất sinh vật học thì khác hẳn, thể hiện rõ nhất ở cấu trúc
ADN. Chúng có tên chung bằng tiếng Anh là Swift, tiếng Pháp là Martinet,
tiếng Hán là Vũ yến 雨燕. Vì nhóm chim này thực chất không phải là Én nên
người ta đã tách chúng ra khỏi Họ Én để xếp vào họ Apodidae
hay Swift family (Trung Quốc gọi là họ Vũ yến) rồi ghép với họ
Trochilidae (họ Chim ruồi), hợp thành bộ Apodiformes. Trong họ
Apodidae này có một số loài thuộc phân họ Collocaliini (người
Anh – Mỹ gọi là Swiftlet, người Pháp gọi là Salangane, người
Hán gọi là Kim ti yến 金丝燕, tức là Yến tơ vàng,
người Nhật viết bằng chữ Hán là Huyệt yến 穴燕,
nghĩa là Yến hang) làm tổ gần như hoàn toàn bằng những sợi
keo rút ra từ nước bọt. Người Trung Hoa gọi tổ yến ấy là yến oa 燕窩 hoặc
yến sào 燕巢
(tiếng Anh là Edible bird's nest, tiếng Pháp là Nid
d’hirondelle). Từ hơn 400 năm qua, họ đã coi đó là món ăn rất quý. Giá trị
của các loại tổ yến cũng rất khác nhau. Tổ yến của loài Aerodramus
fuciphagus, còn gọi là Collocalia fuciphaga (tiếng
Anh là Edible-nest Swiftlet, tiếng Pháp là Salangane à nid
blanc, tiếng Hán là Trảo-oa Kim ti yến, nghĩa
là Yến tơ vàng Java) được coi là quý nhất.
Vì muốn phân
biệt rạch ròi giữa Én (còn gọi là Yến, = Hirondelle = Swallow) nên các nhà ngôn
ngữ học và sinh vật học nước ta đã đổi Én thành Nhạn và dành tên Yến để
chỉ các loài Swift mà người Hán gọi là Vũ yến. Chim Én vốn có
mặt trong ca dao và danh ngôn, nay bị đổi thành Nhạn, rồi họ mô tả chim Nhạn
theo “quy định” mới, đúng như loại chim có tên là Hirondelle trong tiếng
Pháp. Mọi ý niệm về chim Nhạn (sứ giả đưa tin) đã được định hình từ bao đời nay
đều bị xóa bỏ để nhường chỗ cho những quy định của họ về chim “Nhạn mới”.
Những
rắc rối bỗng xuất hiện do việc đổi tên Én thành Nhạn
Chim Én đã
được định hình rõ nét trong tâm thức của mọi người, đã là hình tượng quen thuộc
trong những câu ca dao, những câu thơ nổi tiếng. Đổi tên Én thành Nhạn thì âm
hưởng và tính truyền cảm của câu thơ sẽ khác hẳn, trở nên xa lạ, lạc lõng. Vả lại,
ca dao và những câu thơ nổi tiếng của tiền nhân đều đã đi vào lịch sử, ai có
quyền sửa đổi? Chim Nhạn biểu trưng cho sứ giả đưa tin từ người phương
xa, đã có chỗ đứng đẹp đẽ trong văn thơ rồi. Trong thơ và ca dao, nhiều khi Én
và Nhạn cùng đối diện nhau, bởi vậy, khi đã đổi En thành Nhạn thì cũng phải đổi
Nhạn thành cái tên gì đó. Thế là tạo nên sự lộn xộn lung tung. Câu danh ngôn
triết lý sâu sắc nhưng giản dị “Một con én không làm nên
mùa xuân “ của nhà hiền triết Hy Lạp cách đây 24 thế kỷ, đã trở thành
ngạn ngữ quen thuộc ở khắp Châu Âu và trên thế giới, khi bị GS Lê
Khả Kế đổi thành Một con nhạn không làm
nên mùa xuân thì trở nên gượng ép, vô nghĩa, bởi vì từ bao
đời nay có ai nghĩ đến mối liên hệ giữa chim Nhạn (ngỗng trời) và mùa
xuân đâu. Còn GS Nguyễn Lân đổi hai câu Én
bay thấp, mưa ngập bờ ao / Én bay cao, mưa rào lại tạnh thành
ra Nhạn bay cao, mưa rào lại tạnh / Nhạn bay thấp, mưa
ngập bờ ao thì quả là đã xuyên tạc câu ca dao phản ánh một kinh
nghiệm dân gian. Bởi vì Nhạn là con ngỗng trời, chẳng ai
thấy nó tung tăng bay lượn trước mắt mọi người nên không thể có mặt trong
hai câu ấy. GS Nguyễn Lân còn cho biết rằng, nhạn tín (hay thư
nhạn) nghĩa là tin tức và chú giải: “Theo truyền thuyết, Tô Vũ đời Hán bị giam ở đất
Hung-nô viết thư buộc vào chân chim nhạn gửi về cho vua”. Ngay trước
đó, ông đã xác quyết: “nhạn là loài chim trời thuộc bộ sẻ,
đuôi dài chẻ đôi, mỏ ngắn”. Đó chính là con chim mà từ nhiều thế kỷ
người ta đã gọi là Én. Thử hỏi, ai có thể buộc thư vào đôi chân nhỏ xíu như cọng
cỏ và ngắn ngủn của một con chim nặng 50 – 60g để nhờ nó chuyển đi xa hàng ngàn
dặm?
Cứ
theo các vị Nguyễn Lân và Lê Khả Kế, phải thay Én bằng Nhạn như
họ đã làm mẫu trong các cuốn từ điển kia thì ắt phải xẩy ra nhiều điều rắc
rối, nan giải. Riêng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã năm lần nhắc đến
Én, tám lần nói đến Yến (cũng là Én), nếu phải thay các từ Én và Yến bằng
Nhạn thì sẽ có những câu như: Xập xè nhạn liệng lầu không;
Thiếp như con nhạn lạc đàn, …,Từ Hải sẽ có tướng mạo Râu
hùm, hàm nhạn, mày ngài. Còn gì là thơ của Nguyễn Du nữa đâu!
Đến
câu Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên thì gặp rắc rối to: yến
thì đổi thành nhạn, còn nhạn (khác hẳn yến) thì nay gọi là gì? Gọi là Ngỗng trời
chăng? Có lẽ chỉ nên gọi là Ngỗng để cho câu thơ vẫn có 8 chữ? Lúc đó, sẽ
có hai câu:
Phận bồ từ vẹn chữ
tòng,Đổi
thay ngỗng nhạn đã hòng đầy niên.
Lại thử
noi gương hai vị giáo sư, đổi Én thành Nhạn (mới) và đổi Nhạn (cũ)
thành Ngỗng thì sẽ được các câu ca dao trữ tình như sau:
Ngỗng về biển bắc ngỗng ơi
/Bao thuở ngỗng hồi để nhạn đợi trông!
và:
Ngỗng nam nhạn bắc
lạc bầy / Biết bao giờ đặng duyên vầy ái ân
Có thể chấp
nhận sự sửa đổi như thế hay không?
Phải khẳng
định rằng, những câu thơ của các thi nhân nổi tiếng cùng với những câu ca
dao có nhắc đến nhạn và én (hoặc yến) đều rất hợp cảnh hợp tình, không hề
sai, cho nên không thể sửa đổi, không được phép sửa đổi, vì đã quá hay và còn
là cứ liệu lịch sử về ngôn ngữ trong văn chương tiếng Việt .
Một em bé
khi mới ra đời liền được cha mẹ đặt cho một cái tên để gọi và để phân biệt với
mọi đứa trẻ khác. Khi một người lớn vì một lý do nào đó khiến cần phải đổi tên
thì việc đó cũng không hề đơn giản, do người ấy có nhiều quan hệ xã hội phức tạp,
đổi tên thì sẽ dẫn đến nhiều sự rắc rối nhầm lẫn, có khi rất tai hại. Người nào
dù có quan hệ xã hội rộng rãi đến mấy thì cũng chỉ nằm trong một phạm vi rất nhỏ
hẹp so với toàn xã hội, vậy mà thủ tục đổi tên cũng khá phiền phức và cần phải
xem xét rất thận trọng. Khi một cộng đồng cư dân tiếp xúc với một đối tượng
mới lạ (các hiện tượng tự nhiên, các sinh vật, v.v.) thì cộng đồng ấy đặt cho đối
tượng nọ một hoặc vài cái tên rồi những cái tên ấy được định hình trong nhận thức
của mỗi người, chẳng dễ thay đổi.
Từ xa xưa,
người Trung Hoa và người Việt Nam nhìn thấy cá voi và cá sấu sống dưới nước như
rất nhiều loại cá khác nên họ coi chúng là những loại cá, gọi là cá voi (kình
ngư) và cá sấu (ngạc ngư). Về sau, nhận thấy rằng cá voi là động vật có vú, là
một loại thú, cá sấu là động vật bò sát tương tự như thằn lằn, nhưng chẳng ai
thấy cần phải đổi tên chúng cho đúng với thực tế. Đó là vì những cái tên kia đã
được định hình trong trí óc của mọi người, mọi thế hệ, thật khó có cái tên mới
nào thay thế được. Chỉ cần mọi người hiểu và dạy bảo cho các cháu nhỏ biết rõ
thực chất của các động vật này là đủ. Cá voi chẳng họ hàng gì với voi. Để làm
sáng tỏ điều đó, ta có thể gọi nó là cá kình. Nhưng nó không
phải là cá mà thuộc loại thú, Vậy, nếu gọi nó là thú kình thì
rất đúng và cũng không sợ nhầm lẫn gì cả. Nhưng chẳng ai gọi như thế. Quả
là không ai muốn và cũng rất khó đổi tên cho cá voi, vì đó là một việc chẳng
có ich lợi và chướng tai, hoàn toàn không nên làm.
So với cá
voi thì chim Én còn gần gũi với quảng đại cư dân Việt Nam gấp hàng vạn lần. Én
lại còn len lỏi vào ca dao tục ngữ và văn thơ nhạc họa. cho nên, việc đổi tên
cho nó lại càng khó hơn việc đổi tên cho cá voi gấp hàng triệu lần. Nay lại gán
cho Én cái tên “Nhạn” (cũng đã được định hình và đi vào văn thơ từ bao thế kỷ)
thì sự thể lại càng rắc rối biết bao?
Sự lúng túng
của những người đã đổi tên Én thành Nhạn
Chúng ta đã
biết rằng, một số giống chim trong họ Hirundinidae (tiếng Việt trước đây gọi là
họ Én) đã được chuyển sang họ Apodidae (tiếng Việt gọi là họ Yến) thuộc bộ
Apodiformes (bộ Yến) vì chúng có bản chất sinh vật học khác hẳn bọn còn lại mặc
dầu nhìn những đặc điểm bên ngoài thì rất khó phân biệt. Bọn còn lại đông
đảo hơn thì vẫn thuộc họ Hirundinidae. Đó là những con chim rất
quen thuộc với người Việt, vốn là biểu tượng của mùa xuân, trước đây
chúng ta vẫn gọi là Én thì nay được các nhà ngôn ngữ học (mà tiêu biểu
là GS Lê Khả Kế và GS Nguyễn Lân, cả hai đều đoạt Giải thưởng Nhà
nước về thành tích biên soạn từ điển) ban cho một cái tên mới là Nhạn. Người viết
bài này cứ ngỡ rằng, sau khi chia lũ Én thành bọn Yến và bọn Nhạn thì cái tên
Én bị hủy bỏ, như đã thấy trong hai tác phẩm chuyên khảo về Chim Việt
Nam (xem ở cuối mục III của bài này) vì nó không có chỗ đứng nữa.
Tuy nhiên, trong cả bốn quyển Từ điển về tiếng Việt kể trên và trong các quyển
Từ điển Việt – Anh hoặc Từ điển Việt- Pháp vẫn có từ Én. Hẳn là các nhà
biên soạn từ điển đã ngộ ra rằng, không thể xóa bỏ từ Én trong tiếng Việt. Chim
Én vốn rất gần gũi thân thiết với mọi người con của Đất Việt, dẫu đã được
ban tên mới là Nhạn thì tên cũ ấy vẫn để lại dấu vết sâu đậm trong tâm trí mọi
người, trong sách vở, trong thơ ca nhạc họa.
Về từ
Én, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên và Từ điển
từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân viết gần giống hệt nhau: Én = loài chim nhảy, đuôi chẻ đôi, cánh dài, bay nhanh, hàng năm thường
thấy vào mùa xuân. Còn Từ điển tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên và Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý
chủ biên thì viết chỉ khác nhau vài chữ: Én = chim nhỏ, lông màu đen, cánh dài và nhọn, chân ngắn, bay nhanh,
thường gặp nhiều vào mùa xuân.
Với lời diễn
giải như vậy thì từ Én vẫn đang được lưu hành, nếu không phải như thế thì các từ
điển đã phải ghi thêm mấy chữ “nay gọi là Nhạn” hay là “tên gọi cũ của Nhạn”. Hẳn
rằng từ Én nay được các giáo sư giao phó nhiệm vụ định danh cho một loại chim
nào đó khác hẳn với chim “Én cũ”, vì “Én cũ” đã được đổi thành Nhạn rồi cơ mà.
Cứ theo sự diễn giải trong bốn quyển từ diển này thì người đọc nghĩ ngay đến
câu danh ngôn “Một con én không làm nên mùa xuân”. Nhưng, lẽ nào “Én mới”
cũng vẫn là Hirondelle, là Swallow, cũng chính là “Én cũ” mà nay đã đổi thành
Nhạn? Vậy thì “Én mới” này là loại chim gì đây? Tên cũ của nó là gì? Điều này
đáng lẽ phải được nói rõ nhưng không thấy một quyển từ điển tiếng Việt
nào nhắc đến. Hẳn là những người biên soạn từ điển rất lúng túng, rất “khó ăn
khó nói”. Nay muốn biết cái từ Én ở đây là chỉ con chim gì thì đành phải
đi đường vòng, phải tra cứu xem “Én mới” đã được dịch sang tiếng Anh và tiếng
Pháp như thế nào, từ đó tiếp tục tìm kiếm trong các đại từ điển của nước ngoài
và trên mạng Interrnet mới có thể lần mò ra diện mạo của nó.
Từ điển
Việt –Pháp của Lê Khả Kế và Nguyễn Lân (Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1989) cho biết: Én = Martinet và Yến = Salangane
Từ điển
Việt – Anh của Đặng Chấn Liêu, Lê Khả Kế và Phạm Duy Trọng (Nxb TP Hồ
Chí Minh, 1997) thì viết: Én = Swift; Yến = Salangane
Ở đây, các từ
điển này đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng.Salangane là một từ
trong tiếng Pháp có gốc Mã Lai và Philippines, tương ứng với Swiftlet trong
tiếng Anh. Tại tiểu mục 1 trong phần IV này, độc giả đã biết rằng,
Salangane hay Swiftlet là tên chung của các loài trong phân họ Collocaliini thuộc
họ Yến (Apodidae) mà người Nhật gọi là Huyệt yến, tức
là Yến hang. Họ Apodide là họ của bọn Swift (=Swift family)
mà người Trung Quốc gọi là họ Vũ yến còn ở nước ta thì gọi là họ Yến. Các giống
Swift là nhóm chim tạo thành họ Apodidae, đã được định danh là Họ Yến rồi, nay
lại bảo rằng chúng cũng là Én thì thật là luẩn quẩn. Phải chăng, những người
biên soạn các cuốn Từ điển Việt – Pháp và Từ điển Việt
– Anh này đã bối rối cực độ nên đành phải viết liều?
V. Vài lời
cuối bài
Nếu cứ khăng
khăng đổi tên chim Én thành chim Nhạn thì hẳn phải gây ra nhiều rắc rối
và mâu thuẫn nan giải trong việc học tập và giảng dạy tiếng Việt. Tai hại nhất
là điều đó đã làm cho những câu thơ và những câu ca dao bất hủ trở nên thô kệch,
ngớ ngẩn. Đành rằng, các nhà ngôn ngữ học có lòng mong muốn cho từ ngữ tiếng
Việt được rành mạch, chính xác, tách bạch rõ ràng đâu ra đấy. Nhưng ngôn ngữ
thì biến đổi phức tạp, khó theo đúng những quy định hay phép tắc chặt chẽ. Nếu
quá chú trọng uốn nắn sửa chữa để đạt đến mức chính xác như toán học thì
nhiều khi dẫn đến sai lầm rất tai hại, mà việc cố ý đổi tên chim Én thành chim
Nhạn là một ví dụ rõ rệt.
Đối với những
từ ngữ đã có lịch sử lâu đời, đã được định hình trong tâm trí của hàng chục
triệu người qua nhiều thế hệ, nghĩa của chúng có thể thu hẹp hoặc mở rông ở từng
thời kỳ thì chúng ta phải chú ý đến diễn biến về ngữ nghĩa để hiểu và phân biệt
trong từng ngữ cảnh chứ không nên (và cũng không thể) sửa đổi chúng. Từ
thời nhà Minh, người Trung Quốc đã coi ”Yến sào” là một món ăn rất quý. Yến 燕 nghĩa
là Én, Yến sào nghĩa là Tổ Én, vì hồi bấy giờ người ta cho rằng con chim làm ra
cái tổ ấy là con Én. Nay đã biết con chim ấy khác với Én nhưng người ta vẫn gọi
nó là Yến, cụ thể là Kim ti yến. Chỉ cần hiểu rõ bản chất của
nó là đủ. Người Pháp cũng vậy, họ gọi món ăn ấy là Nid d’hirondelle,
nghĩa là Tổ của chim Én. Hiện nay họ vẫn duy trì tên gọi
đó, mặc dầu biết rằng đó là tổ của các loài Salangane. Các bộ từ điển tiếng
Pháp phổ thông rất nổi tiếng như Larousse, Robert, Hachette đều xác nhận
điều này. Khi gõ trên máy tính mấy chữ Nid de Salangane (Tổ của
Salangane) để tìm kiếm trên mạng Internet thì chỉ thấy hiện lên 2 văn bản
có mấy chữ ấy nhưng lại là văn bản của người Việt để quảng cáo cho món “Yến
sào” Việt Nam. Như vậy là đủ để thấy rằng, đổi tên chim Én là một việc
không ích lợi gì mà chỉ gây ra rắc rối, làm hại cho tiếng Việt. Không thể đổi
tên chim Én đã đành, đổi Én thành Nhạn thì lại càng sai lầm thậm tệ nữa, bởi vì
Nhạn cũng là một tên gọi có lịch sử lâu đời, đã từng cùng với Én song hành trong
văn thơ. Về từ Yến (tên chim) trong tiếng Việt, chỉ cần mở rộng nghĩa cho nó là
đủ.
Trước đây,
trong tiếng Việt, từ Yến (tên chim) chỉ có nghĩa là chim Én. Cách đây hơn một
thế kỷ, một loại chim đẹp và hót hay, có nguồn gôc từ Quần đảo Canaria (ở Đại
Tây Dương, thuộc Tây Ban Nha) được đưa vào Việt Nam cũng được gọi là chim
Yến. Nếu muốn phân biệt cho rõ thì gọi là chim Yến cảnh hoặc
chim Yến hót. Loại chim Yến này có danh pháp ba phần là Serinus
canaria domestica (gồm các biến chủng Bạch Yến, Hồng Yến, Hoàng Yến,
...) thuộc họ Fringillidae (ở Việt Nam gọi là họ Sẻ thông hoặc
là họ Sẻ đồng, ở Trung Quốc goi là họ Yến tước 燕雀).
Nay từ Yến được mở rộng thêm nữa để chỉ loại chim giống như Én, dùng nước bọt
có chất keo để gắn tổ vào vách đá hoặc để làm tổ. Sự mở rộng nghĩa của một từ
là điều rất bình thường, không thể vì thế mà phải thay đổi những tên gọi đã có
lịch sử nhiều thế kỷ và đã in sâu trong tâm trí mọi người.
Một
điều đáng mừng là, tuy các nhà biên soạn từ điển đã cùng nhau đổi tên “con én
đưa thoi” trong mùa xuân thành con nhạn nhưng mọi người khác, những người viết
văn viết báo, các nhạc sĩ vẫn luôn luôn nói về loại chim ấy bằng cái tên “Chim
Én” với tình cảm thân thương, trìu mến. Chắc chắn rằng, chim Én trong các văn
phẩm và nhạc phẩm ấy chính là “con én đưa thoi” về mùa xuân trong thơ Nguyễn Du
và cũng là con én trong câu danh ngôn của Aristote. Mong sao các thầy
giáo, các cô giáo dạy tiếng Việt đừng dựa vào các cuốn từ điển tiếng Việt hiện
hành, đừng đổi Én thành Nhạn, vừa gây rắc rối cho mình khi giảng dạy văn thơ,
ca dao, tục ngữ, vừa làm hỏng tiếng Việt. Đầu năm nay, trong bài Giải mã hàng
chục ngàn chim én về ở Đồng Tháp trên báo Đất Việt ngày 15/01/2013, GS Võ Quý
cũng hoàn toàn gọi Én bằng cái tên muôn thưở của nó chứ không gọi bằng cái tên
mới là Nhạn như TS Lê Mạnh Hùng trong cùng một bài ấy. Nếu đúng đó là chủ ý của
GS Võ Quý thì thật là một đều rất đáng mừng.
Nguồn:
Văn Hóa Nghệ An
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét