Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2017
VŨ-HUY-NGỌC: TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC HỌC IN SAI THƠ CỦA BÙI KHÁNH ĐẢN
Kho tàng thi ca Việt Nam chất đầy những
châu ngọc. Tiếc thay trong bao nhiêu châu ngọc quý giá ấy một số bị bụi thời
gian vùi lấp, một số bị thiêu đốt trong cơn lửa đỏ, một số bị thất tán theo những
cánh buồm đi muôn phương. Rất nhiều hoàn cảnh éo le đã khiến người xưa bị quên
lãng và người sau phải ngậm ngùi.
May thay trong đám tro tàn vẫn âm ỉ ngọn lửa, chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ. Thế hệ nào cũng có những người giàu tâm huyết, kẻ đi nhặt nhạnh những viên ngọc xưa, người lau chùi cho toả sáng trước khi đặt trở lại vào kho tàng văn chương Việt Nam. Những người yêu thơ, yêu những bản dịch thơ Đường sang tiếng Việt thật xuất sắc đã rất hân hoan khi thấy cuốn "Đường thi trích dịch" của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản được in lại. Tập thơ dịch này được in lần thứ nhất ở Sàigòn năm 1959 dưới dạng ronéo. Dưới sự điều khiển của giáo sư Giám đốc Mai Quốc Liên, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học ở Việt Nam tái xuất bản tháng 7 năm 2006.
Khi đọc Lời
Giới Thiệu, chúng tôi rất vui mừng trước hàng chữ, “Chúng
tôi giữ
nguyên dạng bản in cũ", nghĩ rằng sẽ thấy lại một bản chụp (với kỹ thuật tân tiến hơn) của ấn bản ronéo với những chữ đánh máy mộc mạc năm 1959. Chúng tôi rất
phấn khởi khi đọc những lời của Gs. Mai Quốc
Liên:
“Mặc dù hàng ngàn năm đã trôi
qua, thơ Đường vẫn giữ vẻ đẹp tươi thắm, sức quyến rũ, chiều sâu triết học … của
nó. […]. Tiếng
Việt với trên 70% từ gốc Hán vốn mượn âm Trường An thời Đường Tống (thế kỉ
IX-X), đã vô cùng thuận lợi để tiếp nhận thơ Đường. […]. Đã vậy, Việt
Nam còn « bứng trồng », « tiếp biến » thơ Đường vào thơ Việt,
để có thơ Đường luật ở ta …Bao nhiêu thời gian, bao nhiêu thăng trầm, duyên nợ ;
đến nay, giữa lúc bao nền văn hóa khác vào ta và văn hóa Việt cũng đã biến đổi
nhiều, thơ Đường vẫn giữ được vị trí hàng đầu của mình trong tâm thức Việt Nam.”
Chúng tôi đã kỳ vọng được thấy lại
quyển Đường thi trích dịch với hình
dáng và nội dung hệt như trước kia, với những chữ Hán qua nét bút già dặn của
các bậc tiền bối.
Nhưng Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học đã cho đánh máy lại và in thành một ấn bản
khác, về hình thức đẹp hơn rất nhiều.
Điều đáng cho chúng ta quan tâm là khi
đánh máy lại để tái xuất bản như thế, nội dung tập thơ in năm 2006 có hoàn toàn
giống như nội dung của tập thơ được in năm 1959 hay không?
Chúng tôi được một số thân hữu cho biết: Trong tập Đường thi trích dịch ở lần tái xuất bản này, Trung Tâm Nghiên Cứu
Quốc Học đã không “giữ nguyên dạng bản in
cũ” như lời tuyên bố của Gs. Giám đốc Mai Quốc Liên phía trên, mà có những
thay đổi khá đáng kể khiến ý thơ kém đi, lời thơ dở hơn rất nhiều. Chúng tôi
cũng được cho biết rằng sau khi thấy có những thay đổi như thế, thân quyến của
nhà thơ Bùi Khánh Đản tại Hoa Kỳ đã viết thư về Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học ở
Việt Nam để đính chính và xin được sửa lại, nhưng lời thỉnh cầu ấy không được
đáp ứng. Xin đan cử một thí dụ nhỏ: bài thơ đề từ của Bùi Khánh Đản in ở trước phần
“Lời nói đầu” (trang 7 trong bản do Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học tái xuất bản) đã có những thay đổi như sau:
Nguyên văn bài thơ trong bản in roneo ở Sàigòn năm 1959:
Câu 1: Đây chút tơ tằm trả nghĩa dâu.
Bản do Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học in
lại (xin xem phóng ảnh phía sau): Đây chút tơ tình trả nghĩa dâu.
Nguyên văn câu 6: Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu.
Bản do TTNCQH in lại: Tôi buồn ….
Nguyên văn câu 8: Có thấy tâm tình gặp gỡ nhau.
Bản do TTNCQH in lại: Có thấy tơ tình.
Trong 8 câu thơ thì 3 câu bị in sai. Trong tổng số 56 chữ của bài thơ, 4 chữ đã bị thay đổi. Có sự khác nhau rất xa giữa lời tuyên
bố của Gs. Giám đốc Mai Quốc Liên, “Chúng
tôi giữ nguyên dạng bản in cũ” và thực tế trước mắt.
Nhờ các
nguồn thông tin đa dạng hiện nay, chúng tôi may mắn tìm được hai ảnh chụp của bài thơ nguyên tác, một từ trang sachxua.net, chụp từ bản in ronéo năm 1959, một do một thân hữu liên
hệ với Viện Việt - Học cung
cấp, từ một bản in trong tạp chí Bách Khoa số 100 (ra ngày 1 tháng 3-1961), trang 66.
Nguồn: sachxua.net
Nguồn: Tạp chí Bách Khoa số 100 (1-3-1961), trang 66.
Bài thơ vốn không có tựa. Trong
bản in năm 1959, cụ Bùi Khánh Đản chỉ đơn giản ghi “Đề Đường thi trích dịch.” Khi phổ biến trên tạp chí Bách Khoa số 100 (phóng ảnh phía trên),
nhà thơ Đông Hồ đã thêm
chữ “tự” vào. Nguyên văn bài thơ như sau:
Đây chút tơ tằm trả nghĩa dâu
Đem lòng người trước gửi người sau
Mong làm gió nhẹ qua hiên gác
Luống thẹn trăng non xế mái lầu.
Ai xót Thanh Liên bờ Thái Thạch
Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu
Đêm đêm đọc lại dòng thơ cũ
Có thấy tâm tình gặp gỡ nhau.
Bùi Khánh Đản
Đây chút tơ tằm trả nghĩa dâu
Đem lòng người trước gửi người sau
Mong làm gió nhẹ qua hiên gác
Luống thẹn trăng non xế mái lầu.
Ai xót Thanh Liên bờ Thái Thạch
Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu
Đêm đêm đọc lại dòng thơ cũ
Có thấy tâm tình gặp gỡ nhau.
Bùi Khánh Đản
Nguồn: Lam Điềnhttps://lamdien.wordpress.com/category/tho-bui-khanh-dan/
Trong bản chép tay trên giấy hoa tiên cũng như trong bản
chụp in lại trên tạp chí Bách Khoa số 100 (1/3/1961), nhà thơ Đông Hồ viết thêm tựa đề "Gió nhẹ trăng non," và chép thêm bài thơ họa của cụ. Thi sĩ Đông Hồ đặt tên cho bài thơ họa lại này là “Thử
tài Lý Đỗ.”
Rõ ràng cụ Bùi Khánh Đản đã viết câu 1: Đây chút tơ tằm trả nghĩa
dâu. Cụ coi việc dịch thơ để những áng thơ hay được truyền lại tới người
sau là một hành động mang tính cách đền ơn trả nghĩa về phương diện tinh thần, giống
như con tằm sau khi ăn lá dâu nhả ra tơ để lại cho đời. Đối với cụ, mục đích của
việc “trả nghĩa” ấy là:
Đem lòng người trước gửi người sau.
Đem lòng người trước gửi người sau.
Khi bị đổi lại:
Đây chút tơ tình trả nghĩa dâu
người đọc sẽ không thấy
được mối liên hệ ấy.
Việc con tằm nhả tơ,
đôi khi được nói trong văn chương, “con tằm rút
ruột để nhả tơ,” còn mang một ý nghĩa tình cảm có tính cách thiêng liêng.
Trong Truyện Kiều có câu “Con tằm đến
thác vẫn còn vương tơ.” Câu này được dịch thoát từ một câu thơ của Lý
Thương Ẩn đời Đường, “Xuân tàm đáo tử ti
phương tận” (con tằm đến khi chết tơ mới hết). Không rõ giáo sư Mai Quốc
Liên và các vị ở Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học có nhận thấy điều ấy hay không
khi đổi câu thơ của cụ Bùi Khánh Đản từ “tơ tằm” sang “tơ tình,” một từ ngữ không
hàm chứa mối liên hệ nào cả?
Trong câu 6:
Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu
Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu
hai chữ “Ta sầu” bị đổi
thành "Tôi buồn.” Có người dễ dãi nói, "Thôi kệ. “Tôi buồn”
với “ta sầu” thì nghĩa cũng như nhau." Trong ngôn ngữ nói chuyện hàng
ngày có thể như thế, nhưng trong văn chương, nhất là trong thơ, ý nghĩa khác
nhau rất xa.
Trước hết là giữa hai
tiếng “ta” và “tôi.”
Tuy cùng là lời tự
xưng, cùng là nhân vật đại danh tự ngôi thứ nhất số ít, “tôi” hàm ý khiêm tốn
trong khi “ta” mang tính cách hào sảng, khí phách, ngụ một thái độ tự tin hơn.
Trong Truyện
Kiều, sau khi Kiều cho biết nhận thấy ở Từ Hải một cốt cách phi thường và tin rằng
sẽ có thể được nương nhờ sau này (Rộng
thương cỏ nội hoa hèn/Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau), người “khách biên đình” từ xứ Việt Đông xa
xôi đã trả lời một cách đắc ý:
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau.
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau.
Nguyễn Du cho Từ Hải tự xưng bằng
tiếng “ta.” Nếu chúng ta đổi sang tiếng “tôi,” ý nghĩa và văn khí sẽ kém hẳn.
Cũng tương tự, trong bài
“Tống biệt hành,” nhà thơ Thâm Tâm viết:
Đưa người, ta không đưa qua sông …
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước …
Đưa người, ta không đưa qua sông …
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước …
Trong bài “Bài hành
phương Nam,”nhà thơ Nguyễn Bính viết:Xuân đến khắp trời hoa rượu nởRiêng ta với ngươi, buồn vậy thay
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi
Trong bài “Bài ca sông Dịch,” nhà thơ Vũ Hoàng
Chương có những câu:
Ta chỉ thấy
Tơi bời tướng sĩ, thây ngã hai bên
Một triều rối loạn, ngai vàng xô nghiêng …
Một triều rối loạn, ngai vàng xô nghiêng …
Nếu chúng ta đem những tiếng “tôi” thay chỗ cho những tiếng “ta” ở các
câu ấy, ý nghĩa sẽ kém hẳn.
Đôi khi tiếng “ta” mang một ý nghĩa rộng hơn, gần tương
đương với “chúng ta.” Nghĩa của “nước ta,” “tiền nhân ta” khác hẳn nghĩa của
“nước tôi,” “tiền nhân tôi.” Đó là trường hợp tiếng “ta” được dùng trong bài
“Lên sáu” của Tản Đà:
Sách quốc ngữ, chữ nước ta
Con cháu nhà, đều phải học
Sách quốc ngữ, chữ nước ta
Con cháu nhà, đều phải học
hay trong bài “Trả ta
sông núi” của Vũ Hoàng Chương:
Trả ta sông núi, từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha.
Trả ta sông núi, từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha.
Có lẽ đó chính là dụng ý của
Bùi Khánh Đản khi cụ viết:
Ta sầu Đỗ Mục đất
Dương Châu
vì cụ đã hỏi người đọc:
Đêm đêm đọc lại dòng thơ
cũ
Có thấy tâm hồn gặp gỡ nhau?
Chúng tôi thành thật tin là
Gs. Mai Quốc Liên và các vị cộng tác với ông ở Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học
cũng hiểu những điều ấy. Chúng tôi chỉ thắc mắc: Tại sao các vị lại đổi câu thơ
của cụ Bùi Khánh Đản từ chữ “ta” sang chữ “tôi”?
Hai chữ “buồn” và “sầu” cũng ở
trường hợp tương tự.
Trong khi “buồn” chỉ một trạng
thái tình cảm nhẹ nhàng như trong câu thơ của Xuân Diệu:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
hay một
câu trong Truyện Kiều:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Thì “sầu” chỉ một trạng thái
tình cảm mạnh và sâu đậm hơn. Với bài thơ mở đầu bằng câu:
Đêm mưa làm nhớ không
gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao
la
Huy Cận đặt tên bài là “Buồn
đêm mưa.” Nhưng với bài thơ mở đầu bằng câu:
Ai chết đó? Nhạc buồn
chi lắm thế!
và kết thúc bằng câu:
Sầu chi lắm trời ơi! Chiều
tận thế!
thì Huy Cận đặt tên bài là “Nhạc
sầu.”
“Sầu”
là một từ Hán Việt, nhắc ta liên tưởng đến một số câu thơ chữ Hán: “Xuân sầu mang mang tắc thiên địa” (Sầu
xuân lai láng đầy trời đất) hay, “Dục phá
sầu thành tu dụng tửu/Túy tự túy đảo, sầu tự sầu” (Muốn phá thành sầu nên
dùng rượu, say thì say mềm, sầu vẫn sầu). Chính vì thế trong mấy câu thơ sau của
Vũ Hoàng Chương:
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ em ơi
Chúng ta không nên đổi từ “sầu” sang từ “buồn” (không thể sâu đậm, mạnh mẽ bằng). Chúng tôi thành thật nghĩ rằng Gs. Mai Quốc Liên và các vị cộng tác trong TTNCQH đã làm một việc không đúng khi đổi hai tiếng “Ta sầu” sang “Tôi buồn” trong câu thơ của cụ Bùi Khánh Đản.
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ em ơi
Chúng ta không nên đổi từ “sầu” sang từ “buồn” (không thể sâu đậm, mạnh mẽ bằng). Chúng tôi thành thật nghĩ rằng Gs. Mai Quốc Liên và các vị cộng tác trong TTNCQH đã làm một việc không đúng khi đổi hai tiếng “Ta sầu” sang “Tôi buồn” trong câu thơ của cụ Bùi Khánh Đản.
Trong câu kết, "Có thấy tâm tình gặp gỡ
nhau" bị in
thành:
Có thấy tơ tình gặp gỡ nhau.
Có thấy tơ tình gặp gỡ nhau.
Trong câu thơ trước, cụ Bùi Khánh Đản đã hỏi
người đọc:
Đêm đêm đọc lại dòng thơ cũ
Đêm đêm đọc lại dòng thơ cũ
Cụ muốn được chúng ta cho biết khi đọc lại những
hàng thơ ấy, có thấy “tâm” và “tình” (tâm hồn và tình cảm) gặp gỡ nhau
hay không? Dùng chữ “tâm” ở đây, ý tác giả rất chân thành. Nếu đổi “tâm tình”
ra “tơ tình,” chúng ta tự chứng tỏ là đã quá nông cạn không hiểu nổi điều ấy,
hoặc đã không tôn trọng tác giả.
Tóm lại, mới chỉ một bài đầu
tiên trong tập thơ mà đã nhiều lỗi đến như thế. Tỷ lệ sai có thể coi là khá
cao. Ba câu bị in sai trong tổng số 8 câu, tức 38.5%. Bốn chữ bị thay đổi trong
tổng số 56 chữ của bài thơ, tức tỷ lệ 7.14%. Chúng tôi hiện không có toàn thể
quyển thơ của ấn bản nguyên thủy in năm 1959 trong tay, nên không rõ tình trạng
những bài thơ khác có khả quan hơn hay không. Ước mong vị thức giả nào có cả
hai tập thơ sẽ có thể cho một nhận xét đối chiếu thích đáng hơn.
Chúng tôi ghi nhận công
lao của Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học trong việc tái xuất bản quyển Đường thi trích dịch của hai cụ Đỗ Bằng
Đoàn và Bùi Khánh Đản. Chỉ đáng tiếc là các vị đã không làm theo đúng lời tuyên
bố “giữ nguyên dạng bản in cũ.” Như
chúng ta đã thấy phía trên, những câu, chữ bị đổi sai đã khiến ý nghĩa của bài
thơ, vẻ đẹp của câu thơ, bị giảm đi rất nhiều.
Đưa ra các bản chụp của
bài thơ khi xuất hiện lần đầu ở Nam Việt Nam trước năm 1975, chúng tôi chỉ muốn một bài thơ hay và rất có ý
nghĩa của cụ Bùi Khánh Đản được “phục hồi nguyên dạng.” Giới thiệu thêm bài thơ
họa của thi sĩ Đông Hồ cùng ít bài họa khác của một vài người yêu thơ lớp sau,
chúng tôi chỉ muốn nói: Những lời hay, ý đẹp sẽ được giữ lâu bền. Theo cách nói
của cụ Bùi Khánh Đản, mặc dù gặp bao nhiêu cảnh ngộ ngang trái, éo le, tấm lòng
của “người trước” vẫn sẽ được chuyển tới “người sau.”
VŨ-HUY-NGỌC
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Lại thêm một bằng chứng cho thấy cố Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu nói rất chính xác về người cộng sản: "Đừng nghe những gì cộng sản nói - mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm". Đúng là đám cộng sản luôn luôn nói một đàng làm một nẽo, đó là bản chất lương lẹo - gian dối muôn đời của chúng!
Trả lờiXóa