Sau bao nhiêu
ngày dài từ Seattle Thúy điện thoại về. “Mẹ, mấy ngày đầu, ông via bà via của Jeffrey
theo dõi con như thám tử rình thủ phạm. Ngày thứ nhất, con không rửa bát, cái
máy làm. Ngày thứ hai, ông bà ấy bí mật coi ngó từng cử động con làm, họ to mắt
ngạc nhiên thấy con dọn dẹp đồ dơ trên bàn ăn vào bếp nhưng tại sao con không
dụt mấy cái khăn giấy lau miệng vào sọt rác mà lại cất vào một chỗ rất cẩn
thận. Khi con rửa bát xong, họ thấy con dùng mấy cái giấy tissue đó để lau bếp,
lau floors... họ bèn bỏ ra ngoài coi ti vi. Từ đó , họ thôi không rình rập và
dòm ngó con nữa! Cuối tuần, Jeffrey về thăm cha mẹ và ăn cơm nhà. Hắn và con đi
chơi vui lắm.”
Đêm sau, Thúy lại gọi về. “Mẹ... khi cất thịt
gà trong tủ lạnh, mẹ nhớ gói thật kỹ trong túi nylon nghe! Mẹ dạy con nấu cháo
gà đi! Ông via bà via của Jeffrey thích ăn cháo gà lắm. Mẹ, đi đâu về, mẹ nhớ
khép dù lại truớc khi bước vào nhà nghe mẹ, và khi đi đâu, mẹ nhớ chỉ mở dù ra
khi đã bước ra khỏi nhà nghe mẹ! Phải kiêng nghe mẹ.”
Thời gian này, nhà băng ở Portland rục rịch
phá sản để sau đó nhập vào nhà băng Wells Fargo. Nhiều khi ngồi trước máy
computer không có việc gì mà làm. Ngồi đợi xếp ban ơn đưa việc đến tay cho mà
làm, đời buồn như giấy đi cầu.
Hảo là thư ký hạng hai chịu trách nhiệm gửi
lại thư cho khách hàng đổi địa chỉ không thông báo! Giờ ăn trưa, nhân viên bị
cấm không được ngồi lại trong phòng, Hảo lén lút dấu một xấp thư vào túi áo ấm
và đi ra ngoài ngồi trên ghế đá công viên khung trời đại học Portland, không mở
cơm ra ăn mà phải xếp mấy chục lá thư vào bì trước đã. Việc làm này nếu
supervisor biết được! Hảo nhớ câu nói của ông bạn người Huế: “Chị với mụ vợ tui
là hai con cua què... cua gãy càng. Chị với mụ vợ tui đúng là hai bà xã trái
đời... khó khó lắm... phải có tài lanh mới có việc làm.”
Sau một thời
gian lâu, Thúy lại gọi về: “Mẹ ơi con rất happy! Jeffrey và con đã dạm hỏi nhau
rồi, con đính hôn với hắn rồi.”
Lời báo tin đúng ngay vào lúc Hảo bị bà xếp
đày đi cross-training, nghĩa là bị đưa sang thực tập ở phòng phim ảnh, nghĩa là
sửa soạn đi khai thất nghiệp!
Ông đồng hương người Huế Hảo chỉ mới quen sau
khi dọn nhà về Portland, đã bảo nhỏ Hảo: “Chị với mụ vợ tui ăn nhau lắm! Mụ vợ
tui với chị, hai con ‘quăng’ trong bộ bài tới và bài chòi... của người Huế
mình, hai cái hãm tài... bị hắt ra, không hội nhập được với đời sống Mỹ... đi
đâu cũng bị hắt ra chứ không được hút vào!”
Hảo vội trả lời con gái. “Me mừng quá Thúy
ơi... Nhưng mẹ đang bận, quá nhiều phim ảnh chưa chụp, mấy tấm hình offset chưa
tìm ra. Tan sở về nhà mẹ sẽ gọi con.”
Buổi chiều muộn nhưng vẫn còn nhiều tấm mây
dày màu trắng, con nhỏ telephone: “Con mừng quá! happy quá! Mẹ happy không mẹ?
Hắn đã đeo nhẫn đính hôn, hai đứa đeo nhẫn đính hôn. Mẹ ơi sang năm con cưới
Jeffrey rồi! Sang năm có lâu không mẹ?”
Ngoài trời, mùa thu Hiệp Chủng Quốc chắc cũng
hạnh phúc như con gái tôi, hạnh phúc như qua những đoạn văn tả cảnh trong tiểu
thuyết của nhà văn Nelson de Mille, cựu chiến binh Hoa Kỳ hơn một lần đã sang
Nam quân dịch.
Mấy mươi năm sau cái chết của chồng, có bao
giờ tôi ngộ được rằng tôi không biết dạy lũ con bốn đứa mà chỉ thành kính đặt
chúng lên trang mà lạy, lên ngai vàng để mà vái. Để mấy đứa con tự do lấy Mỹ,
lấy Đại Hàn, có phải tôi đã phạm vào điều răn điều cấm? Luật gia đình hay nền
luân lý Khổng Mạnh? Luật kỳ thị màu da và quốc gia? Có phải cha mẹ sinh con
trời sinh tính? Một mục sư Tin Lành đã nói chuyện trên tivi rằng cha mẹ cứ can
đảm dạy con, không nao núng sợ sệt, đừng bỏ cuộc, quyết một mất một còn với
con. Người mẹ!... một máy đẻ tốt là một bộ máy cho ra một bầy trẻ tốt.
Hảo nói với Thúy: “Con lấy Mỹ, người Việt Nam
cười mẹ.”
Thúy trầm giọng: “Đứa con làm, tại sao lại nhè
người mẹ mà cười? Con có thấy ai cười con đâu?”
Hảo nói: “Người Việt Nam gì cũng cười.”
Câu nói của nhà nho văn Nguyễn Văn Vĩnh ngày
hôm nay Hảo càng thấy đúng với cuộc đổi đời. Không những người Việt Nam ấm áp
hay cười mà người Cao Miên, người Lào, người Phi, người Thái ở trong con hẻm
cụt này với Hảo cũng hay cười như vậy. Gì cũng cười. Gần nhà có một ngôi đền
Muslim. Một bà Hồi Giáo đã hỏi Hảo:
“Có phải ở Việt Nam cấm ly dị?”
Hảo trả lời: “Luật cấm ly dị ở Việt Nam vào
khoảng thập niên 50-60 là do một người đàn bà tội lỗi đặt ra nhưng sau đó và
với chế độ mới ngày hôm nay thì không còn nữa.”
Bà Hồi Giáo trùm khăn che nửa mặt chỉ vào một
tờ báo cũ: “Tờ báo này có bài nói rằng khoảng thập niên 90, tỉ số ly dị của người
Việt Nam cao nhất thế giới.” Hảo không thể đem những dịch vụ làm giấy tờ sau
cuộc đổi đời ra nói với người lạ được nên không trả lời bà ta.
Hảo bảo Thúy: “Mẹ tin rằng con đã suy nghĩ kỹ,
tuy vậy mẹ cũng nhắc nhở con là người Mỹ hay ly dị lắm.”
Thúy bướng bỉnh cãi: “Con và Jeff đã suy nghĩ
kỹ lắm. Nó và con biết nhau đã gần mười năm rồi mà mẹ!”
Hảo làm thinh, Thúy tiếp. “Mẹ già ơi, mẹ hãy
hạnh phúc với con đi! Mẹ hỏi hai con mèo đẹp trai của mẹ có happy vui vẻ với
con không mẹ? Mẹ kêu hai con mèo lại đây đi mẹ!”
Trong nhà nuôi hai con mèo mê ngủ. Con miu đen
tên là Hắc đang ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng cụng cái đầu vào chân vào Hảo. Năm
năm về truớc, Hắc đen này tuy không giỏi võ thuật như tài tử Jackie Chan nhưng
tài khinh công thì nhanh hơn, đã phi hành lên mái ngói gào kêu rồi nhẹ nhàng
nhảy xuống cào cửa nhà Hảo. Bà hàng xóm người Miên liền buớc qua can thiệp:
“Trong hẻm cụt có bao nhiêu nhà, tự nhiên từ đâu không biết con mèo mun này đến
nhà mày kêu gào cào cửa như vậy chứ nó không đến nhà tao, nhà Susie, nhà
Stanley... không đến nhà ai hết. Phật giáo Cao Miên tin tưởng rằng con mèo này
chính là linh hồn của chồng mày đã chết nhập vào.”
Hảo gật đầu: “Phật giáo Việt Nam cũng dạy rằng
phải thương yêu súc vật. Nuôi chó nuôi mèo trong nhà cũng là do lòng thương yêu
súc vật. Ăn chay là để phản kháng là không công nhận tội giết súc vật.”
Hảo nói vô điện thoại với con: “Người Mỹ có
tục gọi cha mẹ chồng, cha mẹ vợ bằng tên nghe không vô.”
“Mẹ đừng lo,
Jeffrey sẽ gọi mẹ là Mrs. Lee. Jeff nó có đọc sách Kong Fusi năm ngoái con mua
cho nó, mình đi Good will năm ngoái với nó, mẹ nhớ không? Nó bảo ông Phật hiền
hơn ông Khổng, ông Khổng nói lời gì ai cũng phải nghe vì ông là người họ Kông
bên Tàu, vì ông nói luân lý, cả châu Á nghe ông.”
Hảo thấy đứa
con lúng túng quá, nói thay nó: “Bậc Đại Hiền, người Tây Mỹ tôn kính gọi Kong
Fusi là The Great Sage, người hiền. Đức Khổng Tử cấm rằng nam nữ không được
trao đổi thân tình, không được ngồi chung chiếu, không ra vào cùng cửa. Châu Á
này, xã hội ngày hôm nay là một công trình do đức Khổng tử nặn bọt ra và nắm
hết tất cả quyền hành trong tay... Đức Khổng tử xử dụng cả mười ngón tay đặt
nền luân lý trên toàn cõi châu Á trong khi đức Phật chỉ hướng một ngón tay nhỏ
lên trời thôi.”
Hảo trở lại vấn đề của hai mẹ con: “Trai gái
chưa cưới xin đã thuê phòng thuê chỗ ở chung với nhau trước, không hay ho tí
nào hết.”
Nó cãi: “Mẹ sai rồi. Cái đó là vấn đề văn hóa của
một quốc gia, mẹ chớ nên phê bình. Mẹ chỉ có thể phê phán thái độ của một cá
nhân như ông hàng xóm khó chơi chẳng hạn, mẹ có thể phản đối đường lối hoạt
động của một đoàn thể nào đó thôi. Không bao giờ nên chê bai nền văn hóa của
bất cứ một quốc gia nào. Trọng văn hoá của nước khác , người ta sẽ trọng văn
hoá của nước mình.”
Con nhỏ này khi nói chuyện không đưa giọng lên
hoặc hạ giọng xuống, nó luôn luôn phát âm ở nốt nhạc bằng và đều. Nó ít khi
khóc, cười hơi nhiều.
Nó tiếp: “Có thể vì số người ly dị ở Hoa Kỳ
cao quá, nên họ phải ăn ở với nhau trước để tìm hiểu nhau, để sau này bớt bớt
bỏ nhau.”
Hảo vẫn chỉ trích: “Thật đáng sợ lòng người Mỹ
bội bạc. Ngày xưa, họ đem Anh ngữ, đem quân đội ,khí giới, đô-la và nhu yếu
phẩm đổ vào miền Nam, họ hứa hẹn, họ cam kết sẽ cùng chúng ta sát cánh bên nhau
cùng đánh kẻ thù đỏ. Fuck the reds. Căn cứ không quân Mỹ đóng ngay gần vĩ tuyến
17, chỉ trong vòng giây lát máy bay phản lực sẽ vút lên và trong một phút sẽ
oanh tạc tan nát hải cảng Hải Phòng... nhưng rồi màn chót kéo lên, người Mỹ bỏ
chạy, người Mỹ phản bội.”
Bên kia đầu giây, tiếng con gái cười: “Tình
yêu không phải là Việt Nam war. Tình yêu là Korean war: một nửa Bắc, một nửa
Nam. Một nửa là màu đỏ tượng trưng cho
tình hận; nửa
kia, tình xanh, tình đẹp.”
Ngoài kia vẫn còn vài vệt nắng cuối chiều, màu
nắng mỡ gà một ngày thu tốt trời khiến nỗi buồn như vơi đi. Hảo nhớ lại lời bà
giáo dạy ESL hồi mới sang còn ăn tiền trợ cấp xã hội và được gửi con miễn phí
để đi học lớp thư ký xếp hồ sơ: “Năm 1975, lớp người già sang đây thật quá
khích, không tỏ ra cộng hòa chút nào hết, không chấp nhận cay chua thua cuộc,
họ không thấy mình có lỗi bại trận, mà chỉ thấy người Mỹ đểu giả đã bỏ miền Nam
mà chạy. Những cái đó không bổ ích chút nào hết.”
Hồi đó, Hảo, học viên già nhất lớp ESL, muốn
giảng cho bà giáo hiểu rõ thế nào là quá khích, nhưng không nói được tiếng Anh.
Trước năm 1975, sự thật miền Nam không có người Việt Nam biểu tình chống Cộng
sản mà chỉ có biểu tình chống cộng hòa. Biểu tình quá khích có nghĩa là ào ào
ra đường đập phá, ném đá, đốt nhà, lật đổ, xô xát bạo động hung dữ. Sau năm
1975, ở Mỹ, người Việt Nam đi biểu tình ôn hòa: Họ bước đều trong trật tự với
biểu ngữ giăng ngang, họ tôn trọng luật đường sá kiều lộ và nhân viên công lực.
Chống cộng bằng lời nói ôn hoà, và việc làm có lẽ phải, đó không phải là quá
khích.
Sống cuộc đổi đời, khối u chiến tranh vẫn chưa
tan hết trong cõi lòng kẻ di tản. Chúng ta vẫn còn yêu người đàn ông mang quân
phục, tôi vẫn chưa quên hình ảnh người lính trận khoác áo vàng kaki hoặc áo vải
thô dày màu dầu olive tô vẽ rườm rà lá cây rừng núi hiểm độc. Đồng thời tôi vẫn
còn nhớ những bàn chân trắng mịn trong những đôi giày đinh cao cổ người lính Hiệp
Chủng Quốc lún xuống cát lầy những bãi sình cạnh biên giới Ai Lao. Tôi liên tưởng
tới tài tử cao thủ John Wayne trên yên con ngựa cao bồi, ánh mắt ông xót thương
trẻ con sinh ra trong khói lửa, miệng ông không cay đắng nói những lời phản
chiến, như những kẻ biểu tình quá khích.
Hảo quen biết sáu bà bạn thông minh lấy chồng Mỹ.
Ông Lesher hỏi Hảo: “Bao giờ thì về Việt Nam?” Ông Hendrick: “Hoà bình, độc
lập, thống nhất rồi, sao chưa về nước?” Ông Trivas: “Cháu mua vé máy bay cho cô
về Việt Nam.”
Bà
Pealercock, cháu gái của Thiếu tá Nguyễn Văn Khôn trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
tác giả hai bộ tự điển Anh Việt, Việt Anh: “Từ ngày sang đây, tụi này đi đi về
về sáu lần rồi...”
Hảo nói: “Tư cách của một cá nhân cũng có thể
đánh giá tùy theo số lần người ấy về Việt Nam là bao nhiêu. Tôi thật lấy làm tiếc
là ngày xưa tôi không ‘nằm vùng’ cho Cộng sản, nên bây giờ tôi không được họ
cấm không cho về nuớc... để được coi nặng ký hơn một chút dưới mắt người Mỹ.”
Qua điện thoại, đứa con gái tiếp tục câu
chuyện: “Từ nay , me đừng nên nói những câu như là người Mỹ phản bội, người Mỹ
bỏ chạy. Miền Nam mất không phải lỗi tại họ.”
“Họ chứ ai
vào đây nữa? Họ đoạn tuyệt bang giao, bỏ rơi miền Nam. Cuối cùng của mối tình
Việt Mỹ, miền Nam mất, nên trong những cuộc hôn nhân dị chủng, mẹ chỉ thấy cái
nghiệp, mẹ thấy Karma, thấy charm, thấy khác biệt văn hóa, thấy hai con đường,
một ngược một xuôi không có giao điểm. Chúng ta với họ, khác nhau từ bên ngoài
vào tới bên trong, và từ cái bao tử ra tới lớp da bọc ngoài.”
Tiếng thở dài của con trên điện thoại, Hảo đưa
mắt nhìn cái khung gỗ xinh xắn vít vào tường trong đó xếp hàng 15 chiếc lọ nhỏ
bằng thủy tinh đựng gia vị nấu ăn: bột hành, bột tỏi, tiêu ớt, oregano. dill,
thyme... rồi bảo con: “Thôi, mẹ đã nói hơi nhiều, thôi đi ngủ, ngày mai con vừa
đi học, vừa đi làm.”
Sớm mai vào sở, bà xếp kéo Hảo vô phòng riêng
để “ đì”: “Phòng thư viện gửi trả lại mấy tấm hình vì ‘you’ chụp mờ quá, họ
không gửi đi được.”
Một giờ sau Hảo lại bị điệu vào phòng bà xếp:
“You nên lấy giấy phép nghỉ một tuần lễ, vì số ngày nghỉ dồn lại nhiều quá.”
Ba giờ chiều,
con mẹ xếp, cơn bão Katrina, đến trước bàn làm việc của Hảo đay nghiến: “Tại
sao không chụp mấy cái hình này, không tìm ra offset sao?”
Chàng đồng nghiệp Hạ UyDi nói: “K-Mart đang
cần 5 part-time job, hãy xin về hưu non ở cái nhà băng này đi, rồi đi làm
part-time ở K-Mart.”
Hảo quyết
định hưởng nhàn một tuần lễ ở miền nam Washington, tại nhà một bà bạn để ăn cơm
với cá bẹ kho nhừ. Chủ nhà để máy hát chạy một bài ca Huế mang tên “Trước bến.”
Trước bến Văn Lâu ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm, ai cảm, ai thương...
Hảo nói: “Người Mỹ đổ quân vào Việt Nam lần
thứ hai từ thập niên 60, nhưng trên thực tế thì trước đó rất lâu, nữ sinh Đồng
Khánh đã hát bài ‘Oh Mcdanold has the farm.’ ‘Ông tây đen nằm trong cái bồ rồi’.”
Bữa cơm chiều
ngon quá, ngoài món cá kho tám tiếng trong nồi slow cooker còn có tô canh rau
thập toàn với mồng tơi, dền tía, kim châm, kim huyên, riềng... và Hảo được ngồi
ăn trong căn nhà bếp linh hoạt vừa đủ rộng cho người nội trợ bày biện nồi niêu
son chảo. Nó, tức cái bếp, khoác những tấm màn cửa màu xanh nhạt điểm hoa
trắng, đồ gốm phết sơn bóng màu xanh nước biển, những bức tường màu xám tươi,
các ngăn tủ màu xanh da trời, nền nhà màu xanh dương. Bộ bàn ăn sáu ghế bằng gỗ
teak do chị bạn tự tay đóng lấy, để
nguyên không sơn. Tóc của Thái, chị bạn, ít bạc hơn tóc của Hảo, tiệp với màu
sắc của cái bếp rất hài hòa.
Hảo khen: “Mặt nhà quay về hướng nam, lấy vợ
hiền hòa, xây nhà hướng nam.”
Thái kể: “Ngôi nhà này được xây từ hồi người
Mỹ chưa phát minh ra cái closet, còn dùng cái thứ tủ gỗ wardrobe. Mấy người chủ
trước mua lại sửa sang tu bổ thêm.”
Cơm nước xong, trời còn sớm mờ mờ ánh sáng
ngọc trai, Thái dẫn Hảo đi bộ ra bờ hồ. Một bầy chim heron đang lả lướt bơi
trên mặt nước xanh mơ trông như một đoàn vũ công đang động đậy thân thể tập
luyện điệu múa Tai chi chu’an, môn võ thuật
độc tôn của đạo Lão, của đoàn viễn chinh ham
chiến ngày nào đeo đuổi mộng binh đao. Người vũ công tài chi, con chim diệc
hùng anh, người đánh giặc xa nhà lấy sa trường làm lẽ sống... mặc áo bà ba
trắng như lông chim, quần dài ống rộng, người tài tử cũng như người thuyền
quyên ngàn xưa của môn phái Lão Tử, nhịp nhàng đi và đến đích. Trong sân tập,
họ bước chậm theo một đường chéo góc, chân họ kéo lê với tốc độ của một con
rùa, hoặc một con ốc sên bò qua một diện tích rộng tráng vôi: chân trái đưa tới
trước, rồi chân phải chậm chạp từ tốn đưa theo sau, mỗi bàn chân nhấc lên rồi
hạ xuống nhẹ như hơi gió để thân thể khoan thai di động trong tư thế của cánh
chim heron tức chim diệc lướt trên mặt nước hồ ao mỗi sớm chiều.
Thái vui tươi nói: “Có phải chị đang nhìn cảnh
đẹp và thở không khí trong sạch?”
Thái cũng là người Huế, nhưng lại chỉ quen với
chồng Hảo mà thôi. Khi người chồng qua đời, Thái đến phúng điếu bằng tiền, và
nói: “Từ đây, tụi mình là bạn, nhưng chỉ nên gọi nhau bằng chị thôi.” Hảo giữ
mãi câu nói đó trong trí nhớ.
Thái là chủ nhân của mấy mẫu đất rộng chim
diệc lết đi không tới đích và người võ công Tai-Chi lê bước không tới chốn, một
vùng phong cảnh lặng thinh gợi lại hình ảnh những vườn tiên, vườn đào, vườn ngự
uyển trong sách thời thượng cổ. Trước mặt nhà Thái là một ao rau muống, loài
rau có ống và nở hoa màu tím nhạt, loài rau không ăn cơm mà chỉ uống nuớc giải
khát. Công ty thủy lực thành phố mấy lần gửi giấy phạt rau muống uống nước
nhiều quá sẽ làm khô héo thị trấn hồng. Tự điển khoa học xã hội Việt Nam định
nghĩa rau muống rỗng ruột, uống sương mai, nắng chiều và ánh trăng đêm khuya.
Thái đã vào
Good will ra tay kéo về hai cái hồ bơi inground biberglass pool. Đó không phải
là loại bồn tắm nhỏ bằng cao su trẻ con đập tay đạp chân tập bơi mà đúng nghĩa
là cái hồ nước rộng chôn dưới đất. Thái, người đàn bà trời cho sức khỏe và sắc
đẹp, đã bỏ ra hai tháng trời đào đất, đập đá, khó khăn hốc hác như Ngu Công dọn
núi ngày xưa và với một thiên tài về ngành trồng tỉa đã làm chủ một ao rau
muống chim diệc bơi lội mấy mùa.
Hồ sơ của khu vườn được cất giữ trong ngăn
kéo, chia ra mười chín khoảng đất
riêng biệt. Ao rau muống đào được đặt vào vị
trí một. Khu đất thứ hai trồng mười loại rau đủ để cho người Huế nấu một tô canh
thập toàn. Kế đó, Thái làm giàn tre dành cho rau leo. Bên cạnh, Thái cưa hai
cây thông già, chặt tre, xẻ gỗ dựng thêm bốn cái giàn nữa dành cho su le, bí
ngô, bí đao, mướp ngọt, mướp đắng. Xong, Thái nung sắt, đẽo hai cái trụ đồng
chặt hai cây cổ thụ dựng một pháo đài để trồng năm cây dưa Hồng tiên, người Huế
gọi là dưa Tây vì do ông Tây thuộc địa đưa vào Việt Nam cùng một lượt với cây
phượng vĩ. Cây dưa Hồng tiên nằm trên, bốn mươi tám cây su le nằm dưới chung
một giàn gồm có hai tầng, bên cạnh mấy cái thang gỗ, lá bí ,lá bầu tuy khác
giống nhưng phải mọc chen nhau và kế cận dàn dưa là loại rau có chất cay dùng
làm gia vị nấu ăn: ớt mọi, ớt chìa vôi, rau sâm thương, ngò gai, húng lủi, húng
quế, tía tô, kinh giới, diếp cá... Xê ra một chút là loại cây trị bệnh có chất
thuốc gia truyền như cây ích mẫu, cây thuốc cứu, cây trần bì, cam thảo, quế
chi...
Thái tỉ mỉ làm công việc của một nghệ nhân:
vót tre đan rỗ đựng lan, làm dàn tre cho lan bò, lan leo và cưa gỗ đóng những
cái giường nhỏ cho lan ngủ treo dưới mấy dàn dưa. Cạnh đó, Thái đóng mấy chục
ngăn kéo, người Huế kêu là kệ, để trồng loài cây không ăn được: lan Tố tâm, lan
Thanh ngọc, Giáng xuân, Hồ điệp, Cát tường, Thiên thần... đặt sát tám cây thông
phấn vàng và mười ba cây mai Huỳnh tỉ nở hoa trăm cánh...
Hảo chỉ coi hết ba vạt đất thôi, phần còn lại
để dành khi khác. Trên mấy mẫu đất của Thái có mặt đầy đủ tất cả loài cây Việt
Nam từ phượng vỹ, xoài, quế Huyền Trân, mít tố nữ, hoè, xoan và ba cây bàng
trăm năm... và cả cây cao su đặt mua từ Indonesia hoặc Malaysia... Người nghệ
sĩ làm vườn tôn thờ anh linh của tất cả cỏ cây, họ không uống rượu không hút
thuốc lá... Hảo thường thấy họ ăn chay và thương yêu súc vật, họ nuôi gia súc
và săn sóc chó mèo rất cẩn thận. Công tác làm vườn cao cả quá khiến họ học được
phép tu thiền và phép thở của đạo Phật.
Hảo quay sang Thái: “Khu vuờn của chị là một
kỳ công, một tuyệt phẩm nói lên được đức tính chịu khó của chị. Ngày xưa,
Napoleon hoặc Augustus Ceasar mỗi khi chỉ tay vào các thuộc địa gồm trong đế
quốc rộng lớn của mình, thường chỉ nói một tiếng ‘My empire.’ Hôm nay, chị có
thể đứng giữa khuôn viên của chị, tự hào, rất tự hào, nói rằng: “Mảnh đất tôi,”
vì chị không phải chỉ moi đất để chôn xuống đó một thân cây, một hột giống mà
thôi, bởi chị đã vùi theo xuống đó một mảnh lòng, và mấy hơi thở của chị. Chị
sở hữu một chỗ ở trong đó chị đã viết và vẽ. Và chị, chị đã làm cho tuổi già
của chị có một gia vị riêng.”
Hảo đã ăn của Thái những bữa cơm thiền tức là
những bữa cơm thanh bạch không có thịt bò mỡ heo. Buổi trưa hai người thưởng
thức món rau muống luộc chấm nước tôm kho đánh, món Huế. Buổi chiều họ ăn rau
muống xào kiểu Bắc nồng nàn mùi tỏi, mắm tôm, kinh giới, mè rang... Hai người
đàn bà ngồi ăn trong căn bếp mà cái máy hút bụi Eureka đã hít sạch cả đến những
hạt rác chỉ bé bằng một phần bảy muơi lăm đường kính của một sợi tóc: Bếp sạch,
cơm thơm, thức ăn bổ lành. Hảo quan sát cung cách ăn uống của Thái: ba lần xới
cơm tức là ba chén cơm lưng lưng ngang miệng ăn với tôm rim bóc vỏ bỏ đuôi. Vừa
ăn vừa húp một tô nước luộc rau muống dầm cà chua vắt chanh, loại chanh giấy xứ
Huế chứ không phải là lime hay lemon của Mỹ. Sau đó, Thái tráng miệng một trái
thanh trà lão, lớn bằng trái bưởi Biên Hòa.
Thái nói: “Chị có thể ăn một lúc bao nhiêu cái
đùi gà?”
“Ba bốn cái là nhiều. Đêm Trung thu, tôi chỉ
ăn một cái bánh nướng thôi.”
Hảo nhìn ra khu vườn tuyệt vời và ngắm ngôi
nhà tuyệt mộng của Thái rồi nói: “Nếu
mình làm việc gì, cái gì và cái đó, việc đó...
nó nhai nó nuốt hết cả thì giờ của mình như hiện tại chị và cái vườn của chị
đây, chị dành hết tuổi già của chị cho nó thì nó, tức là cái vườn là tác phẩm
chị đã viết ra cho đời mình và chị là một nghệ sĩ.”
Trong tác phẩm “My son. My son”nhà văn Anh
quốc Howard Spring kể chuyện một người viết văn và một người thợ mộc, Dermot và
William. Dermot yêu gỗ. Oak, Ash, Walnut ,Teak... gỗ lim, gỗ mun, kiền kiền,
trắc bá diệp... Như thi sĩ ngâm thơ vịnh nguyệt, chàng thợ mộc kêu tên mọi loài
gỗ quý, chàng nâng niu tất cả những dụng cụ của kẻ làm nghề gỗ như búa, kìm,
cưa, kéo, đẽo, đục, chỉ trừ cái đinh ốc là cái chàng ghét. Chàng quan niệm người
thợ mộc hữu tài không bao giờ xử dụng cái đinh ốc tức là con vít. Phòng làm
việc của chàng là nơi sản xuất tất cả bàn ghế giường tủ, đồ chơi bán ra thị
trường. Chàng cao gầy, mặt xương xương, hai má hơi hóp, chỉ trừ một điểm khác
với người hùng trong tiểu thuyết Lê VănTrương là hai đường lông mày của chàng
thường xuyên bám những hạt bụi của bột gỗ từ mạt cưa bay ra. Khi chàng chưa
chính thức trở thành danh tướng trong nghề gỗ của nước Anh, thì vợ chàng đã coi
chàng như một danh nhân của ngành nghệ thuật quan trọng là gỗ.
Thành công chậm hơn, William tức Bill được gia
đình Dermot nâng đỡ trong những ngày William chưa có sách bán chạy hàng đầu nước
Anh. Cuốn tiểu thuyết là một màn kịch bi đát với nhiều vấn đề khác.
Thái không thích câu chuyện đó, lảng sang
chuyện khác. “Chị làm ở nhà băng nào vậy nhỉ?”
Hảo không thích nhắc tới công việc làm ăn lúc
này nên nói: “Băng vệ sinh.” Rồi trả lời tiếp: “Tôi sắp bị cái nhà băng vệ sinh
Bạch Tuyết này sa thải rồi.”
Thái lại nói. “Thằng con của tôi cũng đã tự
tiện lấy vợ rồi.”
“Vợ người gì?” Hảo hỏi mau.
Thái tự hào. “Người Việt Nam.”
Hảo khen. “Thằng đó có hiếu quá. Chị có
phước.”
Đêm thứ bảy trời hầm, gió Thái Bình Dương
không thổi vào lục địa được, cây liễu và những cây nhược tiểu cũng không lắc
mình. Hảo thao thức nhớ một câu chuyện cũ: Thể Phụng ngày xưa cùng học trường
Đồng Khánh Huế, yêu một chàng Hoa Kỳ sang Nam truyền đạo Tin Lành. Gia đình
không chấp thuận. Thể Phụng cứ việc đẩy tình yêu đi đến hôn nhân với Mark. Mark
bảo rằng trước anh và em đã có những cuộc tình Việt Mỹ rồi. Hai quốc gia liên
kết để chống Cộng nhưng anh, anh yêu đạo Tin Lành và anh yêu em. Đây là lần thứ
hai Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Lần thứ nhất xẩy ra năm 1845, thời gian cấm đạo
gay gắt nhất dưới triều Nguyễn: giết giáo dân và chôn sống giáo sĩ. Tàu USS Constitution
của hải quân Hoa Kỳ đã đổ bộ hải cảng Đà Nẵng để giải cứu một vị chân tu Công
giáo người Pháp sắp bị chôn sống. Thủy thủ Hoa Kỳ đã ở lại Việt Nam bốn ngày.
Đó là lần đầu tiên Mỹ xen vào nội bộ Việt Nam. Trong số những thủy thủ Mỹ đến
Nam lần đó có ông nội của anh. Noi gương tiền nhân, hôm nay anh đã đến đây và
yêu em.”
Gia đình Thể
Phụng đăng tin từ con trên mặt báo Ánh Sáng ở Huế và báo Sài Gòn Mới của bà Bút
Trà. Thể Phụng bị tất cả họ hàng lánh mặt khi Mark bảo: “Em hãy quỳ xuống van
xin cha mẹ cho phép cưới anh đi. Dù thế nào đi nữa, hùm thiêng cũng không ăn
thịt con.”
Thể Phụng bị cha mẹ cấm cửa và họ hàng xua
đuổi. Mark vẫn lạc quan với mấy câu tiếng Việt bì bõm. “Em cứ tiếp tục kêu ca,
cố biểu tình nỗi lòng của em ra để cha mẹ mềm lòng lại.”
Tỉnh Thừa Thiên, tỉnh lỵ thành phố Huế, lòng người
sao đắng cay và đắng chát trăm chiều. Mưa mùa hạ Lào cùng với gió mậu dịch thổi
xót xa vào phần đất thần kinh Nguyễn triều, Thể Phụng lao đao nhưng quyết không
ngã gục. Mark và Thể Phụng xin đổi vào Sài Gòn và cưới nhau. Hai mùa mưa nắng
trôi qua, cha Thể Phụng lâm trọng bệnh và tuy chưa chết, ông đã trối trăn: “Không
cho con Thể Phụng lai vãng gần nhà, không cho con Thể Phụng bước qua chính cổng
ngôi nhà này, không cho con Thể Phụng lẻn vào các cửa phụ, không cho nó đặt
chân vào bên trong, không cho nó có mặt trong căn nhà ba gian hai chái này,
không cho nó để tang đen, không cho nó mặc chế phục quần vải to áo sô gai,
không cho nó lạy truớc bàn thờ tổ tiên tôi và tôi, cương quyết không nhận một
giọt nuớc mắt nào của nó khóc.”
Mark bảo:
“Hùm con cũng không ăn thịt hùm thiêng.”
Phụng cùng
chồng về Huế chịu tang. Người con truởng và bà mẹ triệt để áp dụng lời trăn trối,
triệt để không cho đặt chân vào nhà. Phụng đến thăm cô giáo cũ dạy Việt văn trường
Đồng Khánh năm nào và yêu cầu bà thầy cùng đi với mình.
Bà giáo hăng
hái bảo: “Chuyện gia gia đình em cô không có quyền nói vô, nhưng quý vị cấm em
không được lai vãng gần nhà là không có công lý. Em có quyền đi lại trên con
đường ngôi nhà cha em tọa lạc vì đó là đường lục lộ, của công.”
Bà giáo cùng
đi với vợ chồng Thể Phụng đến điếu tang. Gia nhân nể mặt nhà mô phạm liền mở
cửa nhưng vào tới bên trong thì một cảnh tượng khác diễn ra: từ bà mẹ đến người
con út mỗi nguời cầm một cái chổi đứng sau câu biểu ngữ màu mực xạ: “Trọng tội
bất hiếu Thể Phụng phải xéo ra khỏi nơi này. Nếu còn lai vãng trước cổng ngôi
từ đường này, sẽ có 20 tên ăn mày đứng canh gác để ném phân vào mặt.”
Chàng rể bất
tỉnh trong tay vợ được đưa vào nhà thương dã chiến ở Mang Cá cứu chữa.
Thầy trò Thể Phụng ra về, bà giáo kêu: “Trong
gia đình này, thương yêu không còn nữa, mà chỉ còn tình hận. Quý vị La Hán ơi!
Gia đình em còn mướn cả mấy chục tên ăn mày từ chợ Đông Ba, chợ Bến Ngự, chợ An
Cựu vứt cứt vào mặt em, vào mặt chồng em... Thật là... phải chăng đó là một
hình phạt từ thời trung cổ?”
Trong khi bà giáo đến tòa tỉnh trưởng yêu cầu
công lý can thiệp, thì từ bệnh viện dã chiến Hoa Kỳ ở tiền đồn Mang Cá, Mark
ngậm ngùi bảo Thể Phụng: “Em hãy bỏ anh ra, hãy đừng lấy anh nữa. Anh là người
Tin Lành, chính đạo Orthodox, kẻ vâng theo mệnh lệnh truyền từ tiền nhân.
Orthodox có nghĩa là tuân theo mệnh lệnh của tiền nhân. Ông cha Tin Lành của
anh dạy rằng anh phải kết hôn để duy trì nòi giống và để tạo ra những vị thánh
cho đời. Anh vâng theo lời tiền nhân. Người Tin Lành lấy vợ. Anh theo Tin Lành,
người hiền, em theo Phật giáo, người từ bi. Người từ bi lấy người hiền lành, thật
đẹp đôi.”
Mark nghỉ, rồi tiếp: “Trong đạo Phật, có Phật
giáo orthodox không em? Anh nghĩ rằng gia đình em theo truyền thống từ các ngôi
thiền tự cổ xưa. Những nhà chùa đó có phản chiến không em? Có đuổi Mỹ cút về
Hoa Kỳ không em? Em phải vâng theo lời dạy của cha mẹ, phải kính trọng truyền
thống của gia đình và truyền thống của Phật giáo. Nếu đạo Phật và gia đình cùng
ngăn cản, hãy dứt khoát bỏ anh ra đừng lấy. Truyền thống của hai tôn giáo khác
biệt nhau rồi... có phải vậy chăng?”
Thể Phụng hấp tấp kêu: “Mẹ em chẳng hiểu biết
orthodox là cái gì đâu. Mẹ em khi lạy Phật thì xuýt xoa và hít hà thôi.”
Thể Phụng nhìn chàng ngẫm nghĩ rồi tiếp: “Em
chẳng hiểu orthodox nghĩa là gì, nhưng nếu em hiểu thì chính nghĩa của lòng em
là tình yêu anh. Đời riêng và tâm tư của em là sống để lấy anh.”
Sau khi bà giáo đến khiếu nại tại tòa tỉnh và
ty cảnh sát thì xe quân cảnh Mỹ chở Mark và Thể Phụng đến trước cổng nhà đám
trước giờ đưa ma.
Tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên, Thị trưởng thành
phố Huế, Quận truởng quận cảnh sát hữu ngạn sông Hương, Hội truởng hội bảo vệ
thuần phong mỹ tục tức tốc phái năm nhân viên công chánh và sáu cu li sở lục lộ
đến đo đạc một khoảng cách mười mét từ cổng tang gia ra tới đường cái quan của
nhà nước. Bốn cảnh binh giao thông kiều lộ và ba công an chìm đứng kèm hai bên
để Thể Phụng có một chỗ đất an toàn sụp lạy cha già bốn lạy và sáu cái vái.
Đây chỉ là một câu chuyện cũ thuộc thời gian
khá xưa trước khi xẩy ra cuộc đổi đời, và một câu chuyện như vậy không khi nào
có thể xẩy ra sau cuộc đổi đời được.
Hảo chưa ngủ được gì hết thì đã sáng chủ nhật.
Hôm nay, điện thoại chỉ reo một lần.
Hảo bảo con: “Mẹ nghĩ con nên có hai ba người
bạn trai một lúc để tuyển lựa một người. Đàng này con chỉ đi lại với một người
thôi rồi lấy người đó.”
Thúy cãi: “Có sao đâu mẹ, mẹ thật lộn xộn.”
Hảo bực tức: “Nếu bố mầy còn sống, chắc chuyện
sẽ xảy ra một cách khác. Nếu mày đem thằng bồ Mỹ về nhà ra mắt bố mày!!! Từ
ngày sang Mỹ, bố mày không nói chuyện với người Mỹ, không đến nhà Mỹ, không ăn
cơm không uống nước với người Mỹ. Mỗi lần người Mỹ đến nhà, bố mày đùn mẹ ra
tiếp, bố mày chạy xuống basement trốn. Đó, những cái bố mày không làm thì bây
giờ chúng mày làm đủ.”
Ngoài kia, gió mát trời xanh. Thảm cỏ dày bên
kia láng giềng, bà hàng xóm cắt cụt như cắt tóc. Hảo vẫn nhìn ra ngoài, nói
tiếp: “Jeffrey... mẹ chỉ sợ nó sẽ bỏ con sau này.”
Giọng Thúy chán nản: “ Đó, bản cũ sao lại, mẹ
tôi sắp lôi chuyện cũ ra nói rằng người Mỹ phản bội, người Mỹ bỏ chạy... Mẹ,
giáo sư Kallas có cho con mấy tài liệu cũ về chiến tranh Đông Dương. Người Mỹ
có chính sách Monroe của họ. Trước giờ phút cáo chung của Nam Việt Nam dưới tay
Bắc Việt Nam, nước Mỹ phải lo cho cái thân của nước Mỹ trước đã, nước Mỹ không
thể cứu Nam Việt Nam được, và cũng không cứu Campuchia với Laos được. Nước Mỹ,
họa may, chỉ có thể cứu nước Canada mà thôi nếu nước này lâm nạn. Chính sách
Monroe nói rằng bất cứ quốc gia nào bị Cộng sản tấn công, nước Mỹ cũng phải
đứng ngoài không được nhảy vào. Khi kinh đô Moscow hắt hơi sổ mũi, toàn thể thế
giới ngứa cổ cảm cúm ho khan.”
Hảo cãi: “Năm 1947, chính sách Truman viện trợ
kinh tế và quân sự cho bất cứ quốc gia nào bị Cộng sản hành hung. Mười lăm năm
sau, những người Việt Nam chống cộng không quên được nụ cười thân ái của Tổng
thống Kennedy.”
Trong bốn đứa con của Hảo, chỉ có đứa con gái
đọc sách và không coi tivi quá độ như ba thằng con trai. Con cái không chống
Cộng, đó là một chuyện Hảo thấy được. Còn rất nhiều chuyện khác, giữa mẹ và con
có những bức tường ngăn cách.
Thúy nói tiếp. “Theo tài liệu giáo sư Kallas
cho con, khoảng gần cuối năm 1974 quân Khờ-me đỏ đánh Cao Miên, mất sáu tháng
tàn sát, họ mới vào được kinh đô Pnom Penh giết chết ba triệu người. Tiếp theo
1975, quân Bắc Việt tổng tấn công Nam Việt Nam, và miền Nam đã tan ra, rã ra và
rớt xuống như trái sầu riêng rụng.”
Hảo ngồi nghe đứa con gái đọc bài tiếp. “Báo
chí miền Nam hồi đó đã đăng tin về sự can đảm của một người Miên, Hoàng thân
Phó thủ tướng Sirik Matak. Khi kinh đô Pnom-Penh thất thủ, người Mỹ cuốn gói ra
về đem theo những ai đã từng cộng tác với họ. Một viên chức bộ ngoại giao Hoa Kỳ
hỏi hoàng thân Sirik Matak: “Ông có đi theo chúng tôi không?” Hoàng thân gật
đầu, viên chức Mỹ dục: “Vậy thì ông hãy nhanh tay lên, máy bay chúng tôi đang
chờ, ông hãy mang theo ít đồ thôi, bỏ những cái không cần thiết lại, không
được, không được ôm theo nhiều thứ như vậy, nhanh lên ông, bỏ cái này lại, bỏ
cái nớ lại... nhanh lên.” Lập tức ông Phó thủ tướng Miên kêu lên. “Hỡi người Mỹ
hãy cút về nước đi! Mới ngày nào, các ông đến quê hương tôi, hứa hẹn này nọ... giờ
đây ông la hét tôi phải thế này thế nọ... ông coi thân phận những thằng mãn phu...
thân phận tôi như như... Người Mỹ hãy cút về nước, hãy cút đi! Tôi không đi
theo ông, tôi ở lại.”
Hảo bảo con: “Bởi đó, mẹ càng không thích
người Mỹ chút nào hết, họ cứ nói xấu người Việt Nam quốc gia hoài và họ cứ
khen, cứ nói tốt người Việt Nam cộng sản hoài.”
Thúy kêu: “Mẹ, hãy tốp bớt nỗi niềm chống Cộng
trong lòng mẹ lại. Bây giờ, cái quan trọng của cuộc đời mẹ nhất là giữ lấy công
ăn việc làm của mẹ. Con lo cho mẹ lắm. Con sợ mẹ sẽ bị thất nghiệp.”
Hảo bực mình nhìn ra ngoài kia trời thanh vắng
và nắng hanh vàng. Thúy nói tiếp: “Nói chung chung, nước Mỹ là một xứ sở của đồ
ăn nước uống, nó không để cho ai chết đói, chết khô. Và nước Mỹ cũng là một xứ
sở của quần áo, nó không để cho ai chết queo, chết lạnh. Nhưng, sống ở Mỹ mẹ
phải làm việc... để tránh nghèo đói và lạnh lẽo... Thôi con chào mẹ, thời tiết
hôm nay khá tốt, mẹ làm việc nhà đi.”
Hảo đem mớ áo quần bẩn ra giặt, nghĩ đến những
món đồ dơ khác như màn cửa, và mấy tấm ra trải giường, vạt cỏ phải cắt. Hảo vừa
cho máy giặt chạy thì Thúy lại gọi. “Mẹ, hãy cố gắng đến cùng đừng để mất việc.
Bố chết, mẹ vẫn đi làm việc như thường, đó mới là mẹ ngoan. Bố chết, nếu mẹ về
hưu non, hoặc để mất công ăn việc làm... vậy là mẹ hư. Nếu mẹ để mất cái job mẹ
đang làm, mẹ sẽ không thể nào xin được một việc làm nào nữa.”
Hảo mở rồi đóng cánh cửa máy sấy lại nghĩ rằng
con bé này bây giờ lanh quá. Hiện tại, hai mẹ con tiêu tiền chung, ký chi phiếu
chung... nhưng mai mốt rồi sẽ đến lúc nó mở trương mục riêng ở một nhà băng nào
đó, và mình phải đứng ngoài rìa cuộc đời nó, mình không nắm được cái đầu và cái
đời nó sống.
Thúy nghiêm giọng tiếp: “Khi chiến tranh lạnh
giữa Nga và Mỹ chấm dứt, những anh hùng lạnh của Mỹ trở về nước, họ bị cưỡng
bức phải về hưu non và về hưu bất đắc dĩ... Nước Mỹ không tàn nhẫn, nhưng nạn
thất nghiệp trên đất Mỹ thật vô nhân đạo. Mẹ, đừng để thất nghiệp...”
Hảo đứng trước cái máy sấy kê sát máy giặt,
đôi chân bỗng mất hơi ấm, cái bụng chợt bóp mạnh. Hảo đến bên bồn nước cạnh đó
và mở cửa sổ. Nắng thu với vài lớp mây bão dầy như những tấm ván đang đi về
thành phố New York miền đông nước Mỹ để lại vài vết nám lớn trên da trời. Đời
tôi cũng có người đi qua và để lại chữ ký. Con chó Nicky nhà hàng xóm có lẽ đói
bụng lễ phép sủa gâu gâu vài tiếng ngắn.
Sáng hôm sau trở lại sở làm, anh bạn Hawai thở
dài: “Thất nghiệp... đến nơi rồi. Mới ngày nào, những sĩ quan tình báo của
chiến tranh lạnh đã thất nghiệp.”
Chàng trai Hạ Uy Di đưa cho Hảo một ít địa chỉ
và số điện thoại của những cơ quan tìm việc. Chàng trai này lúc còn ở hải đảo
chắc cũng khá đa tình! Hắn nói tiếp: “Nhiều người đang làm đơn xin được nhà
băng Wells Fargo lưu dụng sau khi sáp nhập.”
Chiều thứ sáu mây vẫn ba màu. Hảo gọi con thì
nó nói: “Ngày mai con sẽ dẫn Jeffrey đi Portland gặp mẹ.”
Sau khi buông điện thoại, Hảo vội vã lái xe đi
chợ ngay rồi về nhà rút xương hai mươi cái cánh gà, rồi bâm hành đập tỏi, rồi
thái củ đậu, bóc tôm, bằm thịt quấn bốn mươi cuốn chả giò. Sáng hôm sau ngủ
dậy, Hảo ướp cá halibut nấu cháo. Theo lời chỉ dẫn của cô em dâu, Hảo mở hai
lon nước xúp gà, hai lon sò hến nhỏ, rồi rang gạo, nhặt hành ngò nấu một nồi
cháo ấm. Nhà văn Dương Thu Hương dặn rằng khi cháo sôi thì phải xuống lửa ngay
đừng để hạt gạo nát ra như tương Cự Đà. Nồi cháo này chắc sẽ thành công, Hảo
cảm thấy vui khi nghĩ đến những nồi cháo đặc sệt mình đã nấu để mà, ngoài mình
ra không ai ăn được.
Chàng rể Jeffrey của Hảo là một người như mọi
người. Hắn không phải là “Người Mỹ thầm lặng” hoặc “Người Mỹ... ugly” hai tác
phẩm bán chạy trong giai đoạn người Mỹ Việt Nam hóa cuộc chiến để chuẩn bị rút
quân về nước. Hai cuốn sách này đối với Hảo bây giờ chỉ còn là những ngọn đèn
mờ đục, không soi thấu hết nỗi niềm kỳ thị trong lòng kẻ phản chiến cũng như
nỗi hoài vọng của kẻ chống Cộng.
Jeffrey ăn uống vừa phải và nói ít. Khi nhìn
cánh cửa bếp mở rộng, Jeffrey bảo: “Không nên mở cửa nhiều lần, nên đóng cửa
lại ngay vì những con bọ con bug bay vào nhà.”
Tức thì con gái Hảo vui thích kêu lên: “Mẹ tôi
không sợ nhện.”
Rồi hai người đưa mắt nhìn nhau. Hảo hoang
mang không hiểu hai người muốn gì? muốn ngụ một ý nghĩa nào đây.
Sau buổi ăn trưa, Jeffrey đề nghị đi coi vườn
hồng và vườn Nhật, hai cảnh đẹp nổi tiếng của tiểu bang Oregon.
Trở về nhà ăn cơm tối, cháo cá và cánh gà rút
xương. Jeffrey gật gù khen “very good” rồi quay sang Thúy.
“Rút xương gà mất bao nhiêu công phu.”
Rồi Jeffrey
nhìn Hảo: “Nếu Thúy nấu ăn được một phần mười như thế này, tôi chắc chắn là một
người hạnh phúc nhất trần đời.”
Hảo vui vẻ nói đỡ cho con gái: “Nó biết làm
chả giò. Nó cuốn chả giò nhanh lắm.”
Thúy chỉ vào Hảo cười: “Mẹ tôi ăn được hột vịt
lộn.”
Rồi hai người
lại đưa mắt nhìn nhau và Hảo lại hoang mang không hiểu hai người ấy muốn tỏ ra
một điều gì nữa. “Mẹ tôi không sợ nhện và mẹ tôi ăn hột vịt lộn.” Người không
sợ nhện có phải là một người anh hùng, can đảm có thừa? Và mức độ gan góc của
một kẻ không sợ nhện lên cao tới bao nhiêu, có đáng phục như một kẻ không sợ
cọp beo cá sấu? “Mẹ tôi ăn hột vịt lộn.” Ăn hột vịt lộn là một hành động cao cả
hay thấp nhỏ? Tiểu nhân hay quân tử? Liều lượng của lòng can đảm trong tim gan
một chiến sĩ ăn hột vịt lộn to bao nhiêu? Trong quả trứng lộn có bao nhiêu chất
bổ chất béo chất xơ? Mẹ tôi có nên tiếp tục ăn cái thứ trứng lộn tròng đó nữa
không? Hay là phải tốp lại vì ở Việt Nam mẹ đã xơi bao nhiêu đủ rồi?
Lúc từ giã, hai người ôm Hảo. Hảo đứng nhìn
theo xe họ chạy chậm rồi bước vô nhà ngó vào một tá hột gà bà hàng xóm muối mặn
đem cho. Hình như ai đó nói rằng hột vịt lộn là một bào thai tóc đen và khi bị
nấu nóng, bào thai sợ hãi bài tiết ra chất độc. Điều này hoàn toàn trái ngược
hẳn với sách thuốc Tàu. Nhà văn kỳ cựu Bình Nguyên Lộc nói với bạn bè rằng ăn
hột vịt lộn bổ khỏe như ăn phở vậy. Người Huế ngủ đò trên sông Hương ăn trứng
lộn vào lúc đêm khuya trời mát gió trăng giao tình. Người Huế đập nhẹ cái đầu
và cái đít của quả trứng rồi ngửa cổ hút.
“Mẹ tôi không sợ nhện” câu nói vẫn còn theo
Hảo tới lúc đi ngủ. Hảo hồi tưởng những năm tháng đỏ lửa, quân lính Mỹ nhảy vô
chiến cuộc Việt Nam. Mỡ của họ đã sôi vì cái nóng trước khi máu của họ chảy ra
trong những trận giao tranh. Có những cậu lính học trò tuổi từ mười tám, họ tự
gọi họ là “boy.” Thằng con trai khi mới đặt đế giầy đinh xuống phi trường Đà Nẵng
để thấy mặt nước Việt Nam xa lạ lần đầu, nó kêu hoảng lên, nó phát hỏa lên vì
hơi nóng nhiệt đới mà nó gọi là lửa. Bộ quân phục bảnh bao của nó ướt đẫm mồ
hôi và nó bước đi loạng choạng trong cơn sốt: mắt của nó trít lại vì bụi và cát
mù mịt. Bụi Phú Bài, bụi Mang Cá, bụi Huế bu kín tất cả các lỗ chân lông trên
người nó. Hai lỗ mũi nghẹt cứng lại, nó há miệng ra thở thì lập tức cát Cam
Ranh, cát Đà Nẵng, cát Nha Trang luồn vào kẽ răng, lọt xuống yết hầu và rớt vô
khí quản. Nó không nghe được tiếng người nữa vì gió mậu dịch từ Hạ Lào thổi
sang đập vào hai tai nó.
Charlie Việt-cộng không bao giờ dàn bày một
chiến trường đúng đắn để hai bên dễ dàng đánh nhau. Quân du kích ở đâu cũng có
mặt nhưng không thấy hình. Trong chiến cuộc Việt Nam, Charlie có bao giờ ở yên
một chỗ để lực lượng hai bên cài răng lược ăn thua nhau, Charlie ám hết mọi vị
trí và làm chủ tất cả tình hình với lối dụng binh theo chính đạo của đức Thánh
Trần Quốc Tuấn và xảo thuật du kích Mao tse Tung:
Mỹ Ngụy xông lên, phe ta te chạy
Mỹ Ngụy cắm lều, phe ta ra tay.
Mỹ Ngụy nằm ngơi, phe ta đại chiến.
Mỹ Ngụy thụt lùi, phe ta rượt tới.
(The enemy
advances, we retreat;
The enemy camps, we harras;
The enemy tires, we attack;
The enemy retreats, we pursue.)
Thêm vào đó, lính Mỹ khổ đau hơn nữa vì những
con bọ, những con vật bé tí ti không thể dùng súng M-16 mà bắn được. Danh sách
những con bọ có công giúp Cộng sản đánh Mỹ gồm có kiến, muỗi, vắt, đĩa, ruồi,
ốc sên, thằn lằn, gián... nhưng dũng cảm hơn hết là con nhện. Đang ngồi, nằm la
liệt ra đó để nghe nhạc, đánh bài hoặc viết thư nhưng hễ thấy một con nhện bò
ngang qua là lập tức họ hô lên, tán loạn đi tìm bình thuốc sát trùng xịt mù mịt
rồi bỏ đi chỗ khác. Con nhện chắc dốc tổ khi thấy người lính Hoa Kỳ, ngày nào
là người hùng của đệ nhị thế chiến, lại sợ nhện, kẻ lãnh đạo đoàn ‘bọ
binh’chống Mỹ.
Đối lại với nỗi sợ của người lính Mỹ, người
Việt Nam khi đến Hoa Kỳ đã không sợ những gì? Ngủ không sợ muỗi đốt, không mất
công treo mùng. Uống nước không cần đun sôi mất thì giờ.Và hay hơn hết là được
sống trong thời tiết lành mạnh và thở khí trời trong sạch chưa bị ô nhiễm. Tuy
nhiên, những an toàn đó không đủ làm cho ngôi nhà của người di tản có một hồn
phách riêng, một ngôi nhà có thể xác không quan trọng bằng một ngôi nhà có linh
hồn, một chỗ ở có nền văn hóa riêng: nhà Việt Nam ngày xưa có linh hồn tổ tiên,
có đức Phật, đức Khổng và bậc đại hiền Lão Tử.
Ngày xưa Huế, những ngày xưa tôi phá sản đời
con gái, những ngày xưa không có người xưa tôi bị đàn ông cho ế, mỗi đám mây đi
qua tháp chuông nhà thờ Phú Cam đều đã đi qua lòng tôi và để lại một chữ ký,
một nỗi vui ngậm ngùi. Ngày xưa Huế và bây giờ thì còn gì nữa đâu ngoài Huế, đi
đâu thì đi, đứng đâu thì cũng chỉ đứng một chỗ thôi, tôi vẫn không bao giờ quên
được mùi dầu dừa xứt tóc cho láng khi thân thể còn con gái. Ngày xưa Huế, cô
giáo già lam đi chùa Từ Đàm nhiều hơn đi những nơi khác, tôi đã ngắm chùa Từ Đàm
nhiều lần hơn những nơi cảnh đẹp hữu tình. Các vì vua triều Nguyễn đã đúc cho
chùa Từ Đàm một pho tượng Phật rất to lớn và chùa chỉ thờ một bức tôn tượng này
mà thôi. Tôi đi những ngôi chùa khác để ngắm những bức tượng nhỏ. Chùa nào cũng
rất nhiều tượng nhỏ. Tượng Phật, tượng Bồ tát, tượng La Hán.
Hảo bỗng giật
nảy người lên vì một quả điện thoại đểu reo trong lúc mãi suy nghĩ.
“Mẹ, mẹ... chúng con sẽ làm đám cưới...”
“Sao gấp vậy Thúy?” Hảo hoảng hốt hỏi.
“Con định nói với mẹ lúc ăn cơm chiều nhưng
mắc cỡ quá không nói được. Mẹ, con sẽ cưới Jeffrey cuối tháng tới.”
Hảo vẫn còn mất bình tĩnh. “Sao lẹ quá vậy?”
“Không lẹ đâu mẹ ơi, chúng con biết nhau hơn
mười năm rồi mà mẹ. Đám cưới sẽ được tổ chức tại nhà thờ. Đám cưới chúng con
lớn lắm mẹ ơi... lớn lớn lắm.”
Hảo dịch một câu cách ngôn Việt ra English:
‘Không ai khen đám cưới, chẳng ai cười đám ma.’ Người ta không khen đám cưới tổ
chức sang trọng, đầy đủ mặt quan khách; và người ta không ai coi nhẹ gia đình
chết nghèo không đủ sức chi phí đám ma.
“Mẹ, không phải đám cưới lớn là một đám cưới
giàu, mà là một đám cưới tốt được tổ chức tại nhà thờ do các ông cha đứng ra
chủ hôn, đúng nghi lễ và giấy tờ hôn thú.”
Hảo lo lắng hỏi. “Mời bao nhiêu người? đãi ăn
món gì?”
“Ăn cá salmon ám khói... Ngon lắm mẹ ơi.”
Hảo cười. “Bố mày chỉ ăn thịt thôi, bố mày tẩy
chay cá.”
“Mẹ, cá salmon, tiêu biểu cho tiểu bang
Washington, còn con cá halibut tiêu biểu cho tiểu bang Oregon, nhưng cá halibut
mắc lắm.”
Hảo cảm thấy vui: “Hoa sơn lựu tiêu biểu cho
tiểu bang Washington...”
Thúy ngắt lời. “Chi phí do cả hai đứa chịu, mẹ
chỉ đóng góp ba trăm cái chả giò thôi.”
Ui chao thân già này phải đứng thẳng cái lưng
còng để quấn ba trăm chả giò đem tới nhà thờ, cái sức khỏe này phải cầm dao
phay thái mấy chục củ đậu to đại chang, chưa kể tôm thịt hành tỏi phải băm hạt
lựu rồi thì phải gỡ bánh tráng đang dính nhau ra khỏi nhau... rồi thì đứng
chiên... Đầu bếp chính hiệu Trung Hoa không có làm phần việc cắt thái rau quả
hành tỏi, cá thịt... Đó là phần việc của đầu bếp phụ, đầu bếp chính chỉ giữ
việc nêm và nấu thôi... Đức mẹ La Vang ơi! con vừa là đầu bếp chính vừa là đầu
bếp phụ!
Thúy nói: “Mẹ còn một phần việc nữa là mẹ walk
con, mẹ sẽ được thực tập phần việc walk cô dâu trong đêm rehearsal dinner do
nhà trai đãi.”
“Thúy, mẹ chưa thấy một phim, hoặc một màn ảnh
ti vi nào chiếu cảnh đám cưới mà người mẹ phải ‘goát’ con gái mình đi từ phòng
thay quần áo ra tới chỗ ông cha chủ lễ đứng để trao đứa con gái mình tận tay
chàng rể, mẹ chỉ thấy người đàn ông dìu con gái mình đi chầm chậm theo nhịp
nhạc ‘here comes the bride’...”
“Mẹ, bố chết rồi, các cha bảo mẹ phải walk
con.”
Hảo kêu. “Mẹ sẽ điện thoại cho cậu ở Cali và
nhờ cậu làm chuyện đó. Mẹ chưa thấy người đàn bà nào ‘goát cô dâu’ cả.”
Thúy cương quyết: “Cha Slivers muốn vậy. Bố
mất, mẹ còn, mẹ phải walk con.”
Hảo không trả lời, ngó con chim nhỏ bay lại
gần bếp phẹt bậy lên mặt cửa kính. Hai cây lê hàng xóm chín thơm khiến đàn bướm
kéo tới rắc phấn trên những trái tròn mọng nước. Da trái lê nhám chắc tại đánh
phấn bướm.
Sau đó, Hảo điện thoại cho chàng em trai.
“Cuối tháng tới, con Thúy làm đám cưới.”
Giữa hai giây
im lặng, cậu em trả lời: “Vậy là con đặt đâu, cha mẹ ngồi đấy.”
“Chị nhờ Văn thay mặt nhà gái, dẫn nó đi trong
nhà thờ. Nó đòi đi với chị.”
Văn chưa trả
lời, Hảo vội nói luôn. “Đám cưới phải tổ chức tại nhà hàng Tàu mới vui. Phải
không em?”
Đâu đây chừng hai giây im lặng nữa rồi người
em đọc cho Hảo nghe hai câu thơ:
Liễu
tích nghiệp chướng bổn lai không.
Vị
liễu ưng tu hoàng túc trái.
Hảo nói nịnh:
“Em giỏi tiếng Tàu quá, chắc em là đệ tử của Hòa thượng Thích Mãn Giác?”
Rồi Hảo nói lảng sang chuyện ăn uống hằng
ngày. “Chị ăn gạo lứt. Chị làm sữa đậu nành... đúng theo lời em khuyên.”
“Em khuyên chị thêm một lời nữa. Đừng ở một
đời riêng, phải giao thiệp với bạn bè nhiều hơn. Sống chung hòa bình với tất cả
mọi người trong cộng đồng. Có người có ta thì mới vui.”
Hảo nghĩ đến nỗi vui khe khẽ và tiếng nói nhè
nhẹ nằm trong câu hát ‘nắng có buồn bằng đôi mắt em, mưa có buồn bằng đôi môi
em’ trong khi chàng em tiếp:
“Bây giờ, chị hãy tưởng tượng con Thúy lấy một
thằng chồng Việt Nam đàng hoàng, hai bên cha me đứng ra tổ chức một đám cưới
lớn, một đám cưới long trọng được đôi bên bốn bậc phụ mẫu mời ăn ở một nhà hàng
Tàu hoặc một tiệm Mỹ sang trọng... Trước đó, thời gian tổ chức, cỡ một tháng
rưỡi, thiệp hồng đã được gửi đi theo đường bay. Bạn bè của hai nhà trai gái có
đủ thì giờ để chuẩn bị đi mừng một phong bì đúng theo như... như... lâu nay
trong cộng đồng vẫn đi lại với nhau. Nếu đi dự cả hai ông bà hai phần ăn, thì
phải đưa ra một cái phong thư trong đó có bao nhiêu đô-la. Nếu chỉ một nhân
mạng đi dự tiệc thôi thì trong bao thư số tiền chỉ bằng một nửa chẳng hạn. Cái
đó đã có giá nhất định trong cộng đồng rồi. Chỗ mời của tiệc cưới phải là tại
nhà hàng ăn Tàu — đồ ăn ngon- hoặc là nhà hàng Mỹ —chỗ ngồi sang trọng. Sau đó
một thời gian, có hai nhân vật rất uy tín trong cộng đồng, một đại diện cho nhà
trai, một đại diện cho nhà gái hy sinh đôi chút thì giờ để kêu điện thoại hoặc
nói chuyện trực tiếp thân mật thuyết phục mọi người hãy đi dự đám cưới thật
đông. Sau hết, phụ huynh của đôi trẻ mới gọi giây nói mời miệng một lần nữa cho
chắc và để biết số người sẽ đi dự là bao nhiêu để đặt phần ăn.
“Đến khi đám cưới, tưng bừng đại nhạc hội và
dập dìu khiêu vũ, khi quan khách ăn uống vừa lưng bụng, đôi bên cha mẹ dẫn đôi
trẻ đi chào từng bàn ăn một, giờ phút thắm tươi nhất, các phong bì được đưa ra.
Người Việt nam trước đám cưới đám ma thường ăn ở phúc hậu. Khi tiệc vui tàn, ai
nấy về nhà, đôi trẻ cũng theo cha mẹ về nhà, mở bao thư ra đếm tiền. Và, số
tiền mừng sau khi trang trải mọi thứ tốn kém, số tiền mừng đó... đủ cho đôi trẻ
sang năm mua được một ngôi nhà trả góp.”
Hảo lắng nghe lời nói của chàng em mà ngậm ngùi!
Đức Giáo hoàng Phao-Lồ ơi! Con vừa mất một cái nhà. Chàng em nói tiếp: “Đàng
này, chỉ tôi tổ chức đám cưới ở nhà thờ Mỹ, ăn uống trước mặt đức Chúa chứ
không phải trước mặt đức Đạt Lai Lama! Khách khứa tham dự đem quà đến mừng, ôm
đồm một cái hộp gói giấy màu rực rỡ, cột giây satin bóng loáng, ghim vào một
cái nơ to như cái bông thược dược đang nở... Đến giờ phút mở quà, cô dâu chú rể
hồ hởi nêu lên tên người tặng quà, và mở cái hộp ra, trong đó có khi chỉ đựng
một hòn đá mài dao mài kéo!
Chàng em trai Hảo là con trai một trong gia
đình nhiều con gái. Hắn vốn rất ít nói, nhưng hôm nay khá nhiều lời. “Đây là
kinh nghiệm được rút tỉa sau hơn ba mươi năm xa xứ. Nếu chị sống tách riêng ra
khỏi cái bè mà tất cả cộng đồng Việt Nam đang cùng nhau chèo chống, đời chị sẽ lúa.”
Hảo không ưa kiểu nói năng chắc nịch như những
câu định nghĩa trong từ điển Oxford nên gác máy. Từ điển thì chỉ nói đúng thôi,
không bao giờ hay. Trước giấc ngủ có ai đọc từ điển bao giờ đâu.
Hảo thường hay nhìn ra cửa kính. Thiên nhiên
có liên can gì đến tấc lòng? Từ lâu Trời đã cuối mùa hạ, nhưng không có nghĩa
là cuối tháng tám, mà hình như đang giữa tháng chín, có đúng vậy không? Nhưng
chắc không phải là thời kỳ thu phân. Lễ lao động đã qua, mùa hè của người
Indian đã đến. Hảo ngồi xuống cái ghế đan bằng cọng cây wicker với những ý nghĩ
giản dị đang kéo tới trong đầu. Cái đầu như cái máy hút bụi bên trong có một
khoảng trống tối ám. Cái đầu như trái dừa thốt nốt dẹp lép. Tôi đã lấy một
người chồng không uống được nước, chỉ uống rất nhiều budweiser và mỗi ngày có
thể giải cứu được ngót hai chục lon bia bị giam cầm lạnh lẽo trong nước đá cục.
Hôm sau, Hảo trả lời chàng em: “Để con gái tự
do lấy Mỹ và... lại còn làm đám cưới ở nhà thờ Mỹ không có tiền mừng để mua một
cái nhà như con người ta. Lỗ to em ơi! Nhưng... nhưng thôi, hãy đặt hi vọng vào
tương lai, cái sẽ xảy ra về sau vậy. Nếu mình là người tốt, ăn ở tốt... very
nice, người Mỹ họ không ly dị mình, họ đi làm vì mình và khi họ chết, họ để của
cải lại cho mình.”
Chàng em lật đật đổi sang giọng an ủi: “Thỉnh
thoảng em thấy trong vài đám cưới tại nhà thờ Mỹ, có người đi mừng cả bộ nồi
niêu son chảo, có người cho cô dâu chú rể hai cái va li bằng da để đi du lịch. Chị
đừng buồn rầu tiếc của quá hại cho sức khỏe.”
Hảo vẫn ngồi nhìn trời qua cửa kính và vẫn nói
chuyện đều đều với chàng em khi trên cao những đám mây vẫn cụm vào nhau để sau
đó tách riêng ra từng giải.
Tiếng chàng em vẫn đều đều. “Chị hãy dùng thì
giờ rảnh để lên mạng đọc những bài viết trên computer. Có nhiều bài viết về đạo
Phật vô cùng quý giá và những tài liệu về chiến tranh chị không bao giờ tìm
thấy trên sách báo.”
Hảo vội ngắt lời chàng em: “Lâu nay chị thích
đọc sách trên giấy hơn trên màn kính vì có nhiều câu văn cần phải tra từ
điển... ngồi trước computer chị đọc không kỹ.”
Chiều cuối tuần làm biếng trôi qua, chiều thứ
hai khá nhiều công việc, ngày thứ ba đi làm về Hảo ghé chợ mua nửa cân đường
phèn giả nhỏ để dành nêm vào nhân món chả giò thay bột ngọt. Hành tây thái
mỏng, tỏi phải băm chứ không được đâm nát. Mọi thứ đem cất vào ngăn đá trước
mấy tuần lễ, gần ngày cưới mới đem ra quấn chả giò. Công phu nhất là việc thái
hạt lựu từng củ đậu Mễ Tây Cơ to như cái sọ người. Có khi cả mấy công việc cùng
hiện ra một lúc, có khi cả hai tay đều rảnh để Hảo lo lắng đến cái áo cái quần
sẽ mặc trong ngày cưới. Con Thúy sẽ là một cô dâu trắng tươi kéo lê một cái áo
cưới dài quét đất đi trong tiếng nhạc chậm ‘Here comes the bride.’ Con Thúy sẽ
mặc áo rộng quấn khăn vành, ngọc giắt vàng giát giống như ba cô trong Nội,
những nàng công chúa cấm cung mặt nhồi phấn nụ, tay đeo vòng mã não. Một bạn ở
Florida gửi Hảo chiếc áo vẽ để tặng Thúy, một bạn ở Seattle mua cho nó cái áo
thêu. Chàng em trai bỏ chút thì giờ gọi điện thoại: “Chị thấy đó, trong cộng
đồng rất nhiều người tốt, rất ít người xấu.”
Hảo vui vẻ
tiến hành công tác làm ba trăm cái chả giò. Hành, tỏi, củ đậu, đường phèn... Người
Huế gọi chả giò là ram. Ông xã Hảo hồi còn sống nói rằng tất cả những món ăn
Huế ông chỉ thích ăn ram. Người Huế làm nhân ram với bún Tàu và tôm quết tươi
cho thật nhiều hành hương vào. Hảo mơ màng nghĩ tới những ngày xưa tươi thắm
xác pháo vu quy, mẹ Hảo mang áo Cẩm-tự màu vàng phủ ngoài tấm áo dài Vân Nội
thướt tha. Bên trong, sau lớp áo kép kín bưng và nóng bức đó , mẹ Hảo mặc áo
cụt hàng vân vảy cá và quần chân què bằng hàng anbel màu trắng. Hảo như nhìn
thấy lại nhiều và hơi nhiều... Ông nội gửi lời mời cả tỉnh Thừa Thiên đến dự
đám cưới con trai. Bà nội Hảo làm hai trăm cái ram, thơm nức cả làng Chí Long.
Trẻ con bu lại coi đứng chật đường sá. Hảo mơ màng nghĩ tới một xã hội sống
chung vui vẻ, một cộng đồng của ngày xưa, thật xa xưa, một thời kỳ cổ điển
nghèo túng, người dân thiếu ăn thiếu mặc, những ngày xưa đó, ca dao và tục ngữ
đã xuất hiện, và xuất hiện thật nhiều. Ngàn xưa đó, đã có văn nhân, đã có thi
sĩ rồi... nhưng những người đó không biết họ là ai, không biết cây bút, không
biết quyển sách, và công việc viết lách là gì. Họ không sống tách riêng lẻ loi
mà hòa mình chung vui với mọi người trong cộng đồng. Gặp nhau trong đám cưới,
trong tiệc vui, hội hè đình đám, thi sĩ nói ra ca dao giữa thính giả tức cộng
đồng và văn sĩ thốt ra lời vàng, ý bạc tức là những câu tục ngữ cách ngôn... trước
mặt toàn thể công chúng... Cho đến lúc cuộc đời đổi mới nới cũ, các ông bà văn
nhân thi sĩ tự biết mình là chút gì đó. Họ có tư tưởng, có nguồn hứng, có tình
cảm, họ không thổ lộ cùng người trong cộng đồng nữa, họ giấu, họ giữ kín bưng
để làm vốn liếng sáng tác xuất bản, họ viết văn làm thơ đăng báo và in sách!
23 tháng 9 năm 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét