Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2017

TƯỞNG NIỆM HỌA SĨ PHẠM TĂNG 1924-2017

Vũ Trụ - họa phẩm của Phạm Tăng 
Tiểu sử hoạ sĩ Phạm Tăng
Hoạ sĩ Phạm Tăng sinh ngày 12/12/1924, tại Yên Mô, Ninh Bình và mất ngày 9/1/2017, tại Paris. Ngày sinh của ông, nhiều nơi ghi tháng 11/1925, theo giấy thông hành, nhưng giáo sư PKV cho biết, trên bản tử vi, ghi ông sinh hồi 22 giờ ngày 16/11/năm Giáp Tý (tức ngày 12/12/1924). Chúng tôi chọn ngày ghi trên số tử vi, bởi ngày này, do mẹ xác nhận, không thể sai; còn ngày Tây trên giấy tờ, khai sau, hoặc vì muốn rút tuổi, hay vì lý do gì khác, rất có thể sai lầm.  
Phạm Tăng học hội họa và kiến trúc tại trường Mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội, từ năm 1943. Ít lâu sau, ông bỏ ban kiến trúc để chỉ theo hội họa. Nhưng việc học cũng dở dang vì chiến tranh bùng nổ, ông về làm báo ở Nam Định cùng với Trần Lê Văn và Hữu Ngọc, Phạm Tăng vẽ tranh minh họa chống Pháp trong thời kháng chiến. Năm 1954, ông di cư vào Nam, cộng tác và vẽ hý họa cho báo Tự Do (1954-1959), Văn Nghệ Tự Do (1956) và Bách Khoa (1957-1959).
Theo lời Phạm Tăng kể lại: Ngày 27/1/1956, Văn Nghệ Tự Do (số 11 loại mới, bị tịch thu, Bộ thông tin ra lệnh điện thoại, theo yêu cầu của ông Trần Văn Lắm chủ tịch Quốc Hội và chủ tịch Bộ chiêu hồi, khởi tố Nguyễn Hoạt, Lưu Đức Sinh (Mặc Thu), một độc giả tên Nghiêm Phú Lưu (trong mục Tiếng bạn bốn phương) về tội «bình luận xuyên tạc có lợi cho hành động phản quốc gia, phá rối trị an» ; lúc đó Phạm Tăng có hai bức tranh, bị cảnh cáo, nhưng luật sư xin hoãn đến ngày 2/7/1956, nội vụ cũng xong.

Khi tờ Tự Do (nhóm chủ động lúc đó là Như Phong Lê Văn Tiến, Đinh Hùng, Mặc Thu, Nguyễn Hoạt), đả động đến cái xấu của chính quyền, chạm đến phủ Tổng thống, bị Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh Thành ra lệnh tịch thu, khởi tố bài của Nguyễn Hoạt và tranh Phạm Tăng. Bị bắt, bị nhốt vào bót Catinat, giam ba tuần, gặp Chu Tử cũng bị bắt. Nhưng cuối cùng cũng được tại ngoại, tuy có bị đưa ra toà, nhưng toà không muốn xử, Phạm Tăng được trắng án.
Họa sĩ Phạm Tăng 
Năm 1959, Phạm Tăng sang Ý học hội hoạ. Năm 1962, tốt nghiệp ban Hội họa, ông học tiếp và tốt nghiệp ban Trang trí. Sau đó, còn ghi tên học các ban Điêu khắc và Dàn cảnh, nhưng ở mỗi ban, ông chỉ theo 3 năm, rồi bỏ. Phạm Tăng tự coi là mình đã chín chắn trong nghệ thuật kể từ 1965.
Từ 1962, Phạm Tăng đã sống bằng hội họa. Triển lãm ở các đô thị lớn của Ý, như Roma, Firenze, Milano, Venezia... Ở Âu Châu, triển lãm nhiều lần tại Bỉ, Áo, Đức, Hoà Lan, Thụy sĩ, và ở Mỹ châu, tại Brésil và Los Angeles. Phạm Tăng không triển lãm tại Pháp lần nào. Năm 1967, bức tranh Vũ trụ được giải thưởng Unesco. Tháng 3/1972, Phạm Tăng được Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật Ý (Accademia Tiberina) ở Roma vinh danh Viện Sĩ.
Kể từ 1975, ông rời Roma sang Pháp sống ở Paris, quận 13, và ngừng hẳn hội họa, thỉnh thoảng ông làm thơ. Năm 1994, ông về nước, gặp lại một số bạn văn nghệ cũ, cho in tập Phạm Tăng thơ, nxb Văn Học, Hà Nội, 1994, với lời tựa và lời bạt của hai người bạn «cố tri» Trần Lê Văn và Hữu Ngọc. Ông sống những năm tháng cuối ở Bonneuil sur Marne, vùng ngoại ô miền Đông Paris với người bạn đời, bà Phan Thị Hoàng Anh.
Phạm Tăng là nhà danh họa hiếm hoi có một quan niệm triết lý nghệ thuật rõ ràng, nhất quán.
Tuyên ngôn nghệ thuật của Phạm Tăng :
«Ta hãy thử ngắm kỹ những hàng lớp đá chạy trên sườn núi, mây bay vần vụ trên trời, làn sóng cuộn trên mặt bể, dấu vết gió vờn trên bãi cát, đường vân nổi trong con ốc biển, trên mảnh vỏ cây, trong viên đá sỏi, trên mặt rong rêu, ta đều có thể nhận thấy dễ dàng một nhịp vận chuyển thật sinh động tự nhiên hiển hiện thành đường nét...
Nhắm mắt lại, nhìn vào trong lòng mình tôi cũng thấy hiển hiện những đường nét đó. Khi vui khi buồn, lúc mừng lúc giận, nhất nhất mọi trạng thái cảm xúc đều có thể vẽ lên thành những đường nét uyển chuyển trùng điệp gắn bó vào nhau chẳng khác chi những đường nét biểu hiện cái nhịp sống của sự vật.
Bên trong, bên ngoài, nhịp sống đó ngự trị, chi phối tất cả. Đem thể hiện nó lên tranh, tự nó, nó đưa đẩy những hình thể đã được kết tụ, do sự tổ hợp cuả các tế bào và làm cho các hình thể đó trở nên sinh động.» (Giai Phẩm Bách Khoa, xuân 1974)

Thụy Khuê
(Soạn theo tư liệu do Phạm Tăng cung cấp; hợp cùng những lời hoạ sĩ kể lại và những điều ông viết trên Giai Phẩm Bách Khoa, xuân 1974).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét