Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017
Trần Vũ thực hiện Phỏng vấn Tết Đinh Dậu 2017: Trịnh Y Thư, nét linh diệu của sự bất toàn
Sinh 1952 tại Hà Nội, theo gia đình di cư vào Nam rồi du học Hoa Kỳ 1970, Trịnh Y Thư từng giữ chức chủ biên tạp chí Văn Học thời kỳ sau Nguyễn Mộng Giác và Hoàng Khởi Phong tại California. Còn là một nhà thơ, một người viết truyện ngắn, Trịnh Y Thư được công chúng biết đến nhiều với các dịch phẩm Đời Nhẹ Khôn Kham của Milan Kundera, Căn Phòng Riêng của Virginia Woolf và gần đây nhất Jane Eyre của Charlotte Brontë. Thuộc thế hệ tiếp nối thế hệ dịch giả Phùng Thăng, Phùng Khánh, Vũ Kim Thư, Trần Thiện Đạo, Trần Phong Giao, Võ Lang… từng vun bồi tiểu thuyết dịch miền Nam, Trịnh Y Thư xem công việc dịch là một thao tác nhằm tái tạo “thần” của tác phẩm trong một tính thể khác. Sáng tác đã xuất bản: Người đàn bà khác, 2010; Chỉ là đồ chơi, 2012.
Trần Vũ: Là một dịch giả được xem cẩn trọng
trong dịch thuật, quan niệm cùng phương pháp dịch thuật của Trịnh Y Thư ra sao?
Anh dịch sát, dịch tương đương, dịch thoát hay Việt hóa tối đa ngữ pháp? Đối với
anh, dịch có còn là “phản”? Anh làm cách nào để tái tạo văn phong riêng biệt của từng tác giả? Khi
một nhà văn có bút pháp chuyên biệt dùng liên tiếp 5 động từ xếp cạnh nhau với
10 tĩnh từ trong cùng một câu văn, anh có tôn trọng bút pháp ấy? Người đọc sẽ
tìm thấy 5 động từ tiếng Việt với 10 tĩnh từ Việt ngữ trong câu văn dịch hay sẽ mất mát “rụng rơi” dọc đường?
Khi tác giả viết 3 chữ rồi phẩy, 5 chữ rồi chấm, bản dịch của Trịnh Y Thư có giữ
nguyên? Hay cấu trúc
câu sẽ hoàn toàn khác? Dịch thoát giúp văn bản gần với tiếng Việt nhưng cùng
lúc độc giả không còn hình dung ra cách tác giả hành văn thật sự. Ý kiến của
anh?
Dịch phẩm gần đây nhất của Trịnh Y Thư là
tiểu thuyết nổi tiếng Jane Eyre của
Charlotte Brontë. Vì sao phải dịch lại một quyển tiểu
thuyết thật xưa và đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt trước 1975? Tôi từng
không hiểu vì sao Dương Tường dịch lại L’Etranger
của Camus thành Người Dưng mà Lê
Thanh Hoàng Dân và Mai Vi Phúc đã dịch là Kẻ
Xa Lạ in năm 1973 trong Nam. Phải hiểu là Trịnh Y Thư khước từ bản dịch Kiều Giang của Hoàng Hải Thủy? Anh đem đến
gì trong bản dịch cuối cùng? Sau nữa, vì sao chọn dịch tựa Đời Nhẹ Khôn Kham thay vì Nhẹ
Kiếp Nhân Sinh văn chương hơn? Cá nhân tôi vẫn thấy Đời Nhẹ
Khôn Kham chưa nói lên hết dục tính không chịu đựng nổi trong kiếp người mà tựa gốc trong
tiếng Pháp L’insoutenable légèreté de
l’être gợi ra. Chữ “Đời” cũng không hay bằng “Nhân sinh” tương đương với “L’Être”
hơn. “Légèreté” trong tiếng Pháp có hàm ý phóng đãng mà chừng như “Lightness” ít hơn trong tựa tiếng Anh The Unbearable Lightness of Being.
Khi dịch Thư cho một người bạn gái đang du hành của Cortázar, tôi khám phá bản
dịch Pháp văn Lettre à une amie en voyage
của Laure Guille-Bataillon với Letter to a Young Lady in
Paris của Alberto Manguel vô cùng khác biệt. Có những đoạn trong bản Pháp
văn dịch khác hẳn và có những đoạn Anh văn không tìm thấy trong bản Pháp văn và
ngược lại. Kỳ lạ là Julio Cortázar lúc sinh tiền đều chuẩn thuận cho in cả 2 bản
dịch Anh-Pháp này. Không biết tiếng Tây Ban Nha, là bản gốc, khiến tôi vô cùng
lúng túng. Phải theo văn
bản nào? Trần Thiện Đạo, dịch giả của tạp chí Văn trước 75, không chấp nhận Hội
Nhà Văn Hà Nội trao giải thưởng cho một dịch phẩm không
dựa trên nguyên bản tiếng gốc mà thông qua một bản dịch ngoại ngữ khác. Anh đồng
ý với Trần Thiện Đạo?
Chắc chắn anh đã “trải nghiệm” nhiều khó
khăn trong dịch thuật. Anh có thể kể ra kinh nghiệm của mình? Sau hết, vì sao anh
chọn dịch Căn Phòng Riêng của
Virginia Woolf mà không phải Căn Phòng Của
Jacob (Jacob’s Room), hay Những Lượn
Triều (The Waves), hoặc Đường Đến Hải
Đăng (To the Lighthouse) là những tác phẩm làm nên danh tiếng của Woolf?
Trịnh Y Thư: Nói chung có hai xu hướng chính về
dịch thuật văn học: Hoặc trung thành với văn bản của nguyên tác; hoặc đặt trọng tâm vào
yêu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch. Theo tôi, ở thời đại của chúng ta, quan niệm
đúng đắn phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa cả hai xu hướng. Tuy thế, tùy vào tác phẩm và thiên
tư người dịch, ít nhiều vẫn có khoảnh đất trống cho hắn có thể phô diễn nét tài
hoa trong bản dịch của mình. Nói như thế, dịch phẩm sẽ mang diện mạo của người
dịch và điều đó góp phần không ít vào việc tiếp nhận của người đọc. Tôi không
phủ nhận giá trị những dịch phẩm nghiêm chỉnh tuân thủ từng câu, từng chữ, từng
dấu chấm dấu phết trong nguyên tác, nhưng tính Dionysian trong nghệ thuật bao giờ cũng hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn
và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy
dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn.
Nghệ thuật nằm ở cái “thần” của tác phẩm. Ở
bình diện văn học, nó là cái phong cách độc sáng mà mỗi tác giả sở hữu như của
báu riêng. Nắm bắt cái “thần” đó trong nghệ thuật rồi tái tạo nó ở một tính thể
khác, theo tôi, không phải là chuyện bất khả nhưng đòi hỏi tài năng và sức làm
việc khủng khiếp. Phong cách văn học của tác phẩm chính là cái linh diệu của
ngôn từ được sử dụng, người dịch sẽ không công bằng với tác giả biết bao nếu hắn quyết
định lược bỏ những cái mà hắn cho là không thuần khiết trong ngôn ngữ của mình.
(Giữ cho thuần khiết chỉ là cách “chạy làng” có hộ chiếu của những kẻ yếu bóng
vía.) Tuy vậy, chữ nghĩa nằm nơi tầng thứ nhất của tác phẩm, tầng thấp nhất, dễ
tiếp cận nhất và cũng dễ chuyển dịch nhất; sang tầng thứ hai, tầng chứa đựng cảm
xúc, nếu khéo léo và với nỗ lực tối đa, vẫn có thể nắm bắt được; nhưng đến tầng
thứ ba, tầng cao nhất, nơi cái “thần” của tác phẩm ẩn nấp, thì người dịch chỉ
có cách dùng trực giác của mình để “tùy cơ ứng biến” mà thôi.
Anh nhắc đến cuốn tiểu thuyết Đời Nhẹ Khôn Kham của nhà văn Czech
Milan Kundera. Vâng, cách đây khá lâu tôi bạo gan dịch và xuất bản cuốn tiểu
thuyết ấy. Nhìn vào nhan đề cuốn sách, hiển nhiên vấn đề quan trọng và gay go
nhất cho người dịch là làm thế nào dịch từ “being”
cho chuẩn và hay. Tôi đã mất khá nhiều thời gian suy nghĩ tìm kiếm một từ tiếng
Việt thích hợp cho nhan đề của bản dịch. Khi tác phẩm khởi đăng nhiều kì trên tạp
chí Hợp Lưu, tôi chọn “Nhẹ Kiếp Nhân Sinh” vì tôi thấy cụm từ
“kiếp nhân sinh” có vẻ “ăn khách vì hợp thời trang triết học hiện sinh”! (Phần tư thế kỉ trôi qua, bây giờ
nghĩ lại tôi cảm thấy buồn cười cho chính mình). Lúc ấy trong đám bạn bè có người
thích nhan đề này. Tuy vậy tôi vẫn thấy có cái gì không ổn và tôi nhíu mày bảo
anh bạn tôi, “Nhưng nhan đề thiếu chữ Unbearable
vốn quan trọng không kém và Kundera sẽ không vui nếu ông ta biết tớ bỏ một chữ,
làm sao bây giờ? Hay là cậu cho tớ thêm từ kép Khôn Kham
vào thành Khôn Kham Nhẹ Kiếp Nhân Sinh
nhá. Nghe như câu lục của bài thơ lục bát ấy. Được không?” “Xì, tựa sách gì mà
dài như chợ Đệu, chẳng ma nào thèm mua đọc đâu.” Anh bạn tôi trề môi lắc đầu.
Thế là sách có nhan đề mới “Đời Nhẹ Khôn
Kham” như anh thấy. Từ “nhân sinh” biến thành “đời” và Kundera, nếu biết,
chắc chắn sẽ không vui bởi “being” với
ông không phải là “đời sống”! Kì thực, ngay cả “nhân sinh” hoặc “hiện tính”, “hiện
tồn”, “hiện hữu”, “hữu thể”, “thể tính”, “con người”, “thể chất”, “bản chất” và
cả chục từ khác tôi tìm thấy trong các từ điển Anh-Việt cũng không thể nào phù
hợp một cách xác thực với ý nghĩa Kundera muốn nói đến trong từ ngữ. Ông nói
như sau về ý nghĩa của từ “being” dưới
nhãn quan siêu hình của ông: “… Nếu sau
khi chết chúng ta vẫn tiếp tục mơ, sau cái chết vẫn còn có cái gì đó thì cái chết
không thể nào giải thoát chúng ta ra khỏi nỗi kinh khiếp của cái being.”
Đúng ra, ông mượn câu độc thoại của Hamlet “To
be or not to be” trong vở bi kịch Hamlet
của Shakespeare. Trong mắt nhìn của Kundera, “Hamlet đưa ra vấn nạn về cái being chứ không phải đời sống. Sự kinh
khiếp của being là: Cái chết có hai mặt.
Một mặt là cái non-being, mặt kia là
sự hiện hữu duy vật đáng sợ của cái thây ma.”
Hiển nhiên, Kundera hiểu từ “being” không
hoàn toàn giống như Heidegger, và có lẽ lại càng không giống cách hiểu của tôi
và anh. Thú thật với anh, phải chi tôi được quyền dịch là “Khôn Kham Nhẹ Cái Bi-ing”!!! thì đỡ khổ cho tôi biết mấy. Nhưng tôi
cũng chỉ là kẻ “yếu bóng vía” mà thôi.
Kundera viết cuốn tiểu thuyết này bằng tiếng
Czech, tôi dịch sang tiếng Việt theo ấn bản Anh ngữ của dịch giả Michael Henry
Heim. Dịch như thế có thể khiến nhiều vị thức giả nghiêm túc và cẩn trọng cau
mày không chấp nhận sự nhiễu xạ trong văn bản vì e lâm vào tình trạng “tam sao
thất bản.” Điều ấy có thể là chính xác cách đây nửa thế kỉ khi một dịch giả Congo không biết tí
gì về văn hóa Trung quốc dịch Kim Bình
Mai dựa trên bản dịch tiếng Pháp của một dịch giả người Pháp, chẳng hạn. Ở
thời đại của chúng ta, với sự bùng nổ của mạng lưới thông tin toàn cầu và tất cả
những phương tiện truyền thông lẫn giao thông hữu hiệu nhất, thế giới càng ngày
càng thu nhỏ thành một cái làng, tôi thấy quan điểm trên không còn đúng nữa.
Tiện đây tôi cũng muốn thưa với anh là
Kundera gần đây đã nhuận sắc bản tiếng Anh của tác phẩm này và tôi cũng đã hoàn
tất việc chỉnh sửa và dịch lại cho sát với văn bản mới. Hi vọng có NXB nào chịu
in để kiệt tác của ông nhà văn này có thêm một đời sống nữa.
Về cuốn Căn Phòng Riêng của nữ sĩ người Anh Virginia Woolf, sở dĩ tôi dịch
là do lời mời cộng tác của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh thông qua nhà xuất bản
Tri Thức ở Hà Nội. Woolf là một trong những tiểu thuyết gia lừng lẫy của thế kỉ
XX, và theo chỗ tôi biết thì đấy là tác phẩm đầu tiên của bà được dịch sang tiếng
Việt. Mặc dù cuốn sách là tổng hợp những bài giảng về đề tài “Phụ nữ và sáng
tác văn học” chứ không phải một tác phẩm tiểu thuyết, nhưng qua cuốn sách độc
giả Việt Nam đã có cơ hội làm quen với bút pháp “dòng ý thức” rất đặc trưng của
bà. Cuốn sách đặt nền móng cho cao trào nữ quyền phát triển mạnh suốt thế kỉ XX,
và câu hỏi của Woolf đặt ra trong cuốn sách, “Liệu các
nhà văn nữ có thể sáng tạo nên những tác phẩm tầm vóc như của Shakespeare
không?” cho đến ngày nay vẫn chưa có câu trả lời. Ấn bản đầu tiên của bản dịch
ra mắt công chúng năm 2009 và năm 2016 NXB Tri Thức cho tái bản cuốn sách.
Cuốn Jane
Eyre đến với tôi cũng trong hoàn cảnh tương tự.
NXB Nhã Nam (Hà Nội) một hôm mời tôi cộng tác dịch. Tôi không rõ lí do vì sao họ
muốn xuất bản một bản dịch mới bởi đã có chí ít hai, ba bản dịch khác nhau trước
đây. Còn việc đem ra đối sánh với các bản dịch cũ thì thú thật với anh tôi chưa
đọc bản dịch tiếng Việt nào cả. Do đó tôi không thể xác định “trị giá gia tăng”
của bản dịch này. Hơn nữa theo tôi thì công việc ấy là của độc giả và các nhà
phê bình. Tôi chỉ biết cố gắng làm hết sức mình trong phạm vi có thể.
Dịch Jane
Eyre vừa dễ vừa khó. Dễ vì đây không phải là một tác phẩm tiểu thuyết đầy
màu sắc triết học siêu hình khó đọc. Nhưng khó vì ngôn ngữ văn học của tác phẩm
là loại Anh ngữ của dòng văn học Anh thế kỉ XIX. Có những từ ngày nay không mấy
ai sử dụng nữa, hoặc nếu còn thì thông thường lại được hiểu theo một ý nghĩa
khác (chẳng hạn, từ ejaculate, mà cô
em Emily cũng hay dùng trong cuốn Wuthering
Heights). Điểm khó khăn khác cho người dịch, cũng như người đọc, là sự
phong phú của chữ nghĩa, sự xa lạ của cảnh vật, sinh hoạt, tập quán đối với đa
phần người Việt. Tác phẩm cũng trích dẫn nhiều điển tích từ Kinh Thánh hoặc các
tác phẩm văn học cổ điển mà nếu không rõ xuất xứ thì khó có thể lĩnh hội điều
tác giả muốn biểu đạt.
*
Bùi Vĩnh Phúc: Con đường từ những
dòng chữ khắc nên
Sinh năm 1953 tại Hà Nội, dạy Pháp văn và Việt văn tại
nữ trung học Nguyễn Bá Tòng Sài Gòn cho đến 1977 sau khi trường đổi thành trường
phổ thông cấp 3 Bùi Thị Xuân. Vượt biên rồi định cư Hoa Kỳ từ 1978. Là thuyết trình viên về ngôn ngữ và văn hoá cũng như về giáo dục và tâm
lý-xã hội tại nhiều đại học, Bùi Vĩnh Phúc hiện dạy
Anh văn và Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam cho hệ thống Cal State University và
Golden West College. Bên cạnh chuyên luận Trịnh Công Sơn: Ngôn Ngữ & Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, Bùi Vĩnh
Phúc còn được biết đến qua nghiên cứu Lý
Luận và Phê Bình: hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995.
Tham gia văn học
di dân ngay từ đầu, Bùi Vĩnh Phúc thường xuyên dự phần vào các tranh luận xác định
tính cách cũng như danh xưng của dòng văn học này. Cũng là một trong những nhà
phê bình đầu tiên phân chia dòng, nhánh của văn học hải ngoại: Một “lưu thủy
miên man” qua những “con đường khắc bằng chữ.”
Trần Vũ: Đầu thập
niên 90 trên tạp chí Văn Học nhà văn Nguyễn Mộng Giác báo động về tình trạng “cầm
chừng” của văn học hải ngoại với sự sa sút phẩm chất của sáng tác. Sau một thập
niên 80 sôi nổi với một lớp người viết mới đồng loạt xuất hiện, bỗng
dưng từ 92-93 tất cả bỗng khựng lại. Những truyện ngắn trân châu hiếm dần, những
tiếng thơ lạ biến mất… Trên các diễn đàn Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Cao Xuân Huy, nhà
phê bình Thụy Khuê, cố giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, nhà tiểu luận Trương Vũ, thi nhân Trần Mộng Tú, và
chính anh cùng tham gia lên tiếng về hiện tượng này. Tựu chung chia làm hai
cách nhìn. Một bên xem Văn học Hải ngoại đang thoái trào. Một bên lập luận sách
vẫn in, báo vẫn ra, tập san, nguyệt san vẫn hiện diện, tức vẫn phồn thịnh. Tôi còn nhớ quan điểm của tôi trong tiểu
luận “Những Vòng Tường Ghetto” trên Hợp Lưu không được anh chấp nhận. Phần
khác, khi ấy Trần Mộng Tú yêu cầu cần thông cảm các nhà văn nữ vừa đi làm vừa
sanh con, vừa đi chợ nấu ăn lo cho gia đình, không nên đòi hỏi thái quá ở người
đàn bà Việt cầm bút. Cá nhân tôi không đồng ý, độc giả đọc tiểu thuyết
không cần biết nhà văn 1 vợ 5 con, đang làm 2 jobs hay đang thất nghiệp. Khi bỏ tiền mua
tác phẩm, người đọc trông đợi phẩm chất của văn bản. Hai thập niên sau, Văn học Hải ngoại điêu
tàn. Không nhà xuất bản, không tạp chí giấy in, không sinh hoạt văn học và cũng
không còn tác phẩm nào gây tiếng vang hay đánh động dư luận. “Điêu tàn”, là một cách nói văn hoa
thay cho tiếng lấp đất của thần chết. Hai thập niên sau, nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc có
còn lạc quan?
Nhìn rộng ra, một trong những khó khăn của Văn học
Hải ngoại là tiền in ấn với cước phí quá cao khiến giá thành của một ấn phẩm đến
tay người đọc gấp mấy lần tô phở. Tôi còn nhớ giá bán tạp chí Hợp Lưu là 10 $,
thêm 5 $ cước phí gửi sang Âu
châu, là 15 $ mà khi ấy 6 quan Pháp mới bằng 1 đô-la. Internet giải quyết khâu
phát hành này. Nhưng rồi, chậm rãi nhiều người viết nhận ra chính Internet đã
làm vẩn đục môi trường sáng tác và cũng chính Internet tàn phá văn xuôi VN.
Không còn những chủ bút kinh nghiệm, vững tay nghề như Mai Thảo (khi còn sức khỏe),
Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác tuyển chọn gắt gao, ngược lại đông đúc các web site
vì nhu cầu cập nhật hàng ngày đã rơi vào “chủ nghĩa dễ dãi”. Sáng tác, nhất là thơ, tràn lan đến bội thực. Văn xuôi rơi vào
tình trạng sản xuất nhanh, để tiêu thụ nhanh… Thêm tuyệt vọng khi không còn một
tập san văn chương giấy in uy tín nào nữa, cả trong lẫn ngoài nước. Là một phê
bình gia theo dõi Văn học Hải ngoại từ đầu, Bùi Vĩnh Phúc kiểm nghiệm gì? Một nền
văn học khỏe mạnh có nhất thiết phải là một nền văn học giấy in? Có phải Văn học
Hải ngoại đã chết thật và sấm tiên tri của Võ Phiến “Mười lăm năm nữa biết có còn ai đọc sách tiếng Việt nữa không…” đã
ứng nghiệm?
Bùi Vĩnh Phúc: Xin cám ơn câu hỏi
của nhà văn Trần Vũ. Câu hỏi của anh lại
kéo tôi về cái thời xa cũ ấy. Cũng trên dưới một phần tư thế kỷ rồi. Nhân tiện,
tôi cũng muốn nói rõ lại đôi chút trong phần câu hỏi của anh. Vấn đề không phải
là vì nhận thấy sau giai đoạn 1992-1993 trở đi, dòng văn học hải ngoại có vẻ có
những dấu hiệu “suy thoái” hay “bế tắc” mà chúng ta có cuộc tranh luận ấy. Cuộc
tranh luận có thể nói là đã bắt đầu với bài viết của anh Nguyễn Mộng Giác (“Góp Ý về Một Cách Nhìn”, Văn Học Xuân
Tân Mùi, 1991), rồi sau đó là bài của chị Thụy Khuê (“Đập Vỡ Cái Ghetto”, Thế Kỷ 21, tháng 9, 1991), rồi bài viết của
anh, Trần Vũ (“Những Vòng Tường Ghetto”,
Hợp Lưu, số 2, tháng 12, 1991). Sau đó là bài viết của tôi (“Nghĩ về Huyền Thoại “Ghetto” và Vài Vấn Đề
Liên Hệ trong Nền Văn Học Việt Ngoài Nước”, Hợp Lưu, số 3, tháng 1, 1992),
cùng với một số bài viết và ý kiến của các vị khác trên một số diễn đàn khác
nhau… Nhìn và nghĩ lại những điều đó,
tôi thấy lại tất cả tuổi trẻ của mình, của chúng ta. Dạo ấy, chúng ta có những
trao đổi thật đáng quý. Thật lòng và thẳng thắn. Tất cả chỉ vì sự tự ý thức của
những người cầm bút. Nhìn ngắm và suy nghĩ về chữ viết của mình. Từ đó, về con
đường mà những dòng chữ ấy đã khắc vạch nên. Và về cái hướng mà những vết mực
kia loang ra, chảy tới (Phải, dạo ấy những người cầm bút của chúng ta chưa có
cơ hội để thành những kẻ-gõ-bàn-phím như bây giờ!).
Tôi nghĩ, để công bằng với các tác giả hơn, có lẽ chúng ta phải đọc lại
và xét nội dung của những đóng góp, tranh luận ấy trong toàn bộ các văn bản của
nó, hơn là chỉ đưa ra một cái nhìn tóm lược trong một hay hai câu văn. Riêng phần
tôi, trong bài thảo luận, chia sẻ cái nhìn của mình, có nhiều điều tôi đồng cảm
với cách nhìn nhận của nhiều tác giả mà anh đã nêu tên trong câu hỏi của anh
(dù là những tác giả đó đã bênh vực cho những cách nhìn nhận hay đánh giá trái
chiều nhau), chỉ có điều là tôi không đồng ý với cách dùng từ “ghetto” với nội
hàm mà tôi cho là có phần tiêu cực trong bài viết của những người đã đặt vấn đề.
Và khoét sâu vào nó. Tôi đã gọi đó là một “huyền thoại”, một “huyền thoại” thời
mới. Tôi đã nói khá kỹ về vấn đề đó trong bài viết của mình. Bây giờ, tôi vẫn bảo
lưu những ý kiến ấy. Về vấn đề “suy thoái” và/hay “trì trệ”, từ đó, qua phân
tích của các tác giả thượng dẫn, có nguồn gốc từ một số yếu tố tiêu cực có mặt
trong cộng đồng người Việt ngoài nước, hoặc từ đó, đưa đến một số kết quả đáng
phàn nàn trong đời sống cộng đồng ấy, tôi cũng đã có ý kiến. Bài viết của tôi
khá dài và kỹ, với mục đích nhìn toàn bộ vấn đề để đưa ra những ý kiến đóng
góp, phản ánh cái nhìn và cảm thức của mình. Tôi chỉ muốn tóm nó lại vào một
vài ý chính ở phần cuối bài viết ấy mà tôi xin phép trích lại ở đây:
“(…)
Hoàn cảnh riêng của những nhà văn
ngoài nước đã dự phần rất lớn (khi thì tích cực, khi thì tiêu cực) vào việc sáng tác của họ.
Ngoài ra, nếu thực sự có sự khựng lại, sự khựng lại đó có thể đến từ một bế tắc thẩm mỹ. Sự bế tắc này có thể xảy ra cho bất cứ một nhà văn, một nghệ sĩ
nào, không phân biệt giới tuyến, màu da hay sắc cờ, sắc áo. Nó cũng có thể bủa
vây cả một lớp nhà văn, một lớp nghệ sĩ, trong một giai đoạn nào đó. Sự tìm tòi cho ra một
cái mới, một cái đẹp, một cái thật, có khi đòi hỏi cả nhiều năm trời. Báo động để ta
theo dõi, chú ý hầu kịp điều chỉnh, điều hướng là tốt. Ta không nên—chỉ
vì thấy sự ngưng đọng,
hay có vẻ ngưng đọng, trong một, hai, ba năm của một nền văn học—lo lắng quá đáng để đi đến việc gán ghép những yếu
tố không thực có thật hoặc không thực hợp lý vào bản chất của một hiện tượng vốn đòi
hỏi nhiều suy nghĩ và tìm tòi cẩn trọng, cũng như đòi hỏi một thời gian dài hơn để kiểm chứng
những suy nghĩ và tìm tòi của mình.
(…)
Dòng văn học
Việt ngoài nước cùng với những sinh hoạt của nó trong vòng 16 năm
qua, ngoài những điểm tích cực mà ta nhìn rõ và hãnh diện về chúng, còn
có những mặt tiêu cực mà tất cả chúng ta, những người
quan tâm đến đời sống của nó, phải tìm cách
sửa đổi để làm cho đúng, cho đẹp hơn. Dù sao, chúng ta không nên chỉ vì một số những mặt
còn kém, còn xấu, mà bỏ quên hoặc bôi xóa đi hết những mặt tốt, những cố gắng của biết
bao nhiêu người đã góp tim, góp lửa để tô bồi, vun đắp. Ta nhìn rõ và
hãnh diện, đồng thời tự tin, về những gì ta đã làm được và những gì ta
đang cố gắng thực hiện. Cùng lúc, đừng quên rằng bao giờ ta cũng phải để ý đến những
nọa tính, quán tính, do lòng tự mãn hoặc do sự thờ ơ, mệt mỏi, buồn chán mà đời sống này gây ra. (…)”
Nhìn lại tất cả mọi sự, nhìn lại những
áng mây đã trôi qua đời mình, những dòng nước đã cuốn chảy đi những ngày quá khứ,
và nhìn tới, thấy những ngọn sóng mới đang ập đến, những bè mây mới đang xây
thành, tôi thấy tất cả đều có cái thời của nó. Tất cả đều đã đi đúng với nhịp
tiết, với cái dòng lưu thủy miên man và luôn thay đổi của cuộc sống.
Trong câu hỏi, anh viết: “Hai thập niên sau, Văn học Hải
ngoại điêu tàn. Không nhà xuất bản, không tạp chí giấy in, không sinh hoạt văn
học, và cũng không còn tác phẩm nào gây tiếng vang hay đánh động dư luận. “Điêu
tàn” là một cách nói văn hoa, thay cho tiếng lấp đất của thần chết.” Tôi thích cách nói của anh. Mạnh bạo. Hay, dùng
từ Hán Việt cho ấn tượng hơn: Bạo liệt. Đó là cách viết, là cái giọng đặc thù của anh,
của nhà văn Trần Vũ. Dù sao, tôi có suy nghĩ khác. Tôi nghĩ là cái gì cũng có
cái thời của nó. Trong khoảng một phần tư thế kỷ qua, anh nghĩ công nghệ thông
tin, giải trí, các thói quen nghe nhìn của con người trên thế giới đã thay đổi
như thế nào? Đây là thời đại của kỹ thuật
số, của Internet, của FaceBook và của các diễn đàn xã hội. Cuộc sống bây giờ
không còn như xưa. Con người vui chơi, giải trí, thậm chí là giao tiếp, học hỏi,
làm việc theo một cung cách khác. Chúng ta nói riêng, và con người thế giới nói
chung, đã thay đổi cả một hệ hình, một mô thức (paradigm) sống, suy nghĩ và làm
việc. Đời sống hiện tại đã trình hiện, trình xuất trước mắt ta một hệ hình mới.
Nhiều tờ báo (in) có tiếng trên thế giới, và từng có mặt cả năm, bảy chục năm
trước, cũng đã không còn nhiều độc giả và người mua như trước đây nữa. Có những
tờ báo đã phải đóng cửa sau năm, bảy chục năm hoạt động. Mọi sự đã thay đổi
trong một bầu khí quyển văn hóa mới. Báo chí của người Việt hải ngoại cũng chỉ
nằm trong cái lưu vực đang trong cơn co giật và bị thu hẹp đó.
Internet, như anh cũng nhận thấy, đang là một trong vài thủ phạm chính
gây ra “cái chết” (hay, ít ra, sự “suy thoái”) của văn học Việt ngoài nước. Đúng là trong thời gian gần đây, chúng ta
không còn thấy có những tác phẩm nổi bật như vào giai đoạn trước, trước khi các
sáng tác được đăng lan tràn trên các diễn đàn mạng. Đúng là ngoài những lý do
mà tôi đã thử nêu ra ở trên, vốn nảy sinh từ thời đại thông tin kỹ thuật số
này, số lượng người Việt ngoài nước còn viết và đọc tiếng Việt mỗi ngày lại mỗi
teo tóp đi. Phẩm chất các sáng tác cũng có thay đổi, còn về phần lượng thì lại
có vẻ gia tăng. Nhưng chính vì sự gia tăng, và thậm chí “tăng tốc”, của các
“sáng tác”, cái “phẩm” trong văn học chúng ta đã giảm sút. Nhưng, cũng có thể
chính vì sự tự do, sự “mở cửa” trong khía cạnh in ấn này, mà Internet hiện đang
cho phép người cầm bút thực hiện các “phép thử” của mình trên đủ mọi mặt. Trong
tương lai, một số “kỳ hoa dị thảo” sẽ có cơ hội phát triển và làm thay đổi cái
“gu” thưởng ngoạn của người đọc chăng? Dù sao, cũng như anh, tôi yêu cái thời
ngày xưa ấy xiết bao! Cái giai đoạn 1975-1990 đó. Nếu ta có cơ hội làm một cuộc
“khảo cổ học về thời gian đã mất” (“archaeology of time past”), như Proust đã
làm trong văn chương với À la Recherche
du Temps Perdu, có lẽ sẽ rất thú vị. Và hạnh phúc nữa!
Tôi nghĩ, “văn học hải ngoại”, cũng như nhiều khuôn mặt khác của đời sống
người Việt ngoài nước nói riêng, và cư dân thế giới nói chung, đang trong giai
đoạn “thay da đổi thịt”. Mọi thứ đều phải thay đổi để thích ứng với những “hiện
sinh” mới. Nói chung, tôi không tin là “văn học giấy in” sẽ mất đi. Chắc không
bao giờ! Nếu có thể, xin xem thêm cuộc trò chuyện rất ...“lan man”, rất “cà kê
dê ngỗng”, nhưng cũng rất thông minh, sâu sắc và đã được in thành sách của
Jean-Claude Carrière và Umberto Eco về đề tài này (Sách mang tựa đề “N’Espérez pas vous débarrasser des
livres”/“Đừng mơ chuyện bỏ qua sách in”). Dù sao, đúng là báo chí và sách vở
Việt ngoài nước đang trong tình trạng èo uột. Nhưng văn học Việt ngoài nước có
thể có hoàn cảnh và cung cách tồn sinh riêng của nó! Tôi không bi quan để nghĩ
rằng văn học hải ngoại đã chết. Các diễn đàn văn học mạng, dẫu mang một phẩm chất
và một khuôn mặt khác so với các tập san văn học, văn chương trước đây, vẫn chứng
tỏ, ở một số khía cạnh nào đó, sự tồn sinh của nó. Và, bây giờ, ở thời điểm
này, ta khó mà còn nói được về một “dòng văn học hải ngoại” (nguyên chất) nữa.
Bây giờ, có thể nói, cả người viết lẫn người đọc Việt, dù là ở trong nước hay ở
ngoài nước, đều đang hiện diện bên nhau (và đang đọc nhau, đang “theo dõi”
nhau) trên rất nhiều diễn đàn văn học, văn chương (đặc biệt là các diễn đàn mạng)
trên khắp thế giới, kể cả tại Việt Nam. Và, trong nước, qua một số nhà nghiên cứu,
phê bình, ta có thể thấy đang có những cố gắng tốt đẹp (dù chỉ mới là ở những
bước chập chững, khởi đầu) để nhìn văn học Việt Nam trong cái nhìn toàn vẹn và
cần thiết của nó. “Văn học hải ngoại”, ở một mức độ nào đó gần như “Văn học miền
Nam”, đang được để ý, đọc và đọc lại, trong toàn bộ quá trình phát triển của
nó. Những gì đang viết, sẽ viết và đã viết sẽ không mất đi. Đối với văn học, ở
trong cũng như ở ngoài, “thác là thể phách, còn là tinh anh”. Tôi tin là vậy.
Như thế, dù cho hiện tại có đang chứng kiến những thay đổi tận gốc rễ của
cái mà chúng ta coi là “văn học hải ngoại”, “văn học ngoài nước”, “văn học ngoại
vực”, tôi tin là nó sẽ tiếp tục được đọc. Và đọc lại. Nếu như nhà văn Võ Phiến
có nói, ở đâu đó, như anh đã viết trong câu hỏi của mình, về sự lo lắng của ông
cho chữ nghĩa Việt (ngoài nước), tôi nghĩ cái lo hay cái buồn ấy là một “cảm thức
lưu vong”. Nó là một ý thức tự vấn. Có thể nó là cần thiết. Cũng có thể nó chỉ
là một nỗi sầu thân thế. Như Nguyễn Du xưa đã tự hỏi, “Bất tri tam bách dư niên
hậu…”
Tôi tin chữ nghĩa Việt cũng là thể phách và tinh anh của con người Việt.
Dù chúng ta sống ở đâu đi nữa, sống ở thời nào đi nữa. Và đã là thể phách và
tinh anh, nó sẽ không thể mất đi.