Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2017
Trần Quán Niệm: Ðem Tâm Tình Viết... Chuyện Gà
Thuở còn sinh thời, cha tôi là một người
nghiêm nghị, mực thước, đúng khuôn mẫu như những người cha vào thế hệ đó, cách
đây cả nửa thế kỷ. Sáng vác ô đi, tối vác ô về, công chức gương mẫu của nhà
nước. Ông chẳng nhúng tay vào việc gì trong nhà, tất cả đã có bàn tay tần tảo
của mẹ tôi. Thú giải trí của ông là uống trà tầu, chơi cờ, chăm sóc cây kiểng.
Anh em chúng tôi sợ ông một phép, vì ông rất dữ đòn, roi mây quất vun vút, mấy
ngày sau mông đít còn sưng vù, chỉ dám ngồi gượng nhẹ. Đó là những lần phạm lỗi
nặng, còn lỗi nhẹ thì nghe giảng moral lòng thòng, nhức óc. Trong bữa cơm, anh
em tôi lỡ đánh rơi vài hột cơm, thấy ông trừng mắt nhìn là biết có chuyện. Sau
bữa cơm, bọn chúng tôi phải lên nhà trên, ngồi ngay ngắn nghiêm chỉnh nghe cha
tôi giảng thuyết, nào là hạt cơm là hạt ngọc trời cho, không được phí phạm, nào
là công lao cầy cấy khó nhọc, một sương hai nắng mới có được hột gạo mà ăn,
chuyện này miên man sang chuyện kia, đến cả thuyết nhân duyên sinh của nhà
Phật, nào là hột lúa mọc thành cây là nhờ các trợ duyên gió, nước, mặt trời, độ
ẩm, lại phải nhờ sức người chăm bón, vun trồng, gặt hái. Mỗi hạt lúa mang đủ
hình ảnh đất nước, trăng sao, tiếng hò câu hát. Trong hạt lúa đã có sẵn cành lá
hoa trái của cây tương lai. Hạt lúa không hề hủy diệt, mà chỉ biến đổi hình
thể, trạng thái.
Cứ
thế ông kéo dài cả giờ, riết rồi bọn tôi nghe tai nọ, lọt sang tai kia, chán
ngấy. Ngược lại mẹ tôi là người đàn bà nhà quê ít học, nên thực tế hơn: “Đứa nào hay làm vãi cơm, kiếp sau phải làm
con gà, nhặt từng hột ở dưới đất mà ăn đó nghe.” Một hình ảnh bằng ngàn lời
nói. Con gà ở xứ ta, suốt ngày bới đất nhặt cỏ, mổ từng hột cơm rơi vãi trên
đất, trong cống rãnh, đôi khi còn tranh giành, nuốt sống cả con giun đất dài
thoòng, thấy mà gớm. Câu dọa của mẹ tôi có hiệu quả ngay. Tôi nhớ suốt đời,
được dịp là áp dụng liền. “Linda, con ăn
cho cẩn thận, đừng đánh đổ. Coi chừng kiếp sau phải làm con gà nhặt từng hột
cơm dưới đất mà ăn đó nghe không.” Con gái tôi cười khúc khích, diễu cợt.
Dĩ nhiên là lần đầu, nó ngơ ngác, tôi phải giải thích một lúc, nó mới hiểu tôi
muốn nói gì. Những lần sau thì nó cười, vì hình ảnh tôi đem ra dọa chẳng liên
quan gì đến con gà nó biết cả. Con gà nó nhìn thấy hàng ngày là những đùi, những
lườn, những cánh, nằm trên vỉ sốp bọc
giấy bóng kính trong siêu thị mát lạnh. Quả tình là uy quyền làm cha đã
suy giảm thê thảm theo thời gian. Ngày trước, cha tôi giảng moral, bọn tôi hơi
tỏ vẻ lơ đễnh một chút là ăn đòn nát đít, bây giờ con gái tôi cười tự do.
Còn thằng con trai, mỗi lần phải chào các
chú, các bác, nó ngọng nghịu, ấp úng, tôi nạt “Đồ gà nuốt dây thun.” Nó ngẩn người ra như Mán rừng, chẳng hiểu gì
cả. Còn hỏi lại: “Cái gì hả bố?” Tôi
tức mình, nhưng biết là nó bị oan. Suốt 19 năm qua đây, tôi chưa hề lượm được
sợi dây thun rơi trên vỉa hè, trên đường phố. Và cũng 19 năm nay lũ con tôi
trông thấy tận mắt con gà bằng xương bằng thịt có độc một lần.
CON GÀ MẸ ĐIỆN, THẢM THAY
Lần đó, hình như vào ngày Phục Sinh, ngay
giữa một shopping mall sang trọng, tôi trông thấy một ổ gà con đang nở. Dĩ
nhiên không phải tình cờ có con gà làm tổ trong góc kẹt đâu, mà là triển lãm
trong lồng kính, bầy trên một bục gỗ cao nơi khách hàng qua lại nườm nượp. Tôi
mừng quá, vẫy mấy đứa con đến gần, cốt cho chúng nó được chứng kiến tận mắt sự
kỳ diệu của thiên nhiên, tạo vật. Lồng kính giống như một hồ lớn dùng nuôi cá
kiểng, sàn trải rơm, ở mỗi góc có một bóng đèn thắp sáng, bọc lưới sắt. Chính
giữa là ổ trứng có khoảng 15 quả. Trứng lựa đúng ngày, nên đã có một số con vừa
nở, vỏ trứng ngổn ngang. Tôi chỉ các con tôi chú ý vào một quả trứng đang nứt,
có gì ngọ ngoạy trong đó. Ít phút sau một chú gà con lông còn ướt nhẹp yết ớt
chui ra. Nó nằm thở dốc, mắt ngó nghiêng, hấp háy nhìn ánh sáng cuộc đời. Một
lúc sau, nó duỗi dài đôi chân, cố gắng đứng dậy, bước đi dò dẫm. Trong chốc lát
lông nó khô dần, nõn như một mớ tơ vàng óng ánh. Đôi chân nhỏ xíu, hồng hồng,
cái mỏ xinh xắn.
Các con tôi reo lên, trầm trồ. Nhưng chẳng
được bao lâu, chúng nó cũng chán, con gái thì theo mẹ vào tiệm bán quần áo,
thằng con trai chui vào gian hàng trò chơi điện tử. Tôi đứng xem đến lúc đàn gà
nở hết. Chúng đi dạo quanh lồng, nhìn cái này, ngó cái kia, mổ nhè nhẹ vào
những sợi rơm, vào mảnh vỏ trứng, chen chúc nhau dứng gần ngọn đèn điện, miệng
kêu chip chip nho nhỏ, mắt ngơ ngơ ngác ngác. Tự nhiên tôi thấy thương tâm vô
hạn. Đàn gà vừa mở mắt đã bị mồ côi, chắc chúng tưởng ngọn đèn điện đang tỏa
hơi ấm là mẹ chúng. Mấy đứa con tôi có
nán lại coi, cũng không bao giờ thấy được cảnh gà mẹ, gà con ríu rít bên nhau.
Mẹ bới đất kiếm được chút thức ăn, cũng gọi con lại nhường cho ăn. Đứa nào chạy
chơi một lúc, mệt và lạnh thì chui vào cánh mẹ sưởi ấm. Có con mỏi chân nhảy
tót lên lưng mẹ đòi cõng đi, trông thật dễ thương. Gặp điều gì nguy hiểm, đàn
gà con chạy vội về nấp dưới cánh mẹ, trong khi bà mẹ bình thường, hiền lành,
nay phùng lông xù cánh trông thật dữ tợn, sẵn sàng xông tới, quyết sống chết
với kẻ thù. Đàn gà con tội nghiệp trong lồng kính, chẳng được hưởng những diễm
phúc đó, túm tụm bên nhau dưới ngọn đèn ấm áp vô tri giác. Chúng kêu líp nhíp
buồn thảm, “ngơ ngác như gà con lạc mẹ.”
GÀ CÙNG MỘT MẸ CHỚ HOÀI ĐÁ
NHAU
Ở trại gà, còn thảm hơn. Cả chục ngàn con
sống trong một chuồng lớn, rộng mênh mông. Cùng một lứa tuổi. Cùng mồ côi như
nhau. Nở cùng một loạt trong máy ấp. Ngờ nghệch, mất thần như những đứa trẻ
trong cô nhi viện. Quanh quẩn đi lại trong một diện tích chật hẹp, đèn sáng
suốt ngày đêm. Ăn. Đi vài bước, không biết làm gì, lại ghé máng thức ăn, mổ vài
cái… ngày này qua ngày khác thẩn thờ ngơ ngẩn như một đoàn xác ướp Jombie. Buồn
tình thì cắn đá lẫn nhau. Làm sao biết đứa nào là anh em cùng một mẹ. Mới đầu
thì mổ chơi tựa như ngứa mỏ. Sau như mê đi. Mổ như điên. Lủng lưng, chảy máu.
Làn sóng bạo động như được khuyếch đại. Lan mãi ra. Cả đoàn xúm lại cắn mổ nạn
nhân tới chết, rút ruột ra ăn.
Không phải chỉ ở Mỹ mới có cảnh đó. Cách
đây 20 năm, tôi ghé thăm nhà anh bạn quen tại Sài Gòn, lúc đó phong trào nuôi
gà Mỹ lên tới cực điểm, gia đình nào cũng nuôi tối thiểu vài chục con, kiểu
kinh tế tự túc, hoặc lớn hơn nữa thì để dành nguyên một tầng lầu làm phòng nuôi
gà sinh lợi. Anh bạn đón tôi ngoài cửa, hý hửng khoe: “’Moi’ mới tìm ra biện pháp thần sầu để ngừa vụ gà cắn mổ nhau. Cậu
biết không, ‘moi’ với bà xã vừa lấy kìm cắt hết mỏ lũ gà.” Tôi thán phục
quá. Gà bị cắt mỏ không cắn nhau được nữa, nhưng đau quá, làm reo không ăn. Có
con bị làm độc, lăn quay ra chết. Chuyện này có thật, tác giả không bịa một lời
(1). Còn ở Mỹ thì sao? Cách đây mấy năm, có một nhà khoa học ngành chăn nuôi
nghiệm ra rằng ánh sáng đỏ làm gà ít bị stress, bớt hung tợn cắn mổ nhau. Nhưng
nhân viên cần đèn sáng để quét dọn làm vệ sinh. Nhà khoa học bèn đưa biện pháp
dung hòa: cho gà đeo contact lens mầu đỏ. Tốn kém 10 xu một cặp kể cả công lắp.
GÀ ĐI BỘ
Gà Mỹ suốt đời ở trong lồng (có nghĩa là
mấy tháng đối với loại gà nuôi để ăn thịt, hay chính xác hơn là 47 ngày) không
được vận động nên thịt bở bùng bục, nhão nhẹt. Người Việt chê, nhưng người Mỹ
thích. Đây là điểm nhà chăn nuôi muốn, vì dân Mỹ ăn gà dùng dao nĩa, tách rời
thịt ra khỏi xương, chứ không chặt ra từng miếng hoặc cầm cái tỏi gà mà gặm như
dân Việt, thành thử nếu thịt dai, gân xương dính nhằng nhịt, bán không ai mua.
Dân tị nạn hồi mới qua, bắt buộc phải ăn gà
Mỹ bán tại siêu thị, dần dần tinh khôn hơn thấy dân Tầu cùng “gu” như mình,
nuôi theo kiểu thiên nhiên, thả chạy ngoài vườn, ngoài thức ăn chính, còn bới
đất, nhặt cỏ, bắt sâu bọ mà ăn, nên thịt thơm và chắc, do đó mua gà Tầu dù giá
đắt gấp đôi. Tại tiệm gà nhốt cả lồng, chỉ con nào chủ tiệm tính tiền bán theo
ký, cắt tiết, vặt lông, mười phút sau giao cho khách hàng, thịt còn nóng hổi,
đem về pha chế, nấu nướng tùy khẩu vị. Bà xã đem về luộc lên, xé phay, trộn gỏi, mời bạn bè tới lai
rai. Cắn miếng thịt gà đi bộ, lâu lâu nhai nhằm cái xương cứng ngắc, mừng như tha hương ngộ cố tri. Rượu ngà ngà say,
tán dóc về những giai đoạn huy hoàng trong dĩ vãng, rỉ rả gặm chiếc cẳng gà,
cánh gà, sao thấy đời đáng sống quá. Cũng có bán cả vịt, vịt ta lẫn vịt Xiêm.
Vị nào thích ăn tiết canh, mua vịt về cắt tiết, xong đem lại nhà hàng nhờ vặt
lông dùm. Gọi là vặt lông, nhưng không phải bằng tay, mà bằng một loại máy thô
sơ, vặt từng con một. Gà được nhúng nước sôi, sau đó nhúng vào một loại nước có
chất keo, xong bỏ vào thùng thiếc. Thùng này hình tròn, có tay quay. Thành
thùng có các sợi thép tua ra như lông nhím. Gà được bỏ vào thùng, nhân viên
quay tay, vì có chất keo nên lông tuột ra dính vào thành lồng. Chỗ nào lông còn
sót, nhặt thêm bằng tay. Tác giả chưa được thấy máy vặt lông theo kiểu kỹ nghệ (1
phút 90 con), nhưng chắc nguyên tắc cũng tương tự.
Các tiệm phở gà tại Mỹ, biết ý khách Việt
khó tính nên quảng cáo rõ là phở hoàn toàn làm bằng gà đi bộ.
NHẤT BÌ NHÌ THỦ
Các cụ sành ăn, chê món thịt lườn (thịt
trắng –white meat). Các cụ nói thịt nạc quá, ăn bã và khô. Các cụ khoái thịt
đùi (thịt xám –dark meat). Bên Mỹ, lườn hay đùi đều có, nhưng còn đầu thi tuyệt
nhiên không thấy. Phao câu đôi khi thấy ở loại gà bán nguyên con. Da gà cũng
xuống giá. Hồi tôi mới qua tị nạn, ở nhờ nhà bảo trợ, thấy chủ nhà liệng bỏ da,
trong bụng tiếc hùi hụi, chép miệng như thạch sùng tắc lưỡi. Khi ra ở riêng,
bèn bảo bà xã đi mua mấy vỉ lưng gà về luộc ăn cho bõ thèm. Lưng gà béo ngậy,
da vàng ươm, ăn đã đời mà giá lại rẻ. Gặm một lúc năm bẩy cái, thống khoái như
được lên Niết Bàn (chả thế mà các cụ gọi là Tây phương cực lạc).
Được ít lâu thì ớn dần, bây giờ thì sợ quá
xá quà xa. Ở Việt Nam ăn phở phải gọi thêm nước béo, óng ánh những sao mỡ, bây
giờ bà xã hớt từng muỗng mỡ gà luộc đổ xuống cống. Mới đầu tiếc thót ruột, ngoảnh
mặt đi không dám nhìn. Riết rồi cũng quen.
TRỐNG CẮT TAI, MÁI CẮT CỔ
Bên Mỹ người ta giết gà hàng loạt, toàn
bằng máy. Cái đầu được chặt phăng, rồi đưa qua máy. Nhúng nước sôi, vặt lông,
mổ bụng, làm lông với tốc độ 90 con một phút. Khủng khiếp chưa. Chẳng ai rỗi
hơi mà đọc cho chúng bài kinh cầu siêu để linh hồn chúng sớm siêu thoát đầu
thai kiếp khác. Mẹ tôi ngày xưa mỗi khi nhà có giỗ cần cắt cổ gà, là phải gọi
đến tôi, vì không hiểu sao cả nhà chỉ có tôi cắt tiết gà là chết. Mấy ông anh
tôi cũng cắt như vậy mà thả ra, gà còn chạy cà nhỏng, cái đầu lủng lẳng thấy mà
ghê. Trước khi cắt mẹ tôi lẩm nhẩm đọc bài chú: “Trống cắt tai, mái cắt cổ. Hóa kiếp cho mày theo Phật Thích Ca. Đừng
làm kiếp gà, người ta cắt cổ.” Tôi vặt trụi lông ở cổ gà, đưa lưỡi dao sắc
cắt đúng ngay mạch máu. Kể cũng lạ. Con gà chẳng tỏ vẻ đau đớn gì cả. Nó lặng
im, mắt mở nhìn ngang, nhìn dọc, bình thản. Chả bù với con bò, tôi còn nhớ hồi
nhỏ, nghe anh đồ tể ở gần nhà kể chuyện, bò bị dắt đến lò sát sinh, linh tính
biết là sắp bị giết, nó chùn lại không chịu đi, sợ sệt, đôi mắt khóc ướt đẫm.
Tiết được hứng vào chiếc bát nhỏ. Độ lưng
chừng bát tiết, gà dẫy nhẹ vài cái rồi chết. Bây giờ có thuê tiền các con tôi
cũng chẳng dám cắt tiết, thế mà dạo đó tôi làm tỉnh bơ.
BÓI CẲNG GÀ
Gà được nhúng vào nồi nước sôi để dễ vặt
lông. Đôi chân được rửa sạch sẽ, trần nước sôi, để trên bàn thờ cúng cùng con
gà. Khi hạ lễ tôi có phận sự đem lên để cha tôi bói. Vào những ngày giỗ chạp
như vậy, cha tôi luôn ăn mặc chỉnh tề, hoặc áo the khăn đóng, hoặc áo vét quần
tây, vì ông là trưởng tộc, cả họ về ăn giỗ. Tôi đặt chiếc đĩa có đôi cẳng gà
trước mặt ông. Ông trịnh trọng hoặc nhấp ly trà tầu, hoặc đốt một điếu thuốc,
thong thả đeo chiếc kính trắng, cầm chiếc cẳng gà lên coi, chăm chú hết sức.
Lâu lâu lại hý hoáy biên chép. Tôi đứng ngấp nghé một bên, chờ đợi. Có bữa cao
hứng cha tôi gọi tôi lại gần, giảng giải: “Sở
dĩ đem trấn nước sôi, vì nếu luộc chín quá thì nứt ra, gọi là phá quản, không
xem được. Chân gà có bốn ngón, ngón sau được gọi là ngón nhỏ. Khi luộc các ngón
chân quắp lại, hễ ngón nhỏ chỉ vào ngón nào thì ứng theo đó mà coi. Chỉ vào
ngón trong, thì thuộc về việc trong nhà, chỉ vào ngón giữa thuộc về chủ thần,
chỉ về ngón ngoài thuộc về người
ngoài; nếu chỉ vào khe các ngón thì gọi là chỉ không, không ứng nghiệm việc gì
cả. Trong giữa bàn chân nó gọi là trung cung, hễ chỗ trung cung được đầy đặn
thì cửa nhà phong vận, lõm xưống thì tất bị khổ sở.
Lại
phải xem huyết điểm, đỏ hồng hào là tốt, xám là xấu. Trong ba ngón tám đốt xung
quanh chia làm tám cung: kiến, khảm, càn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài theo phương
vị trong Dịch, mỗi cung chỉ một việc, hễ huyết điểm đóng vào cung nào thì việc
hay dở nghiệm về cung ấy.” (3)
Tôi nghe như vịt nghe sấm, chỉ thèm được
gặm chân gà. Gặm một lúc cả hai chiếc cho đã đời. Thèm nhưng không dám đụng
tới. Sở dĩ vậy vì mẹ tôi cấm bọn tôi ăn chân gà, sợ run tay, viết chữ “nguyệch ngoạc như gà bới.”
Cha tôi coi xong, tôi đem chân gà xuống
bếp, luộc cho chín hẳn. Có khi cha tôi nhắm rượu với đôi cẳng gà (chắc cẳng xấu).
Có khi treo chúng lên, bên cạnh bàn thờ (chắc cẳng tốt). Lâu dần đám cẳng gà
khô quắt queo, gân guốc, như những ngón tay cụ đồ nho.
Cha tôi còn coi tướng đầu gà, đại để cũng
xem huyết đỏ thì tốt, đen thì xấu và xem huyết đọng ở tai hoặc mắt rồi hợp với
lẽ ngũ hành sinh vượng mà đoán. Thường thì cứ mỏ há, mắt nhắm là tốt, mỏ ngậm,
mắt mở là xấu.
Những ngày giỗ lớn, thế nào trên bàn thờ
cũng phải có một mâm xôi to, trên mâm xôi là con gà luộc nằm ngay ngắn, mỏ ngậm
một bông hồng. Con gà trống thiến mập tròn, da vàng ươm những mỡ khiến lũ trẻ
con chúng tôi trông bắt thèm nhỏ dãi.
Sau này đi lính, mỗi bữa nhậu đều có quay
đầu gà. Bữa nào số mạt, mỏ gà chỉ mình hoài, uống rượu say khướt. Anh nào uống
nhiều mà vẫn chì, tỉnh táo đến giờ phút chót, được hưởng cái đầu gà. Nhưng lúc
đó thường là đã ngất ngư, nhiều khi không đủ sức gặm nổi cái phần thưởng vinh
dự đó.
NGƯỜI MÁY ĂN THỊT GÀ MÁY
Ở Việt Nam, vài tháng trước ngày giỗ, tết,
mẹ tôi đi chợ mua về vài con gà con, nuôi ở sân sau “cho nó nhặt hột cơm rơi, cơm vãi, vài tháng béo tốt làm thịt là vừa.
Hột cơm để rơi rụng xuống cống rãnh, phải tội chết.” Tôi có phận sự rắc
thóc cho chúng ăn mỗi buổi chiều, trước khi gà lên chuồng. Biết hiệu, vừa thấy
tôi ra vườn là cả lũ gà vịt, ngan ngỗng chạy xúm lại chờ ăn. Thích con nào, tôi
năn nỉ xin mẹ tôi đừng giết, cho tôi nuôi để nó đẻ trứng gầy lứa khác.
Tôi nuôi nấng con gà từ ngày nó còn nhỏ
xíu, rồi lớn dần thành con gà mái tơ óng ả, bắt đầu làm tổ đẻ trứng. Thich lắm.
Mỗi lần đẻ xong nó kêu cục tác ầm ĩ là tôi chạy ra vườn, thăm ổ gà, nâng niu
quả trứng nóng hổi trong tay, rồi cất đi cho đủ số, chờ ngày gà ấp. Trứng nở ra
đàn gà con nhỏ nhắn xinh xinh lông mềm như tơ nõn, làm tôi sung sướng hãnh diện
lắm. Lâu lâu tôi xin mẹ tôi giữ lại một con gà trống, tập luyện nó thành gà
chọi, rồi cũng bắt chước người lớn ôm đi đá độ cùng lũ bạn hàng xóm. Cũng bày
đặt đếm lông, đếm cánh, xem vẩy chân, coi tướng gà. Nhiều khi đánh nhau cũng
chỉ vì đá gà thua, còn bị chọc ghẹo. “Chúng
mày ơi, vẩy của gà thằng Tèo là loại vẩy ‘hường tâm’.” (2).
Bây giờ nhớ lại những kỷ niệm thời thơ ấu,
tôi thấy tôi có nhiều dịp sống gần gũi với thiên nhiên. Đi học về, bỏ cặp vào
nhà là theo chúng bạn cầm giàn thun đi bắn chim, đào giun câu cá, bắt dế mèn,
chọi dế đá. Nhiều kỳ nghỉ hè được về quê ngoại chơi mấy tháng, hưởng thú vui
đồng quê, xem người ta tát mương bắt cá, gặt lúa tát nước. Ra đồng bắt cào cào,
châu chấu về nuôi chim sáo… Muốn biết bơi thì cho chuồn chuồn cắn rốn.
Tôi còn nhớ mãi kỷ niệm này. Thuở đó còn
ngu ngơ, nghe lời mấy thằng bạn lớn tuổi tinh quái hơn, bắt ngay con chuồn
chuồn ngô là loại lớn nhất, hàm răng như đôi bản kẹp khổng lồ. Vừa tụt áo may
ô, rón rén kê nó gần rốn, vừa sợ đau, vừa nghi ngờ không biết có linh nghiệm
không, thằng bạn bên cạnh dúi tay vào. Con chuồn chuồn nghiến hàm răng lại, đau
thấu trời xanh. Tôi la thất thanh cứ để nguyên con chuồn chuồn còn dính tòng
teng ở rốn nhảy đại xuống hồ. Ai ngờ chìm như cục đá, chân tay đập loạn xạ,
uống một bụng nước no, may nhờ bọn bạn vớt lên dùm, nếu không cũng chết đuối. Khi
hoàn hồn, nhìn xuống rốn, con chuồn chuồn ngô còn dính tòn teng, hai hàm răng
vẫn nghiến chặt. Hóa ra cu cậu cũng chết
đuối. Thế mà đòi làm thầy dậy bơi, không biết xấu hổ.
Nhìn lũ con tôi, tôi thấy đời sống chúng
thật nghèo nàn. Không có một thú vui thiên nhiên nào cả. Hết movie, TV, lại
chơi game, ngày cuối tuần thì đi shopping mall, chơi trò chơi điện tử, thấy con
sâu, cái kiến là dẫy nẩy, chu môi, nhóng mỏ kêu yuck yuck tùm lum, vừa sợ, vừa gớm, tôi gọi đùa chúng là người máy,
cũng như những con gà Mỹ ngây ngô nuôi trong trại, suốt đời chân không chấm đất
là những con gà máy. Người máy ăn thịt gà máy, không hiểu thế hệ loài người
được nuôi dưỡng trong thành phố vài chục năm nữa sẽ đi về đâu?
BẢN LAI DIỆN MỤC
Trên đường đi săn về, một người da đỏ tình
cờ lượm được quả trứng trên bãi cỏ. Đến nhà, đi ngang ổ gà đang ấp, tiện tay
anh ta bỏ quả trứng vào, rồi quên bẵng đi. Ít lâu sau, gà nở. Cái trứng kia nở
ra một loài chim xấu xí, chân cẳng co quắp, vụng về. Đàn gà con chế diễu, tẩy
chay nó. Hàng ngày nó lủi thủi theo đàn gà kiếm ăn, rất buồn cho thân phận xấu
xa. Một hôm đàn gà ra ngoài đồng trống. Trên trời xanh có đàn chim ưng bay
lượn. Con chim xấu xí ước ao nó có thể bay lượn như loài chim kia. Đột nhiên
một con trong đàn tách ra, xà xuống đậu dưới đất, dáng điệu oai vệ dũng mãnh.
Đàn gà chạy tán loạn sợ hãi vô cùng. Riêng con chim xấu xí không một chút sợ
hãi, và đột nhiên nó biết nó thuộc về giòng giống chim ưng. Kể từ đó, nó không
buồn cho số phận nữa. Lúc vắng vẻ nó tập bay. Và một ngày kia nương theo trận
gió lớn, nó bay bổng lên trời cao, vùng vẫy trong khoảng gian cao rộng.
Chắc quí vị Phật tử từng đọc nhiều kinh
điển, thấy chuyện này cũng tương tự chuyện con sư tử mồ côi được đoàn cừu nuôi
dưỡng. Nó cứ tưởng nó là cừu, cho đến một hôm nó ra bờ suối, nhìn bóng mình
dưới nước, mới biết mình là sư tử, chúa tể sơn lâm. Chuyện này ẩn dụ rằng ai
cũng có Phật tánh, chỉ cần tìm biết về bản lai diện mục của mình, tu hành tinh
tấn là một ngày kia sẽ đạt thành đạo quả.
Phượng
Hoàng đậu chốn cheo leo
Sa
chân lỡ bước phải theo đàn gà
Tan
rồi sóng gió can qua
Thay
lông đổi cánh lại ra Phượng Hoàng
Viết đến đây tưởng cũng tạm đủ mua vui cho
quí độc giả nhân ngày Xuân năm Dậu, tác giả xin ngừng bút, kính chúc bạn đọc
một năm an lành thịnh vượng và xin hẹn năm sau.
Trần Quán Niệm
Chú thích:
(1)
Gà Mỹ
cũng bị cắt mỏ, nhưng ngay khi vừa nở. Lưỡi dao nóng, tác dụng như mỏ hàn, đốt
cháy chất sừng nơi mỏ gà. Vì còn non, thêm nữa 48 giờ sau khi mổ, con gà không
cần ăn uống, nên dù mỏ bị đốt cũng không ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe của gà
như khi gà đã lớn.
(2)
Hầm
tương
(3)
Phong tục Việt Nam (Phan Kế Bính)