Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2017
Thụy Khuê: Vũ trụ Phạm Tăng
Hội họa và thi
ca, hai ngành nghệ thuật có những tương quan mật thiết, nhưng hiếm hoi là những
nghệ sĩ làm sáng tỏ được mối tương quan đó trong tác phẩm của mình, từ Vương
Duy.
Họa sĩ Phạm Tăng
vào thơ, theo lời ông "chỉ để trò
truyện tâm sự với mình". Ông làm thơ tài tử. Sau hành trình hội họa
dài của một họa sĩ Việt Nam, gây nhiều tiếng vọng bên trời Tây, tập thơ Phạm
Tăng đầu tiên ra đời, như một món quà muộn.
Thơ kèm phụ bản:
hai bức tranh tiêu biểu Phạm Tăng, tượng trưng quan niệm sống và sáng tạo nghệ
thuật. Bức thứ nhất, họa sĩ đặt tên là Vũ
Trụ, và bức thứ nhì, xin tạm gọi là Hữu
Hình Vô Thể.
Người đọc sẽ
không tìm thấy ở thơ Phạm Tăng những khám phá mới lạ về hình thức. Ông nói
những chuyện đã cũ, cũ như trái đất, như hành tinh, như vũ trụ, như hạt cát,
hòn sỏi, con người. Nhưng thơ ông có những tia "mắt sao" dõi buồn về
một cố nhân xa:
Quê
nhà từng mảnh con con
Khâu khâu vá vá đã mòn đường kim.
Hiếm có hình ảnh
nào xa xót quê hương đến thế. Mảnh đất Việt Nam, nhìn từ máy bay xuống, rất
khác nhiều nơi: làng xóm, ruộng đồng san sát, lỗ mỗ như ô ăn quan, không khác
gì những mảnh vá trên tấm áo nâu của người làm ruộng. Ngày đi, Phạm Tăng đã
chụp tấm hình kỷ niệm ấy, đem may thành áo. Quê hương không còn xa xôi nữa, mà
trở thành lớp da thứ nhì, đắp lên mình, mang theo cùng trời, cùng đất. Ở những
bước dừng, chiếc áo da vàng đã sứt chỉ, sờn vai, người nghệ sĩ lại tìm kim, vá
thêm lần nữa, khâu những đường mòn vụn rách, ráp những thửa ruộng, mảnh vườn,
bờ tre, bụi nước... Từ tấm áo da nhầu nát quê hương, ông sống, ông đi...
*
Thơ ông vẽ con
đường nghìn trùng hải lý về những chuyến đi "nửa phiêu lãng, nửa lưu đầy". Không hành khách. Không hành lý.
Không cả con người:
Hành trang đến cả linh hồn cũng dư
Hành trang hữu cơ
và tâm cơ không cần thiết, nhưng hành trang thơ có họa. Họa làm sáng thơ và thơ
khơi mạch cho họa. Cả hai giao ứng trong đồng thuận và nghịch lý như một trắc
họa nghiệm sinh những triền miên trăn trở của con người: Từ cái không đến cái
có, cái riêng đến cái chung, cái hữu hình đến cái vô thể.
Từ niềm đau riêng
của một Phạm Tăng lưu vong gần trọn cuộc đời, toát ra cái đau chung của cõi
người lưu vong trong chính bản thân mình. Từ nỗi đau riêng của một mối tình đứt
đoạn, rạng nở bình minh những mối tình miên viễn, thực thụ hiện hình sau cái
chết. Những đối cực ấy, Phạm Tăng thể hiện song song trong họa và thơ. Dường
như trong thơ đã có họa và trong họa đã
có thơ như lời Tô Đông Pha nói về Vương Duy ngày trước.
Phạm Tăng họa như
thế nào?
Xé
mây làm vải vẽ
Chấm mực nghiên mặt trời
"Ngông"
thì vẽ thế. "Tuyệt vọng" vẽ rằng:
Năm đầu tay xé rách không gian
Về bức tranh Vũ
Trụ, Phạm Tăng đề:
Trông
lên thiên thể bao la
Nhìn
vào sâu thẳm trong ta mịt mùng
Xác
thân: vạch nối đôi vùng
Khoát tay một nét: cuộn vòng càn khôn.
Một vũ trụ ngông trong thơ, trong họa, trong
chuyển động và tư tưởng. Ngoảnh lên nhìn tranh, người xem không biết tranh minh
họa thơ hay thơ phụ đề tranh. Cả hai tạo thành một chủ đề, một cơ cấu, một càn khôn ngông, thách đố giữa con người
và vũ trụ, giữa cái nhỏ vô song và cái lớn vô cùng.
Hội họa Phạm Tăng
khởi hành từ những vi phân, vi bản, từ những nguyên tử, những tế bào của sự
sống để đi đến cái vĩ mô trong vũ trụ phổ quát. Tất cả vận hành trong không
gian thiên di, thời gian biến động: Dòng đời cuồng lưu, vũ trụ càn khôn. Giữa
cuồng và càn, con người truân chuyên, vận chuyển, bức tranh Hữu Hình Vô Thể, phác họa hành trình của
luân hồi:
Trăm
ngàn vạn ức cái ta
Chết
trong lúc trước thành ta lúc này
Ngừng
đây nhưng vẫn vần xoay
Nằm đây nhưng vẫn tung bay khắp trời
Ở Phạm Tăng,
người đi trong vũ trụ như một tinh thể, như tế bào vận hành trong da thịt, và
như con người luân hồi trong dĩ nghiệp tử sinh truyền kiếp:
Đi từ đâu? Để về đâu?
*
Trong vị trí
thiên di ấy, con người tự bản chất đã mang dư vị "lưu vong"
Đi
hoài sao? Liệu có chăng đường về
Đêm
đêm ngẩng mặt tìm Quê
Hỏi thầm sao rụng sao về nơi đâu?
Lạc loài trong vũ
trụ càn khôn, trạng thái lưu vong gắn liền với số phận, vận mệnh, trở thành một
định mệnh, một thiên thể, một hằng sáng. Trước Phặm Tăng, Thanh Quan đã
"lưu vong" trên đất nước: Nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốc. Cùng Phạm Tăng, Đặng Đình Hưng đã sống
"lưu vong" trong quản thúc suốt đời: Những chiếc va-li cứ về bến lạ. Lưu vong, do đó, đối với nhà thơ
không phải chỉ là sự "ra đi" hiện thực và lý tính, mà còn ẩn những
viễn du trong tâm linh, trong nội tại:
Nghe trôi, không biết trôi mình về đâu.
Về "lưu
vong", người Việt hải ngoại đã tốn nhiều giấy mực, bàn cãi, sáng tác...
Nhưng mấy ai viết được ngắn gọn và sâu xa như thế?
Nửa
trời nửa nước chênh vênh
Thấy mình trôi giữa mông mênh: cũng mình
Lưu vong, đối với
Phạm Tăng, dường như không những là sự vận chuyển con người trên trái đất,
trong không gian tinh cầu, mà còn là hành trình du lịch trong thời gian, từ
thuở sơ sinh đến lúc bạc đầu: Lang thang
khắp mặt địa cầu.Thịt xương: áo đã ngả màu hoàng hôn. Với người lữ hành đặc
biệt ấy, những chuyến đi ngoài trùng lấp những chuyến đi trong: Chỗ đâu chứa cả thế gian trong lòng. Với
người lữ hành đặc biệt ấy, đi nhiều, bụi trần đã ngấm vào lục phủ ngũ tạng: Trong ta cũng bụi, rũ hoài chưa ra. Đi
mòn, đi mãi, nhưng sau mỗi hành trình hỏi rằng: Chép lại gì chăng? Một chữ: Không. Thế còn tranh? Vẽ bao nhiêu mộng không đầy khoảng không.
Và như thế, hư vô
trở thành định mệnh thứ nhì mà người nghệ sĩ đem vào cuộc sống lưu vong trường
cửu của mình:
Thôi
chuyến đi này, đi tay không
Tội
chi tay xách với vai gồng
Thịt
xương trút gánh hành trang nặng
Xóa
cả linh hồn: con số không
.....
Không
cái tôi này, không xác thân
Không
sau, không trước, chẳng xa gần
Không
đi, không đến, không còn mất
Vũ trụ và tôi, một, bất phân
Tại đây, vũ trụ
quan và nhân sinh quan của người thơ, người họa đã giao hòa thành một khối hư
vô:
Soi gương, bóng ảnh, bóng mình... đều không.
*
Phạm Tăng gặp gỡ
lưu vong trong định mệnh, trở thành bạn đời, nẩy sinh quý tử: cô đơn. Cô đơn là
"thế hệ thứ nhì", là con đẻ của nỗi đau thơ và họa. Và là bản thể của
sáng tác:
Sống
cô đơn, chết một mình
Trí
tâm thác loạn - xác hình quặn đau
Xé
từng chữ - nghiến từng câu
Xoáy từng nét bút, khoan sâu từng lời.
Niềm đau của họa
sĩ không còn là nỗi đau trừu tượng nữa, mà đã trở thành vật thể, một kết tinh
máu thịt, xương da, toát ra từ tinh lực của cây cọ, ngòi bút: Đục sầu, khoét khổ, đầu tay. Từ hoàn
cảnh riêng tư của tác giả, nỗi đau trở thành một sinh linh, có tâm thức, tri thức
và hành động. Nỗi đau tự tạo: Trăm năm
khơi một nguồn đau tự mình, trở thành đời sống thứ nhì, hướng về căn cước
của sáng tạo: cái chết.
Đi vơ
vất giữa đêm trường ngơ ngác
Tìm
xương thịt để trở về nhập xác
Ta
rùng mình hun hút gió tha ma
Trong mê cuồng ta gặp chính hồn ta.
Đã Hàn Mạc Tử,
rồi một Đinh Hùng, giờ đến Phạm Tăng, kết tinh niềm đau đến mức thượng thừa,
thác loạn:
Ôi
Thượng Đế! Tôi vô cùng đau khổ
Sao
sinh tôi cùng một thuở sinh em.
Thổi
linh hồn, cát bụi chắp nên duyên
Yêu tuyệt đối, nên căm hờn vĩnh viễn.
Từ sự cách biệt
âm dương, xa lìa thân xác, phát xuất niềm đau. Tuyệt đối. Edgar Poe. Nhưng cũng
chính từ niềm đau tuyệt đối đó, người nghệ sĩ khám phá chân lý. Chân lý lóe
sáng như một trực giác, một niết bàn, một Poe-Phật:
Anh
chợt hiểu ra
Mộ cũ
ngày xưa
Chỉ
là nơi em trút bỏ thân hình
Để
sát nhập vào anh
Kết
tình thương làm một.
Chết
có nghĩa là thay hình bỏ lốt
Cho
tâm linh nhẹ gánh thịt xương
Hình
hài ta nay là cát bụi vướng trên đường
Làm
mờ ám chân tâm thanh khiết.
...
Giũ
thân xác để linh hồn hợp nhất
Em
còn đây
và sát nhập trong
anh...
Sự thức tỉnh kể như toàn diện, vì từ nay, không
cần tìm nữa: em chính là Tâm, mà Tâm chính là em: Đi tìm đâu nào biết ở trong Tâm?
*
Sự thức tỉnh không chỉ ở mức độ âm dương sát
nhập, giao hòa, mà còn đến cả với vũ trụ vi tinh, vi thể. Hình ảnh giao duyên
"mắt sao" lạ và đẹp. Họa sĩ lồng sao trong mắt, lồng mắt trong vũ
trụ, tỏa cái nhìn phổ quát, hòa đồng tinh thể và con người, hòa con người với
bao la vũ trụ. Trong bối cảnh tâm - thân - vũ - trụ hợp nhất, không rõ đâu là
vật thể, đâu là khách thể. Tất cả bật ra một dấu hỏi: Sao? Âm vang phiếm định,
hư vô, huyền bí, mà chung nhất, bởi trong - ngoài - có - không, từ thuở tiên
thiên vẫn chỉ là một:
Tưởng đâu vũ trụ vô hình
Cớ sao thao thức như mình trắng đêm?
Vòm cao thăm thẳm vô biên
Có
sâu hơn chốn u huyền trong ta?
Trong ngoài - cách một lần da
Sao hơi thở vẫn chan hòa chuyển thông?
Bên ngoài lẫn với bên trong
Mắt sao hay mắt mình trông lại mình?
Ta - sao, đồng cảm đồng tình
Cả hai chung một cái mình bao la.
Tuy nhiên sự xác
định không có trong thơ. Thơ chỉ là phiếm định và những dấu hỏi. Người nghệ sĩ
đặt những câu hỏi từ đầu đời đến cuối đời. Không lời giải đáp.
Khi
chưa xương thịt, nơi nào ngụ?
Đến lúc tàn tro, có chốn bay?
Mà nghệ thuật
cũng chỉ là một dấu hỏi. Nói thế không sợ phật ý Phạm Tăng, bởi chính nhà thơ
báo trước với chúng ta:
Những
lời thơ, thực là thơ
Chưa
từng viết, chẳng bao giờ viết nên
Như
lời nguyện ước không tên
Ở ngoài sự vật, bên trên cuộc đời.
Phải chăng đây là
một trong những định nghĩa sâu xa nhất của thi ca nói riêng, và của nghệ thuật
nói chung? Mà chỉ những nghệ sĩ đã "xoáy
từng nét bút" "khoan sâu
từng lời" mới cảm thấy những mịt mùng, bấp bênh, chênh vênh, vô thường
trong sáng tạo.
Paris tháng
7-1996
(Đã in trên tạp chí Thế Kỷ 21 số 88, tháng 8/1996)