Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2017
PHẠM XUÂN HY: KÊ KÊ KÊ DẬU
Nhân có
người bạn già vong niên đến chơi thăm tôi, ngày trời tháng bụt, lại lún phún
mưa rầm, ngồi trong nhà rỉ rả nói truyện phiếm dông dài, gió trăng mây nước,
lan man những truyện cà kê dê ngỗng. Con
hổ giấy. Con hổ thật. Con chồn con cáo. Con chuột con gà. Lại biết tôi có một
dúm chữ nho, anh bèn lấy bút viết ra mấy chữ dưới đây:
雞 鷄 鸡 酉
KÊ KÊ KÊ DẬU
Bảo tôi
cắt nghĩa và cho biết những sự tích liên quan đến gà. Bị hỏi đột ngột, bất ngờ,
nhất thời tôi tỏ ra lúng túng, đỏ mặt, không biết trả lời bạn tôi ra sao. Vả,
biển học mênh mông, chữ nghĩa chập chùng, cái vốn chữ nho của tôi cũng chỉ có
giới hạn, nên không dám nói sằng nói bậy. Tôi đành khất nợ với bạn. Xin cho tôi
đựợc phép mở sách ra đọc, và trả lời bạn sau.
Vì thế,
hôm nay mới có bài viết này.
1.Nghĩa của bốn chữ kê 雞,
kê 鷄, kê 鸡,
dậu酉.
Ba chữ 雞 鷄 鸡 này âm
Hán Việt đều đọc là "kê", đều là những chữ đồng âm và đồng nghĩa, và
đều chỉ một loại gia cầm, con trống có khả năng báo hiệu giờ giấc, mỏ ngắn, phần
trên hơi cong, trên đầu có mào, cánh ngắn, không thể bay cao được. Tiếng Việt dịch
nghĩa là "Con Gà".
Sách
"Thuyết Văn Giải Tự" giải thích "知 時 畜 也 - tri thời súc dã ". Gà là
gia súc có khả năng biết giờ giấc, và báo sáng, nên ngày xưa người ta nuôi gà để báo thức dậy sớm đi làm.
Nhưng ngày nay, đã có đồng hồ, nên gà được nuôi phần lớn để ăn thịt.
Tuy
nhiên, ba chữ này có sự khác biệt nhau về cách tạo tự của chúng.
a/Chữ 雞. (đọc là kÊ) :
Theo giáp
cốt văn và kim văn, đây là một chữ thuộc loại tượng hình tự. Tự hình của chữ
này rất giống hình một con gà trống, trên có mào, chữ được cấu tạo bởi hai
thành phần. Thành phần bên trái gọi là
thanh bàng là chữ 奚 (đọc hề), sử dụng làm thanh phù. Thành phần bên phải
hình bàng là chữ 隹 (đọc chuy) sử dụng làm ý phù. Chuy隹, theo
sách "Thuyết Văn Giải Tự" của Hứa Thận đời Đông Hán, giải thích là từ
dùng để gọi chung loài chim lông đuôi ngắn (短 尾 禽 總 名 - Đoản vĩ cầm tổng danh)
b-Chữ 鷄. (đọc là kÊ) :
Chữ 鷄 (đọc kê)
do diễn biến của chữ 雞 (đọc kê) này thành chữ hình thanh tự. Hai chữ này chỉ khác nhau ở phần ý phù bên phải, là chữ điểu 鳥 thay chữ chuy 隹 mà thôi.
Còn thanh phù vẫn giữ nguyên chữ hề 奚, âm và
nghĩa giống nhau. Chữ điểu 鳥,
"Thuyết Văn Giải Tự" giải thích là loại chim lông đuôi dài (長尾禽總名 - Trường vĩ cầm tổng danh)
c-Chữ 鸡.
(đọc là kÊ) :
Có người
loại suy cho rằng chữ kê 鸡 này mới xuất hiện trên đại lục, khi nước Cộng Hòa
Nhân Trung Hoa được thành lập.
Thật ra,
đây là chữ thuộc loại giản thể của chữ
kê 鷄 trên,
thanh phù bên trái 奚 (đọc hề)
được giản hóa bằng chữ 又 (đọc hựu),
còn ý phù bên phải 鳥 (đọc điểu),
được giản hóa thành 鸟 (đọc
điểu), âm và nghĩa như hai chữ kê trên, không thay đổi.
Chữ kê
鸡 này,
người ta đã thấy xuất hiện trong sách "Kim Bình Mai Kỳ Thư" và sách
"Mục Liên Ký Đạn Từ " đời nhà Thanh.
Đến
năm 1932 và năm 1935, bộ giáo dục công bố bảng"Giản Thể Tự Biểu", chữ
kê giản thể cũng đã được ghi trong bảng giản thể biểu đó, tuy nhiên chỉ giản
hóa phần thanh phù thôi, phần ý phù vẫn giữ nguyên.
Vì là
giản thể, nên chữ kê 鸡 này
không thể phân tích theo như phương pháp lục thư được.
d-Chữ 酉. (đọc là DẬU) :
Người
ta thường nói: "Tôi tuổi Dậu", để nói rằng năm sinh của người đó thuộc
năm gà, vì thế, đôi khi đưa đến sự lầm lẫn cho rằng dậu 酉, có
nghĩa là gà. Thật ra, chữ dậu là chữ thuộc loại độc thể tự. Tự hình, là hình vẽ một cái bình đựng đầy rượu, nên nghĩa gốc của
dậu 酉 ngày xưa là
rượu, nên chữ tửu 酒 mới đầu viết
là dậu 酉. Về sau, theo cách giả tá, dậu mới biểu thị danh
xưng của chi thứ mười trong mười hai địa chi: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ,
mùi, thân, DẬU, tuất hợi. Nhưng tại sao lại dùng con gà làm tượng trưng của chi dậu, con chuột là
tượng trưng của chi tý, con chó là tượng trưng của chi tuất v. v...?
Câu hỏi
này cho đến nay, các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa, hầu như vẫn chưa tìm ra
câu trả lời rõ rệt, thỏa đáng. Hoặc chỉ đưa ra những ức đoán mà không chứng
minh được, và ngay cả các học giả Trung Hoa cũng không tìm được xuất xứ của mười
hai địa chi trên. Tuy thế, dầu không biết xuất xứ, nhưng ảnh hưởng của
mười hai địa chi này, như một thực tế, ăn sâu vào những suy tư, sinh hoạt
của người Trung Hoa, không thể chối cãi được. Người Trung Hoa từ hàng nghìn năm trước đã dùng mười hai địa
chi phối hợp với mười thiên can để ghi nhớ ngày, tháng, năm. Ghi nhớ các sự kiện
lịch sử, những ngày sinh, tháng đẻ, đến ngày tết ngày giỗ, ngày cưới vợ gả chồng,
cất nhà mở tiệm, đi chơi xuất hành, nhất nhất cái gì cũng được ghi nhớ bằng
thiên can, địa chi cả. Có khi còn đến các thầy bói, các thầy địa lý, các tử vi
gia, để nhờ reo quẻ, bấm độn cho biết sự
tốt xấu về tình duyên, gia đạo, buôn may bán đắt. Các thầy bói, các thầy tử vi,
các chiêm tinh gia, hàng ngày vẫn phải lẩm
bẩm nhắc tên từng thuộc tướng tý, sửu, dần, mão, thìn, thìn, tỵ, ngọ, mùi,
thân, dậu, tuất, hợi... để thỏa mãn những câu hỏi của khách hàng.
Đây thật
là một điều kỳ lạ khó hiểu trong một văn minh
rực rỡ lâu đời như nền văn minh Trung Quốc.
Nhưng
thôi, tôi xin gác vấn đề này sang một bên, để dịp khác.
Và xin
trở lại với đề tài về gà.
2.Những từ ngữ chữ Hán dùng để chỉ gà.
Như
trên đã trình bầy, chữ dậu không có nghĩa là con gà. nhưng trong những thư tịch
và văn thơ cổ điển Trung Hoa, người ta
thường gặp những từ ngữ sau đây để chỉ con gà:
a-Song cầm 窗 禽:
Theo
sách "Nghệ Văn Loại Tụ" thì: "Thứ sử Duyện Châu đời Tấn, tên là
Tống Xử Tông, người Bái Quốc, từng mua được một con gà, có tiếng gáy rất dài,
nên Xử Tông rất lấy làm yêu quý, nuôi dưỡng rất cẩn thận, thường để lồng gà ở
bên cửa sổ. Gà bèn dùng tiếng người đàm luận với Xử Tông, rất là biện bác, suốt
ngày không ngừng. Nhờ thế mà tài hùng biện của Xử Tông tiến rất xa. Sau này, hậu thế dùng từ ngữ
"Song cầm" để chỉ gà.
b-Kim cầm 金 禽:
Theo
thuyết ngũ hành, gà thuộc hành kim, vì thế gọi gà là kim cầm.
c-Tốn vũ 巽 羽:
Trong
Kinh Dịch, quẻ tốn 巽 chỉ
con gà. Gà thuộc loại vũ trùng, vì thế gọi gà là tốn vũ. Như Ban Cố, tác giả
Hán Thư, từng dùng hai chữ tốn vũ để chỉ gà "巽羽化于宣宮兮-Tốn
vũ hóa vu Tuyên Cung hề"
d-Thời dạ 時 夜:
Gà có
khả năng coi đêm tối, vì thế gọi gà là "thời dạ". Thời, có nghĩa là
chưởng quản, trông coi. Trong sách "Trang Tử -Tề Vật Luận" có câu
"Kiến noãn nhi cầu thời dạ 見卵而求時夜" Có nghĩa là "Thấy
trứng thì muốn có gà".
e-Chúc dạ 燭 夜:
Gà có
khả năng coi đêm, và quan sát trời sáng, nên gọi gà là chúc dạ. Chúc 燭 có
nghĩa là quan sát, xem xét cho rõ.
3.Những từ ngữ có liên quan đến chữ kê.
Liên
quan đến chữ kê, hán tự có rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, và điển cố. Như trên đã
trình bầy, chữ kê 雞 vốn
là loại chữ tượng hình. Đó là hình vẽ của một con gà trống, nhưng các tự điển
chữ Hán, hay Hán Việt từ điển, chỉ giải thích chữ kê có nghĩa là gà.
Muốn nỏi
rõ gà trống thì phải gọi là "công kê
公 雞",
gà mái là "mẫu kê 母雞". Nhưng cũng có những từ ngữ có chữ kê, lại
chỉ một vật khác, hay ám chỉ một nghề nghiệp khác như. Như chữ "dã kê 野 雞",
ngoài cái nghĩa chỉ loại chim trĩ ở ngoài đồng ruộng, ngày xưa còn dùng hai chữ
này để ám chỉ những cô gái mại dâm, đứng ở ngoài đường, lôi kéo khách về nhà.
Tôi không rõ thành ngữ "mèo mả gà đồng" của ta, trong đó hai chữ
"gà đồng" có phải do ý từ chữ "dã kê" này mà ra chăng? Hay do chữ "điền kê 田雞" mà ra?
Dưới
đây xin cử ra một vài thành ngữ khác.
a-Kê công xa 雞公車.
Kê
công xa là tên gọi loại xe một bánh, do vợ Gia Cát Lượng là
Hoàng Nguyệt Anh nghĩ chế tạo ra. Nguyên vào thời Tam Quốc, Lưu Bị sau khi mượn được đất Kinh Châu, nhưng lương thực không đủ dùng, mới
sai Gia Cát Lượng tìm cách khai khẩn trồng trọt. Kinh Châu lại là vùng đất có nhiều
hồ, vì thế muốn khai khẩn thì phải đào đất làm đê để ngăn nạn lụt. Gia Cát Lượng
thấy sĩ tốt lao lụy người cuốc người vác, vất vả, công việc chậm chạp mà lại cực
nhọc vất vả, muốn dùng chiến xa để chuyên trở thì không được, mà mùa nước lũ sắp
tới. Về nhà Gia Cát Lượng thở vắn thở dài, chưa nghĩ ra biện pháp. Người vợ là
Hoàng Nguyệt Anh thấy vậy mới hỏi nguyên cớ, Gia Cát Lượng đem sự việc kể lại
cho vợ nghe. Người vợ chỉ cười. Gia Cát Lượng biết vợ đã tìm ra biện pháp, bèn
khom người vái vợ mấy vái xin chỉ giúp. Người vợ mới nói: "Tối nay thiếp sẽ
thiết kế làm một chiếc xe nhỏ, khi gà kêu đến lần thứ ba sẽ giao hàng cho tướng
công".
Gia
Cát Lượng đứng chờ ở ngoài cửa, khi gà gáy đến lần thứ hai, ông sốt ruột, đẩy cửa
bước vào phòng của vợ, thì thấy người vợ đã hoàn thành xong một chiếc xe nhỏ,
có một bánh, khi đẩy xe lên, thì xe phát ra tiếng kêu cót ket như cục tác, lại
hoàn thành trước cả dự định một tiếng gà, nên mới đặt tên là " kê công
xa".
Nhờ loại
xe mới sáng chế nầy, mà công việc vận chuyển đất để đắp đê được nhanh chóng và
bớt vất vả hơn, giúp cho việc khẩn hoang của Lưu Bị được mở rộng và phát triển
thêm, có đủ lương thực để chống lại với phe Ngụy và Ngô.
b-Kê gian 雞 姦.
Chỉ việc
con trai hành dâm với con trai. Ngày xưa đó là một tội danh bị phạt xử tử, và bị
coi là một tội hèn hạ, xỉ nhục, mất đạo đức. Tức như bây giờ thường gọi là bệnh
đồng tỉnh luyến ái. Bê đê. Trên thực tế bệnh kê gian, bệnh háo nam sắc này xuất
hiện đã từ lâu đời. Nước Tầu, từ khi Tần thống nhất cho đến nhà Mãn Thanh bị lật
đổ, kéo dài 2133 năm, gồm 564 vị hoàng đế, không thiếu những ông vua anh hùng,
tài trí thao lược, nhưng lại mắc bệnh "kê gian", hiếu nam sắc. Tần Thủy
Hoàng có gã Triệu Cao xinh đẹp mà gian ác. Triều nhà Hán, Hán Cao Tổ Lưu Bang
có chàng Tịch Nhũ thanh tú linh lợi. Văn Đế Lưu Hằng có chàng Đặng Thông xuất
thân bần hàn, sống bằng nghề lái đò, nhưng nhờ khuôn mặt đẹp như trăng, nước da
trắng như ngọc ngà mà được vua yêu. Võ Đế Lưu Triệt
có nam sủng là Hàn Yên và Lý Diên Niên. Vua Ai Đế đời Hậu Hán có Đổng Hiển. Ai
Đế say mê Đổng Hiền, thường cho Hiền cùng ăn cùng ngủ. Có lần vua cho Hiền
ngủ trên tay áo của mình, vua muốn đứng dậy, nhưng thấy
Hiền còn chưa tỉnh, không nỡ đánh Hiền thức dậy, bèn dùng dao cắt
đứt tay áo của mình, để cho Hiền ngủ yên. Thành ngữ "Đoạn tụ 斷袖 -Cắt
tay áo" thường được sử dụng trong thơ văn cổ điển để chỉ bệnh háo
nam sắc của các bậc đế vương. Háo nam sắc đối với các ông vua, không phải là
một thứ tình cảm bẩm sinh, chẳng qua chỉ là một món ăn chơi "nghiệp
dư", khi đã là "thiên tử-con trời", muốn gì được nấy. Bằng cớ là các vị thiên tử này vẫn có vị vì nữ sắc
mà bị mất thiên hạ.
c-Kê đầu nhục 雞 頭 肉.
Nếu hiểu theo nghĩa là
"miếng thịt đầu gà" thì không đúng. "Kê đầu nhục" có nghĩa
là đầu vú của phụ nữ. Nhân vì Đường Minh Hoàng là một ông vua bay bướm đa tài lẫn
đa tình. Một hôm vua thấy Dương Qúy Phi tắm xong, đứng soi gương, để lộ một đầu
vú ra khỏi áo, vua bèn lấy tay vân vê sờ lẩn, rồi bảo với Dương Quý Phí rằng:
"Nhuyễn ôn tân bác kê đầu nhục -軟 溫 新 剝 雞 頭 肉. Mềm
mại êm ấm như thịt đầu gà mới bóc". Nhưng đầu gà thì chỉ toàn xương thôi,
làm sao mà mềm mại êm ấm được. Chẳng qua là một cách nói văn hoa, ẩn dụ cho đẹp, thay vì nói toạc móng heo, một càch sỗ sàng là cái đầu vú.
Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai
Chí Dị, truyện Liên Tỏa, cũng dùng từ ngữ này một cách khéo léo. Ông viết:
"戲 以 手 探 胸 則 雞 頭 之 肉 依 然 處 子 - Hí
dĩ thủ thám hung, tắc kê đầu chi nhục, y nhiên xử tử. - Đùa lấy tay lần sâu vào
bụng nàng, thấy đầu vú, y nhiên còn là trinh nữ. "
Cổ nhân dùng chữ quả thật
nhiêu khê, rắc rối.
d-Kê
đầu cẩu huyết 雞 頭 狗 血
Đầu gà máu chó.
Cổ
xưa, người Trung Hoa cho rằng gà và chó là những con vật có nguồn gốc thần bí,
khác những gia súc khác. Gà là do Ngọc Hành Tinh tan ra mà thành. Chó là do Đẩu
Tinh mà sinh ra, nên người Trung Hoa xử dụng một số bộ phận nào đó của gà để
làm pháp bảo phù chú, như đầu gà máu chó. Họ tin rằng dùng máu gà, máu chó có
thể tịch tà, diệt trừ được những điều bất tường, xui sẻo.
Theo sách Sử Ký của Tư Mã
Thiên, việc sử dụng máu chó, máu gà bôi
vào cửa để giải trừ những thế lực "tà ma", hoặc phá những "yêu
thuật" gian ác của kẻ thù. Đó là một
hiện tượng đã có từ đời Tần Thủy Hoàng.
Tập tục chém đầu gà treo ở trước
cửa vào đêm giao thừa để trợ trường sinh và giúp ích cho việc trồng trọt, cấy cầy
của nhà nông cũng là một hiện tượng phổ biến ở Trung Hoa trước cuộc Cách Mạng
Tân Hợi.
Ngoài ra, người Tầu còn dùng
xương gà, gan gà, mỏ gà, trứng gà để bói
toán, dự đoán cát hung, may rủi.
Để chấm dứt bài này, tôi xin
thuật lại sự tích "Kê cân 雞筋 - gân gà " dưới đây :
Kê cân 雞 筋 hay kê lặc 雞 肋.
Gân gà hay xương gà?
Hồi còn trẻ, tôi ham đọc "Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa", tôi cố để dành tiền mua được một bản dịch truyện này, do nhà in
Phúc Chi ấn hành, nhưng lại không ghi tên người dịch. Nguyên danh là Tam Quốc
Chí Thông Tục Diễn Nghĩa, La Quán Trung đã dựa vào Tam Quốc Chí của Trần Thọ, đời
Tấn mà soạn ra, được các nhà phê bình văn học Trung Hoa coi là đệ nhất tài tử
thư. La Quán Trung đã vẽ lại cho người đọc thấy cuộc đấu tranh quân sự giữa các
sứ quân cát cứ, và tình hình chính trị phức tạp kéo dài hơn nửa thế kỷ trong thời
kỳ Hán mạt - Tam Quốc. Toàn truyện có nhiều chi tiết có thật rút từ chính sử
ra, và có khoảng 1191 nhân vật, rất khó mà nhớ hết. Nhiều thành ngữ của Trung
Quốc cũng được rút ra từ bộ truyện này, như "Quá Ngũ Quan Trảm Lục Tướng -
過 五 關 斬 六 將",
"Vọng Mai Chỉ Khát - 望 梅 止 渴",
"Thất Bộ Thành Thi - 七 步 成 詩",
"Tam Cố Thảo Lư - 三 顧 草 蘆", "Dương Tu Kê Lặc 揚 修 雞 肋"…
Dương Tu vốn là mưu sĩ của Tào Tháo, con của Dương
Bưu, người Hoằng Nông Hoa Âm, nổi tiếng là một người tài tư mẫn tiệp, học rộng
biết nhiều, nhưng thường ỷ tài, nhiều lần mạo phạm vào những điều cấm kỵ của Tào
Tháo, lại thêm đứng về phe Tào Thực trong cuộc tranh dành ngôi báu với Tào Phi,
càng khiến Tháo ghét thêm.
Năm Kiến An nhị thập tứ niên, tức năm 219 Công
Nguyên, Tào Tháo với Lưu Bị tranh nhau đất Hán Trung. Tào Tháo đánh nhiều trận
không thắng, lại mất viên mãnh tướng Hạ Hầu Uyên, nên Tháo có ý muốn rút quân,
nhưng trù trừ chưa quyết định. Giữa lúc đó, bộ hạ của Tháo là Hạ Hầu Đôn vào
trong trướng xin hiệu lệnh ban đêm. Tháo nhìn thấy trong bát thang đang ăn của
mình còn có cái "gân gà" chưa
ăn, bèn thuận miệng nói: "Gân gà! Gân Gà ".
Đôn ra ngoài truyền lệnh cho các quan quân bảo là
"Gân gà".
Hành Quân Chủ Bạ Dương Tu nghe
thấy hai chữ "Gân gà", bèn bảo cho quân sĩ của mình sửa soạn hành trang để đi về. Có người
đến báo cho Hạ Hầu Đôn biết. Đôn giật mình kinh sợ, cho mời Tu vào trong trướng
của mình, và hỏi:
- Tại sao ông lại thâu thập
hành trang vậy?
Tu đáp:
- Theo như hiệu lệnh đêm nay
là biết Ngụy Vương sớm muộn gì cũng rút quân về. "Gân gà " ăn vào thì
không có thịt, mà bỏ đi thì còn mùi vị. Nay ta tiến thì không thể thắng, còn
lùi thì sợ địch quân chê cười. Trong hoàn cảnh vô ích như thế, chi bằng rút về.
Tương lai, Ngụy Vương thế nào cũng ban sư đấy, vì thế tôi thâu thập hành trang
trước, tránh khỏi bị hỗn loạn lúc lâm hành.
Ngụy Vương tức Tào Tháo, các cận
thần của Tháo đều tôn xưng Tháo là Ngụy Vương.
Đôn nghe nói thế, bảo:
- Ông thật là người biết hết
gan ruột của Ngụy Vương đấy!
Rồi cũng cho lính thâu thập
hành trang.
Thế là các tướng trong doanh
trại của quân Ngụy, chẳng ai là không chuẩn bị để rút về.
Đêm đó, Tào Tháo thấy trong
lòng bồn chồn rối loạn, ngủ không yên,
bèn sách cương phủ đi một vòng quanh trại. Chỉ thấy quân sĩ trong trại của Hạ Hầu
Đôn ai nấy đều chuẩn bị hành trang. Tháo đâm hoảng, vội vã trở về trong trướng,
gọi Hạ Hầu Đôn lên hỏi.
Đôn thưa:
- Chủ Bạ Dương Đức Tổ biết trước
được ý muốn trở về của Đại Vương!
Đức Tổ
là tên chữ của Tu. Tháo cho gọi Tu lên hỏi. Tu lấy ý của hai chữ "Gân
gà" ra giải thích. Tháo giận quá, nói:
-Nhà
ngươi dám tạo ngôn, làm loạn quân tâm à!
Rổi
hét đao phủ thủ lôi Tu ra chém đầu treo ở ngoài cửa hiên môn.
Sự
tích trên đây, tôi đã dịch từ nguyên bản chữ Hán sách Tam Quốc Diễn Nghĩa, hồi
thứ bẩy mươi, sách do Minh Lương Thư Cục ở Hương Cảng phát hành. Đến đây tôi xin mở một dấu ngoặc:
Vốn
trong nguyên truyện bằng chữ Hán, không hề có chữ "kê cân 雞 筋"
mà chỉ có chữ "kê lặc 雞 肋". Câu trong nguyên truyện viết là:
適 庖 官 進 雞 湯, 操 見 碗 中 有 鶵 肋, 因 而 有 感 於 懷, 正 沈 吟 間 夏 侯 惇 入 帳 稟 請 夜 間 口 號. 操 隨 口曰: 雞 肋! 雞 肋.惇傳令眾官都稱 雞 肋.
(Dịch
âm: Thích bào quan tiến kê thang Tháo kiến
oản trung hữu sồ lặc nhân nhi hữu cảm ư hoài Chính trầm ngâm gian Hạ Hầu Đôn nhập
trướng bẩm thỉnh dạ gian khẩu hiệu. Tháo tùy khẩu viết "Kê lặc! Kê lặc!".Đôn
truyền lệnh chúng quan đô xưng "Kê lặc". ).
Trong
nguyên bản rõ ràng là chữ kê lặc 雞 肋 chứ
không phải chữ kê cân 雞 筋. Chữ
lặc 肋 có nghĩa là xương, còn cân 筋 mới
có nghĩa là gân, hai chữ chỉ hơi giống nhau. Nhìn vội dễ có thể đọc nhầm. Nhưng
sở dĩ tôi vẫn dịch là "gân gà", không câu nệ phải dịch đúng nghĩa là
"xương gà", một phần vì thương tiếc hai chữ "gân gà", mà
tôi cho là tuyệt cú mèo và thích hợp với văn cảnh và ý của cốt truyện, mà người
dịch giả vô danh đã cố tình sử dụng một
cách khéo léo, thần tình. Hai nữa, cũng để hoài cảm bộ sách cổ, tôi đã cố để
dành tiền mua được, rồi giữ gìn, bảo quản, đóng bìa mạ gáy, sau 1975 gặp nạn phần thư, chung một kiếp bạc mệnh,
không còn nữa.
Ôi!
Cái tình "Trung thư hữu nữ nhan như ngọc 中 書 有 女 顏 如 玉"
là thế đấy! Cố nhân hề cố nhân!
Năm
thân sắp qua, năm dậu sắp lại, con khỉ đi con gà đến, gọi là có dúm chữ nho, trả món nợ cuối năm, và để tạ cái tình của người
bạn vong niên, anh đến thăm em một chiều mưa, chẳng có gì đãi đằng,
ngoài tách trà "đinh" đắng chát.
CHÚ THÍCH
Tào Tháo
曹 操
Tào Tháo
tức Ngụy Võ Đế, sinh năm 155 CN, là một chính trị gia, quân sự gia, thi nhân
đời Tam Quốc, người đất Tiêu, tự là Mạnh Đức, tiểu danh A Man, vốn họ Hạ Hầu, cha là Tung làm con nuôi con nuôi
hoạn quan Tào Đằng, nhân thế mới mang họ Tào. Cuối thời Đông Hán, Tháo trấn áp
giặc Khăn Vàng, để khuyếch trương lực lương quân sự của mình.
- Năm 192
CN, Tháo chiếm cứ Duyện Châu, rồi phân hóa và dụ hàng được một bộ phận quân đội
của giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu, rồi lập thành "Thanh Châu Binh".
- Năm 196
CN, Tháo đón vua Hiến Đế về Hứa Đô (nay là thuộc phía đông Hứa Xướng tỉnh Hà
Nam), rồi lấy danh nghĩa của Hiến Đế để ra lệnh cho chư hầu. Trước sau, Tháo
tước trừ thế lực cát cứ của Lã Bố, đại phá lực lượng thế tộc quân phiệt cua
Viên Thiệu tại trận Quan Độ, dần dần thống nhất được miền bắc Trung Quốc.
- Năm 208
CN, Tháo lên làm Thừa Tướng, xuất quân đánh miền Nam, bị liên quân Tôn Quyền,
Lưu Bị đánh bại ở trận Xích Bích.
- Năm 216
CN, Tào Tháo được phong Ngụy Vương. Khi mất, con là Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán
và xưng đế, truy tôn Tháo là Võ Đế.
Trong
thời gian cai trị ở phía bắc Trung Quốc, Tào Tháo cho lập đồn điền, hưng tu
thủy lợi, giải quyết đựơc vấn đề thiếu thốn lương thực. Ông lại biết dùng người
có tài, đả phá cái quan niệm coi trọng thế tộc môn đệ, chiêu mộ những nhân vật
trung và hạ tầng địa chủ, ức chế bọn cường hào, gia cường trung ương tập quyền,
khiến cho bắc phương xã hội, kinh tế khôi
phục và phát triển.
Là một
nhà quân sự có tài, Tào Tháo từng viết "Tôn Tử Lược Giải", "Binh
Thư Tiếp Yếu". Ông còn giỏi về thi ca, có nhiều bài thơ được người đời yêu
thích truyền tụng rất rộng như "Tang Thương Hải", "Đoản Ca
Hành", được xưng tụng là "Kiến An Phong Cốt", hiện nay còn
"Ngụy Võ Đế Tập".
Nhưng về
mặt đạo lý cũ, Tháo bị coi là kẻ gian hùng, bất trung bất nghĩa, có nhiều thủ
đoạn.
Tháo mất
năm 220 CN.
Tôn
Quyền
孫 權
Ngô Quyền
là người kiến lập ra nước Ngô thời Tam Quốc, tự là Trọng Mưu, người Phú
Xuân Ngô Quận (nay Phú Dương tỉnh Triết
Giang). Cuối đời Đông Hán, Tôn Quyền kế nghiệp người anh là Tôn Sách, chiếm cứ
sáu quận Giang Đông.
- Năm 208 CN, Tôn Quyền hợp binh với Lưu Bị
đại phá Tào Tháo ở trận Xich Bích.
- Năm 222
CN, trong cuộc chiến Ngô Thục, tại trận Di Lăng, Quyền dùng hỏa công đại phá
hơn bốn chục doanh trại của Lưu Bị, tận diệt thuyền bè, khí giới và quân tư,
khiến cho Lưu Bị phải chạy về Bạch Đế Thành(nay là Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên),
năm sau thì mất.
- Năm 229
CN, Quyền xưng đế ở Võ Xương, lấy quốc hiệu là Ngô. Sau rời đô đến Kiến Nghiệp
(nay là Nam Kinh tỉnh Giang Tô).
Trong
thời gian ở ngôi, Quyền từng phái hàng
hải liên hệ với Di Châu (nay là Đài Loan). Thái Thú Sĩ Nhiếp ở Giao Chỉ cũng
từng đem ngọc trai, sừng tê, ngà voi, cùng trái cây quý giá cống cho Quyền,
được Quyền khen ngợi và phong cho chức Long Biên Hầu.
Để thúc
đẩy phát triển, Quyền thiết lập nông quan, thực hành đồn điền, nhưng vì hình
pháp tàn khốc, và phú thuế nặng nề, nên thường xấy ra các cuộc nổi dậy chống
đối của dân chúng.
Năm 252
CN, Tôn Quyền mất, ở ngôi ba mươi mốt năm. Con là Tôn Lượng kế vị, truy tôn là
Đại Đế, người đời thường gọi là Ngô Đại Đế.
Lưu
Bị
劉備
Lưu Bị tức
Chiêu Liệt Đế, sinh năm 161 CN, là người kiến lập ra nhà Thục Hán đời Tam Quốc,
tự là Huyền Đức, người Trác Huyện Trác Quận (nay thuộc Hà Bắc, là họ một chi xa
với hoàng tộc. Thuở nhỏ, Bị nhà nghèo, theo mẹ sống bằng nghề bán giầy và dệt
chiếu. Cuối thời Đông Hán, Lưu Bị khởi binh, tham dự trấn áp giặc Khăn Vàng. Trong cuộc hỗn chiến
của các quân phiệt thời đó, Bị từng đến nương nhờ Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Tào
Tháo, Viên Thiệu, và Lưu Biểu.
Sau Lưu Bị
nghe kế của Gia Cát Lượng chủ trương "liên Tôn cự Tào" đánh bại Tào
Tháo ỏ trận Xích Bích năm 208 CN, rồi chiếm lãnh Kinh Châu, lực lượng dần dần
trở nên lớn mạnh. Sau đó, Bị đánh chiếm Ích Châu, Hán Trung.
Năm 221
CN, Lưu Bị xưng đế, đóng đô ở Thành Đô, đặt quốc hiệu là Hán, sử quen gọi là Thục
Hán.
Trong cuộc
chiến tranh Ngô, Thục, Lưu Bị đại bại ở trận Di Lăng, năm 223 CN bị bệnh mất.
Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa
三 國 志 演 義
Trường biên lịch sử tiểu thuyết. Nguyên toàn danh
xưng là Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa, hoặc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa.
Tam Quốc
Chí là loại lịch sử tiểu thuyết mở đầu
trong văn học Trung Quốc, do La Quán Trung soạn vào thời Minh Mạt Thanh Sơ. La
Quán Trung đã căn cứ vào sách Tam Quốc Chí của Trần Thọ đời Tây Tấn và do Bùi
Tòng Chi chú, cùng sách Tam Quốc Chí Bình Thoại đời Nguyên mà viết thành.
Bản Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa lưu hành hiện nay là do Mao Tôn Cương đã tu đính và sửa
chữa. Cố sự bắt đầu từ truyện Lưu Bị, Quan Vũ, và Trương Phi kết nghĩa vườn
đào, đến Vương Tuấn bình Ngô, trải qua gần một nửa thế kỷ.
Tác giả
đã vẽ lại cho người đọc thấy rõ những
cuộc đấu tranh quân sự giữa các sứ quân và
tình hình chính trị phức tạp của thời kỳ Hán Mạt và Tam Quốc, đồng thời thành
công nặn ra được hàng loạt những nhân
vật mang những hình tượng điển hình, rõ
rệt như Tào Tháo, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi v. v...
Tác phẩm
có nhiều chương tiết rất sống động, bóng bẩy. Như “Lưu, Quan, Trương, tam anh
chiến Lã Bố”, “Tam cố thảo lư”, “Xích
Bích chiến”.
Toàn
truyện có rất nhiều chi tiết khúc chiết, kết cấu hoằng đại, nhưng bố cục rõ
ràng, mạch lạc, được vinh dự coi là “Đệ nhất tài tử thư”.
Truyện có cả thẩy 1191 nhân vật có danh có tính, chia
ra:
- 436 võ tướng
- 456 văn
quan
- 128
nhân vật là tôn thất, hoạn quan, cung phi.
- 67
người thuộc các sắc tộc ngoài biên, như Tiên Ty, Khương.
- 109
nhân vật thuộc các tam giáo cửu lưu.
Chủ đề của Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy tư tưởng
chính thống “tôn Lưu biếm Tào”, và coi cuộc nổi dậy Hoàng Cân là làm loạn, làm
giặc, lấy trung hiếu tiết nghĩa làm tiêu chuẩn, và coi thuyết "Thiên hạ
qui nhất", "hợp cửu tất phân, phân cửu tất hợp" là xu thế tất
nhiên của qui luật phát triển lịch sử.
Tam Quốc
Chí Diễn Nghĩa đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được quảng đại
quần chúng hâm mộ ưa thích. Ở Việt Nam, có ít nhất sáu bản dịch khác nhau.
La Quán Trung
羅 貫 中
Là một
tiểu thuyết gia thời cuối đời Nguyên, đầu đời Minh, tác giả "Tam Quốc Chí
Diễn Nghĩa", tên là Bổn, tự là Quán Trung, hiệu là Hồ Hảo Tán Nhân, người
Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây. Cuộc đời bình sinh của ông chưa có tài liệu nào nhắc
đến. Tương truyền, ông từng là học trò của Thi Nại Am, ít giao thiệp với người
đời, chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng nho gia, mang trong lòng hoài bão phò
vua giúp nước, để tạo nên sự tạo nên sự nghiệp. Cả cuộc đời ông, để hết lòng
vào việc sáng tác văn học. Ông soạn hơn mười bộ tiểu thuyết, hiện còn lại:
- Tam
Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa tức Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa.
- Tam
Toại Bình Yêu truyện.
- Tùy
Đường Chí truyện.
- Tàn
Đường Ngũ Đại Sử Diễn Nghĩa.
- Phấn
Trang Lầu.
Trừ
hai bộ truyện đầu còn bảo lưu được
nguyên diện mạo của nguyên tác, các bộ sau bị
hậu nhân san cải, sửa chữa nhiều lần, không còn giữ được nguyên dạng lúc
đầu nữa.
Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa là bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử vĩ đại nhất của
Trung Quốc, hưởng một vinh dự lớn trong văn học sử, và ảnh hưởng thâm sâu đối
với hậu thế.
Liêu Trai Chí Dị
聊齋志異
Tên
một cuốn tiểu thuyết gồm các truyện ngắn viết bằng văn ngôn, tác giả là Bồ Tùng
Linh, đời Thanh trước tác, cộng 431 truyện. Tác giả đã dựa vào những truyền
thuyết dân gian, dã sử, dật văn, lấy đời sống sinh hoạt người dân hạ tầng và trung
tầng làm chủ thể, rồi dùng trí tưởng tượng độc đặc hiếm hoi của chính mình mà
dựng nên những câu truyện hồ ly, ma quỷ, hoa yêu, với mục đích để:
- Phơi
bầy ra ánh sáng những hủ bại hắc ám ở chốn quan trường, và sự cai trị tàn bạo
độc ác của nhà cầm quyền Thanh Triều.
- Chọc
cười, phóng thích những phong tục hủ bại, giả đạo đức, đày tác hại của lễ giáo
phong kiến, cũng như những tệ đoan của chế độ khoa cử.
- Tán
tụng tình yêu chân chính và đề cao tự do luyến ái, tự do kết hôn cuả thanh niên
trai gái.
Liêu
Trai Chí Dị phản ánh rõ ràng diện mạo xã hội Trung Quốc ở thế kỷ thứ 17, và
thông qua những câu truyện ma quỷ, hồ ly, tác giả muốn thổ lộ nỗi niềm "cô phẫn" của
mình đối với xã hội đương thời.
Những
câu truyện được tác giả thuật lại bằng lối văn ngôn điêu luyện sâu sắc, lãng
mạn, những lời đối thoại được diễn tả sống động, truyền thần, với những tình
tiết ý vị, hư hư thực thực, thắt cởi, lên xuống, dẫn đưa người đọc mê say, đi
từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác, khiến cho tác phẩm tiếp nối được truyền
thống truyền kỳ và trở thành ngọn đỉnh phong của lối văn truyền kỳ chí quái cổ
xưa của văn học Trung Quốc.
Tác
phẩm sau khi ra đời được hơn hai trăm năm, được quảng đại độc giả hỷ hoan ái
mộ, cùng lưu truyền các nước trên thế giới như Anh, Phap, Đức, Ý, Mỹ, Nhật,
Nga, Việt Nam v. v. đều có những bản dịch.
Riêng
ở Việt Nam ước chừng có hơn mười bản dịch khác nhau. Có bản nhiều truyện, có
bản ít truyện, tùy người dịch.
Liêu
Trai là tên phòng đọc sách của Bồ Tùng Linh, nên ông lấy đó làm tên sách, và vì
thế Bồ Tùng Linh còn có hiệu là Liêu Trai Tiên Sinh, và Liễu Tuyền Cư Sĩ. Đa số
những truyện cuả ông là viết về quỷ ma, quái dị, nên gọi là Chí Dị.
Bồ
Tùng Linh
蒲 松 齡
Bồ Tùng
Linh là văn học gia đầu đời Thanh, tác giả truyện "Liêu Trai Chí Dị",
tự là Lưu Tiên, một tự khác là Kiếm Thần, hiệu là Liễu Tuyền Cư Sĩ, người đời
thường gọi ông là Liêu Trai Tiên Sinh, người Truy Xuyên. Có thuyết cho rằng ông
là người Mông Cổ, hay Hồi tộc, xuất thân từ một gia đình phú hào đã bị suy vi,
và thuộc phần tử trí thức. Ông có tài cao từ hồi còn trẻ, dốc chí thi cử, năm
mười chín tuổi thi đậu tú tài, sau đi thi nhiều lần không đậu, mãi đến năm bẩy
mươi mốt tuổi mới đậu cống sinh, bốn năm sau thì qua đời.
Một đời Bồ
Tùng Linh lấy nghề dậy học mưu sinh, lao đao sầu cùng. Nhân vì khoa cử bất đắc
ý, lại thấy quan trường tham tàng uổng pháp, mà nhân dân thì thống khổ nghèo khổ,
ông bèn mượn những hình ảnh của hồ ly, ma quỷ, yêu quái, viết truyện "Liêu
Trai Chí Dị", để trút bớt niềm cô phẫn, bất bình ở trong lòng.
Sau hai
mươi năm, thì "Liêu Trai Chí Dị "được hoàn thành. Truyện được viết bằng
một bút pháp lãng mạn, phơi bầy những tội ác hắc ám của nhà cầm quyền, công
kích những tệ đoan hủ bại của khoa cử, cùng chủ trương tự do luyến ái, phản ánh
những sinh hoạt xã hội của thời kỳ đó. Liêu Trai Chí Dị là tuyệt đỉnh của loại văn ngôn đoản biên tiểu
thuyết của Trung Hoa, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Nhiều người đã mô phỏng
Liêu Trai Chí Dị để viết nên những tác phẩm
riêng của mình, như "Dạ Vũ Thu Đăng Lục" của Tuyên Đỉnh,
"Tòng Ẩn Mạn Lục" của Vương Thao, "Dạ Đàm Tùy Lục" của Hòa
Bang Ngạch. "Huỳnh Song Dị Thảo" của Trường Bạch Hạo Ca Tử (Chúng tôi
đã dịch một số truyện trong những tác phẩm này.)
Ở Việt
Nam có sách Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ gồm hai mươi hai truyện, cũng viết
theo thể văn ngôn đoản biên tiểu thuyết, mà theo Trần văn Giáp thì chịu ảnh hưởng
của Nguyễn Nho, ra đời từ thời Lê, trước
cả "Liêu Trai Chí Dị".
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét