Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016
Trần Quang Ninh: Một số vấn đề về người Hoa ở Việt Nam
Lịch sử lục
địa Đông Á không phải là lịch sử của chỉ riêng tộc người Hoa, người Hạ (sau hợp
nhất thành tộc Hoa Hạ, từ thời nhà Hán được gọi là người Hán) mà là lịch sử của
cả các tộc thuộc Bách Việt và các tộc người khác. Ngày nay ta nói đền nền văn
minh Trung Hoa, nhưng có lẽ nên gọi đó là nền văn minh Đông Á. Đó không phải là
nền văn minh của chỉ tộc người Hán mà còn là nền văn minh của các tộc người
khác, đặc biệt là của các tộc thuộc Bách Việt.
Trước thời Tần
Thủy Hoàng (259 TCN – 210 TCN), Trung Hoa chưa thể được xem là một quốc gia mà
đó là một tập hợp bao gồm một số quốc gia ở lưu vực sông Hoàng Hà. Quá trình
hình thành Trung Hoa là sự bành trướng ra xung quanh, thôn tính và sát nhập dần
các nước. Trong lịch sử hàng ngàn năm, không phải lúc nào Trung Hoa cũng là một
thực thể thống nhất và không phải luôn do tộc người Hán cai trị. Thuật ngữ “người
Trung Hoa” không đồng nghĩa với thuật ngữ “người Hán”. “Trung
Hoa” là danh từ chỉ một quốc gia, “người Trung Hoa” là để chỉ những
người sinh sống trên lãnh thổ quốc gia này. Còn “Hán” là danh từ chỉ một
tộc người.
Yong-Gang Yao và các đồng nghiệp cho rằng “The formation of
the Han people was a process of continuous expansion by integration of numerous
tribes or ethnic groups” - “Sự hình thành người Hán là một tiến trình
liên tục bành trướng bằng cách sát nhập nhiều bộ lạc và chủng tộc vào người
Hán…” (Phylogeographic Differentiation of Mitochondrial DNA in Han Chinese
- Am J Hum Genet. 2002 Mar;70(3):635-51. Epub 2002 Feb 8). Hiện
nay, người Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến,… là người Trung Hoa nhưng phần
đông trong số họ không phải người Hán mà là những tộc người thuộc Bách Việt
(Đông Việt, Mân Việt,…). Một bộ phận trong các tộc thuộc Bách Việt nay định cư
trên lãnh thổ Trung Hoa tuy không bị Hán hóa hoàn toàn nhưng trở thành các dân
tộc thiểu số.
Theo diễn tiến
của lịch sử, lãnh thổ các nước không đồng nhất với lãnh thổ cư trú của các tộc
người. Trong suốt tiến trình lịch sử đã ghi nhận việc xuất hiện hoặc diệt vong
của nhiều nước, sự hợp nhất hoặc phân chia các nước, sự mở rộng hoặc thu hẹp
lãnh thổ của các nước. Nhưng địa bàn cư trú của các tộc người không hoàn toàn
thay đổi theo những điều này. Trong mỗi nước có sự đan xen, hòa trộn của các tộc
người và văn hóa của họ. Ngay Trung Hoa cũng bao gồm sự hòa trộn tộc người Hán
với các tộc thuộc Bách Việt và cả từ sự tràn vào để chinh phục Trung Nguyên của
những tộc người Tây Tạng, Đột Quyết, Mông cổ, Mãn Châu,…
1. Người Việt
Vùng Lĩnh
Nam (phía nam dãy Ngũ Lĩnh) thuộc lãnh thổ của các quốc gia của người Việt (Văn
Lang, Âu Lạc, Nam Việt). Đến năm 111TCN, Hán Vũ Đế diệt Nam Việt, toàn bộ vùng
này trong đó có Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt Nam rơi vào tay nhà
Hán. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40 – 43) diễn ra 150 năm sau đó
trong khắp vùng Lĩnh Nam (chứ không phải chỉ vùng Bắc Việt Nam) nhằm khôi phục
lãnh thổ cũ của người Việt.
Sự di dân xuống
phía nam trong ngàn năm Bắc thuộc thực chất là từ một nước hoặc một địa phương
nào đó nay thuộc Trung Hoa tới một địa phương nào đó nay thuộc Việt Nam. Mặc dù
ở dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, nhưng do văn hóa của
các tộc thuộc Bách Việt rất rực rỡ và giàu bản sắc cho nên ngược lại cũng diễn
ra quá trình “Việt hóa” hay đồng hóa thành người Việt đối với những người
di dân và hậu duệ của họ. Đến thời Tùy, Đường, văn hoá Bắc Việt Nam và toàn
vùng Lĩnh Nam vẫn rất gần gũi với nhau và khác xa văn hoá của người
Hán.
Trong sự hòa
trộn về tộc người thì sự “thuần nhất” của người Việt không phải là “thuần
nhất về tộc người” mà cao hơn thế là “thuần nhất về văn hóa”
dù đương nhiên có ảnh hưởng qua lại với văn hóa của người Hán. Dựa trên sự
thuần nhất về văn hóa, từ mấy ngàn năm nay đã hình thành một cộng đồng dân tộc
thuần nhất là dân tộc Việt Nam. Chính sự thuần nhất về văn hóa là sức mạnh
trường tồn của dân tộc này. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết:
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Nghĩa là:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục
Bắc Nam cũng khác
Năm 938, Ngô
Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, tái lập quốc gia của người Việt
nhưng lãnh thổ chỉ gồm Bắc Việt Nam và trên lãnh thổ này diễn ra sự “giải
Hán hóa” trên nhiều lĩnh vực. Phần còn lại của Lĩnh Nam thuộc quyền kiểm
soát của các triều đại Trung Hoa, tiếp nhận những cuộc di dân ồ ạt của
người Hán và bị “Hán hoá” với tốc độ nhanh hơn và kéo dài cho đến
nay.
Từ thời điểm
này, tất cả cư dân trên lãnh thổ Bắc Việt bao gồm chủ thể là người Lạc Việt và
các tộc khác thuộc Bách Việt với bộ phận người gốc Hán đã tự đồng hóa đều là thần
dân của Đại Việt và đại đa số những người này đến nay được gọi là “người
Kinh”. Ngay cả đối với những người lập nghiệp ở Việt Nam sau đó cũng vậy.
Có thể điểm qua một số dòng họ:
- Ông tổ của
họ Vũ làng Mộ Trạch (Hải Dương) là Vũ Hồn (804 - 853) vốn là người làng Mã Kỳ,
huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến. Ghi chép của họ Vũ làng Mộ Trạch
viết “Họ Vũ ở làng Mộ Trạch huyện Đường An xứ Hải Dương, xưa tiên tổ Vũ Hồn
là người bên Bắc Quốc, vào thời Đường Kính Tông (826-827) làm Thứ sử Giao Châu.
Ông yêu thích phong thuỷ vùng này xinh đẹp, có mạch đất từ Bắc Quốc chạy chìm
xuống đến tận giếng làng Mộ Trạch, ắt hẳn văn phong sẽ phấn phát, nên tìm đến
sinh sống ơ’ đây. Nhân đó tên huyện được đặt là Đường An, tên làng được đặt là
Mộ Trạch”..
- Thế phả họ
Mạc ở Hải Dương ghi một trong những viễn tổ là Mạc Tuyên Khanh đỗ Trạng nguyên
năm Đại Trung thứ 5 (851) triều Đường Tuyên Tông. Đến đời Mạc Đại Luân, tự là
Đôn Nhân đã từ Quảng Đông đến lập nghiệp tại Bắc Bộ Việt Nam. Dòng họ Mạc có
nhiều vị là danh nhân của Việt Nam như Mạc Hiển Tích, Mạc Đĩnh Chi,… và lập ra
vương triều Mạc ở Việt Nam.
- Tổ tiên của
họ Hồ là Hồ Hưng Dật nguyên là người Chiết Giang, di cư sang Giao Châu vào đời
Ngũ Quý (907-959). Hồ tông thế phả viết ”Đức Nguyên Tổ Trạng nguyên Hồ Hưng
Dật, người Vũ Lâm - Tích Giang - Phúc Kiến thời Ngũ Đại còn gọi là Ngũ Quý hậu
Hán Ẩn Đế là nho thần sang nước ta thời hậu Ngô làm Thái thú lộ Diễn Châu, đến
thời nước ta có loạn 12 sứ quân, Ngài lui về làm trại chủ hương Bào Đột (Bào Trạch)
nay là Bào Giang. Về sau các chi phái phồn thịnh, các người họ Hồ trong châu đều
là con cháu của Ngài…”. Dòng dõi họ Hồ có những nhân vật như Hồ Quý Ly, Hồ
Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng và anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ (nguyên từ họ Hồ đổi sang họ Nguyễn).
- Đại Việt
sử ký toàn thư, Kỷ nhà Trần viết “Trước kia, tổ tiên vua [Trần Thái
Tông] là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến
ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường”. Họ Trần đã lập ra một vương triều rực rỡ
và 3 lần lãnh đạo nhân dân Đại Việt đánh bại sự xâm lăng từ phương Bắc.
Các dòng họ ở
Việt Nam từ lâu đời như Vũ, Mạc, Hồ, Trần,… đều hoàn toàn là người Việt Nam dù
tổ tiên của họ gốc gác từ một nước hay một địa phương nào đó nay thuộc Trung
Hoa. Họ đã góp phần to lớn trong việc xây dựng và chống lại những triều đại
Trung Hoa để bảo vệ Tổ quốc của mình.
2. Người Hoa
Vào thế kỷ
17, sự sụp đổ của nhà Minh dẫn đến làn sóng những người không thần phục nhà
Thanh bỏ quê hương di dân sang vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Cộng đồng
những người này được gọi là Minh Hương (明香) có nghĩa là hương hỏa nhà Minh. Số đông người Minh Hương chạy
sang Việt Nam là từ Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đông đến lập nghiệp
ở Hội An và chiếm cứ, khai phá đất Nam Bộ. Đến năm 1827, vua Minh Mạng đổi chữ
“香” sang chữ “鄉” nghĩa là “làng”, từ đó “明鄉”
có nghĩa là “làng của người Minh”.
Người Minh
Hương có vai trò quan trọng trong việc sáp nhập Nam Bộ vào lãnh thổ Việt Nam, gắn
với nhiều sự kiện lịch sử, đóng góp to lớn trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa. Nhiều người gốc Minh Hương là những người nổi danh như Võ Tánh, Ngô
Tùng Châu, Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản . . . và gần đây như
Hồ Dzếnh (Hà Anh), Vương Hồng Sển (Vương Hồng Thạnh), Trịnh Công Sơn,…
Thời nhà
Thanh và sau đó (đặc biệt trong khoảng từ năm 1935 đến năm 1950 - thời kỳ ở
Trung Hoa có nhiều biến động), tiếp tục có nhiều người từ Trung Hoa di cư sang
Việt Nam. Theo cuốn Người Hoa tại Việt Nam (University of Michigan,
1963), Luong Nhi Ky cho biết dân số người Minh Hương và người di cư từ Trung
Hoa hoặc từ các nước khác sang Việt Nam tăng lên gấp đôi trong khoảng từ năm
1889 đến 1906. Từ năm 1910 đến 1952 tăng đến 1,5 triệu người (chiếm 6% trong tổng
dân số toàn quốc) trong số đó khoảng 400.000 người sinh ra ở ngoài Việt Nam.
Chỉ những
người Minh Hương và những người từ Trung Hoa hoặc các nước khác nhưng có “quê tổ”
tại Trung Hoa sang Việt Nam làm ăn sau này mới được gọi là người Hoa.
Xin nêu một
ví dụ để minh họa cho sự phân biệt về khái niệm: Dòng họ Mạc ở Hải Dương được
xem là một dòng họ lớn của Việt Nam. Trong khi đó, sau thất bại của nhà Minh, Mạc
Cửu (1655 – 1735) vốn quê tại Quảng Đông xuống vùng Hà Tiên (khi đó vẫn thuộc
quyền kiểm soát của Chân Lạp) và mở rộng quyền kiểm soát ra các vùng lân cận,
sau đó thần phục chúa Nguyễn. Con cháu của Mạc Cửu được xem là người Minh Hương
và do đó là người Hoa.
3. Vấn đề quốc tịch và ảnh hưởng của
người Hoa tại Việt Nam
a. Trước năm 1954
Nhà Nguyễn
phân biệt người Minh Hương với những người từ Trung Hoa vào thời nhà Thanh sang
sinh sống tại Việt Nam. Người Minh Hương bị cấm không được theo phong tục của
nhà Thanh, không được lui tới những nơi có đông người Trung Hoa (thời nhà
Thanh) cư ngụ. Đến đời Tự Đức, người Minh Hương được coi hoàn toàn là người Việt
Nam.
Sau này,
danh từ Minh Hương bao gồm cả những người mang hai dòng máu Việt - Hoa hay những
trẻ em của Hoa kiều sinh ra tại Việt Nam. Sau đó, người Minh Hương và con cháu
những người có “quê tổ” tại Trung Hoa từ Trung Hoa hoặc các nước khác sang sinh
sống tại Việt Nam đều được gọi chung là người Hoa.
Thời kỳ đó,
triều đình chưa có sự rõ ràng về vấn đề quốc tịch và việc quản lý kiều dân cũng
chưa trở thành hệ thống. Người Hoa phát triển thương mại, khá giả nhưng vẫn tự
phân biệt và bị phân biệt với người Việt Nam.
Thời Pháp
thuộc, người Hoa giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động thương mại. Thập
niên 1880, chính quyền Pháp đã thất bại trong việc đánh thuế nặng vào các hoạt
động này của người Hoa vì họ đã đồng loạt bỏ Việt Nam đi nơi khác, gây ra khủng
hoảng về kinh tế.
Cho đến năm
1933, người Pháp vẫn giữ các quy định có từ đời vua Minh Mạng. Theo các quy định
này, con trai của người Hoa có vợ Việt được xem là người Hoa, được hưởng ưu đãi
về thuế khóa và một số quyền hạn đặc biệt ở giữa người khách trú (foreign
Asians) và dân đinh Việt Nam. Những người này và mẹ (người Việt) phải mặc quần
áo Việt và không được rời khỏi Việt Nam. Con của những người này với phụ nữ Việt
được xem hoàn toàn là người Việt.
Tuy nhiên, về
phía Trung Hoa thì Luật Quốc tịch Trung Hoa năm 1909 đặt trên nguyên tắc huyết
thống (jus sanguinis), con của đàn ông người Hoa là công dân Trung Hoa bất kể
người đó có quốc tịch khác ở nước ngoài. Như vậy, Luật này xem tất cả người Hoa
là công dân Trung Hoa.
Sau năm
1933, chính quyền Pháp xem người Hoa không có quốc tịch nước khác là người Việt
Nam, có quốc tịch Việt Nam. Người Hoa đã có quốc tịch khác và sinh trong khoảng
từ 1883 đến 1933 được quyền xin quốc tịch khác. Người Hoa có quyền cư trú, di
chuyển, quyền hoạt động trong thương mại, kỹ nghệ, quyền sở hữu đất đai và các
tài sản khác, quyền mở trường học, không bị phân biệt đối xử về mặt tài chánh,
hay bị đánh thuế nặng. Trong khi đó Bắc Kinh muốn người Hoa mang quốc tịch
Trung Hoa.
Chính quyền
Pháp không quá quan tâm đến việc hòa nhập người Hoa vào cộng đồng chung. Mối
quan tâm chủ yếu của chính quyền lúc đó chỉ là về đóng góp kinh tế của người
Hoa và miễn sao người Hoa không chống đối.
Với Hòa ước
Trùng Khánh 1946, chính quyền Pháp cho người Hoa được hưởng đặc quyền và miễn
trừ y như dân Pháp, hơn hẳn người Việt Nam sở tại. Hơn thế nữa, với Hòa ước
này, Trung Hoa Dân Quốc có quyền đối với những ngưỡi lãnh đạo các bang hội người
Hoa tại Việt Nam. Bang hội người Hoa được quyền xây dựng và quản lý trường học,
đền chùa, bệnh viện, nghĩa trang riêng. Tất cả những điều này làm cho người Hoa
thành bộ phận càng tách biệt, hướng về cánh tay bảo trợ của Trung Hoa Dân Quốc.
Trước năm
1949, phần đông người Hoa vẫn giữ quốc tịch Trung Hoa. Trung Hoa Dân Quốc tuyên
bố rằng tất cả người Hoa ở nước ngoài đều là công dân của họ, rằng Trung Hoa
Dân Quốc có quyền can thiệp vào các quốc gia khác để bảo vệ công dân của mình.
Với nguồn tài lực lớn mạnh, một hệ thống quản lý gần như riêng biệt, cộng đồng
người Hoa không khác gì “một quốc gia trong một quốc gia” tại Việt Nam.
b. Từ năm 1954 đến năm 1975
Sau năm
1954, Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền. Vấn đề người Hoa là quan ngại của
chính quyền của cả hai miền nam, bắc Việt Nam. Điều này càng trở nên phức tạp với
ảnh hưởng của cả 2 chế độ đối nghịch là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở lục địa
và Đài Loan Trung Quốc và sự khác biệt về chính sách với người Hoa của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa. Các động thái tác động đến người Hoa
không những có thể bị sự phản ứng từ ngay người Hoa ở Việt Nam, có khả năng đưa
đến xáo trộn sinh hoạt kinh tế mà còn có thể dẫn đến phản đối chính trị từ cả Bắc
Kinh lẫn Đài Bắc. Khoảng 85% của 1,2 triệu người Hoa sinh sống ở miền nam nên vấn
đề về người Hoa đối với chính quyền Việt Nam Cộng hòa là khó khăn hơn rất nhiều
và trong nhiều sự việc còn vấp phải phản đối không chỉ từ Đài Loan Trung Quốc
mà còn từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với sự “ủng hộ” từ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Năm 1955
chính quyền Việt Nam Cộng hòa dùng cách giải quyết của triều đình Việt Nam trước
thời Pháp thuộc nhằm hội nhập người Hoa vào cộng đồng người Việt, xác định tất
cả con cái sinh ra từ các cuộc hôn nhân Hoa - Việt đều có quốc tịch Việt Nam và
không có quyền từ bỏ quốc tịch Việt Nam.
Năm 1956,
chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành một loạt Sắc luật tác động đến người
Hoa. Sắc luật số 48 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa quy định tất cả người Hoa
sinh tại Việt Nam đều là người Việt Nam bất kể nguồn gốc của cha mẹ và ý muốn của
chính đương sự. Tất cả những người Hoa khách trú, phải làm đơn xin thường trú tại
Việt Nam theo kỳ hạn, phải đóng thuế cư trú để được quyền sinh sống tại Việt
Nam. Sắc luật bổ túc số 52 còn quy định tất cả công dân Việt Nam phải lấy tên
tiếng Việt trong thời hạn 6 tháng. Sắc luật số 53 cấm người nước ngoài hoạt động
trong 11 nghành nghề, kể cả buôn gạo và bán hàng tạp hóa – là những ngành mà
người Hoa chiếm ưu thế. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng bắt đầu Việt Nam hóa
các trường học của người Hoa trong vùng Sài Gòn − Chợ Lớn, bổ nhiệm các Hiệu
trưởng là người Việt Nam, quy định dùng tiếng Việt trong giảng dạy.
Năm 1957
chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra lệnh hủy bỏ tất cả thẻ thường trú nhân đã cấp
cho con cái người Hoa đã sinh tại Việt Nam và yêu cầu họ lấy thẻ căn cước Việt
Nam, hạn cuối là ngày 9 tháng 5 năm 1957.
Đài Loan
Trung Quốc phản đối các quyết định trên nhưng Việt Nam Cộng hòa cho đây là chuyện
nội bộ giữa người Việt Nam. Ngày 3 tháng 5 năm 1957, Đài Loan Trung Quốc tuyên
bố giúp tái định cư tất cả người Hoa không muốn nhập tịch Việt Nam.
Ngày 20
tháng 5 năm 1957, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lên tiếng cho rằng quyết định của
Việt Nam Cộng hòa là “đơn phương và không hợp lý, không phải chỉ là một xâm
phạm thô bạo đến các quyền hợp pháp của người Hoa ở nước ngoài tại nam Việt
Nam, mà còn là một hành động vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc của luật quốc
tế”.
Ngày 23
tháng 5 năm 1957, tờ Nhân Dân – cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động Việt
Nam đăng nguyên văn lời phản đối của Bắc Kinh và ngày hôm sau, Chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố ủng hộ quan điểm của chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa.
Khi sắp hết
thời hạn đổi quốc tịch và quốc hữu hóa hoạt động kinh tế, người Hoa xuống đường
biểu tình, phản đối chính sách của Việt Nam Cộng hòa. Họ đóng cửa gần hết trường
học, hoạt động thương mại và rút tiền ra khỏi ngân hàng. Khoảng 800 triệu đến
1,5 tỉ đồng Việt Nam tức gần 17% tiền tệ đang lưu hành biến mất khỏi thị trường
khiến cho thương mại ngưng trệ, đồng tiền của Việt Nam Cộng hòa mất giá nặng nề.
Theo ước tính, đến khoảng giữa tháng 5 năm 1957, có khoảng 6000 cửa hàng của
người Hoa đóng cửa, 200.000 người mất công ăn việc làm. Nền kinh tế miền nam Việt
Nam gần như sụp đổ.
Tình thế khó
khăn khiến cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải ngưng chương trình ghi danh
cho người Hoa muốn tái định cư ở Đài Loan. Người Hoa được quyền đăng ký cửa
hàng kinh doanh bằng tên của bà con sinh tại Việt Nam, hoặc nhập tịch Việt Nam
theo thủ tục đơn giản. Hiệu trưởng các trường học có thể là người Hoa sinh tại
Việt Nam. Tiếng Hoa được sử dụng lại trong trường học trừ các môn lịch sử, địa
lý và Việt văn. Chương trình quốc hữu hóa được nới lỏng. Rút cục chỉ có khoảng
3.000 người đã ghi danh tái định cư tại Đài Loan và tính đến ngày 15 tháng 6
năm 1957 chỉ có khoảng 3500 người Hoa sinh tại Việt Nam nhập quốc tịch, lấy thẻ
căn cước Việt Nam. Cuối năm 1957, theo tài liệu của Viện Thống kê Sài Gòn,
chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn công nhận đến 400.000 người Hoa cư trú tại Việt
Nam không có quốc tịch Việt Nam.
Ước tính, đến
1961, 80% vốn đầu tư trong các dịch vụ buôn bán lẻ và khoảng 75% sinh hoạt
thương mại trong nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa do người Hoa kiểm soát.
Trong những
năm tiếp theo, ở miền nam Việt Nam, người Hoa được tự trị, tự quản về nhiều mặt.
Tỉ lệ người Hoa ủng hộ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tăng lên từ sau 1965, nhất
là sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 thì tỉ lệ này lên đến 75 - 80%. Do
những lý do thực dụng, phần lớn người Hoa sau đó nhập quốc tịch Việt Nam. Tuy
nhiên, họ cũng đã góp phần không nhỏ vào tình trạng tham nhũng, hối lộ, trốn
thuế, trốn quân dịch gây bất ổn định chính trị trong xã hội.
Ở miền bắc
Việt Nam, năm 1955 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
có những thỏa thuận giải quyết vấn đề người Hoa. Người Hoa được đặt dưới sự quản
lý của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được hưởng mọi quyền hạn như người
Việt Nam, họ có thể tự do nhập quốc tịch Việt Nam sau một thời gian “được
kiên nhẫn thuyết phục và được giáo dục về ý thức hệ”.
c. Sau năm 1975
Ngay sau khi
thống nhất đất nước ngày 30/4/1975, quan hệ giữa Việt Nam với Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa bắt đầu và mỗi lúc càng xấu đi.
Nhận thấy tiềm
lực kinh tế tư nhân nói chung và của người Hoa nói riêng có thể lũng đoạn nền
kinh tế theo hướng quốc doanh và tập thể, từ tháng 7 năm 1975, Việt Nam bắt đầu
tiến hành chiến dịch đánh tư sản mại bản. Trên nguyên tắc giới tư sản cả người
Việt và người Hoa đều là đích nhắm của chiến dịch này nhưng trên thực tế, người
Hoa chịu nhiều thiệt hại hơn. Nhiều công xưởng của người Hoa bị kiểm kê, nhiều
người Hoa là chủ các công ty bột ngọt, đồ sắt, bột mì, rạp chiếu bóng, xuất nhập
cảng, vải may mặc, giấy, nhà hàng,… bị bắt. Tài sản của những người Hoa đã di tản
bị tịch thu.
Một số nhà
lãnh đạo các bang hội người Hoa rời khỏi Việt Nam từ trước 30/4/1975, những người
khác cũng ra đi sau đó. Vì vậy, giới lãnh đạo người Hoa ở Việt Nam xem như
không còn. Chính quyền chiếm các cơ sở tổng hội quán người Hoa, đóng cửa 11 tờ
báo tiếng Hoa, tiếp thu bệnh viện Sùng Chính và 5 bệnh viện khác của 5 bang hội
người Hoa vào tháng 1 năm 1978.
Ngày 21
tháng 9 năm 1975, Việt Nam thực hiện đợt đổi tiền đầu tiên chỉ ở miền Nam nhằm
chuyển từ tiền của chế độ cũ sang tiền của chế độ mới. Tuy nhiên, hệ quả không
chỉ có vậy, đa số những người Hoa giàu có đã mất gần hết tài sản chỉ sau một
đêm. Đối với số tiền phải gửi vào ngân hàng thì gần 6 tháng sau, họ mới bắt đẩu
chỉ được phép rút 30 đồng mỗi tháng và đến tháng 12 năm 1976 thì không được
phép rút tiền khỏi ngân hàng nữa. Ngay sau khi đổi tiền, chính quyền cũng buộc
người Việt Nam và người nước ngoài phải khai báo và gửi vào ngân hàng số ngoại
tệ đang có. Ngày 3 tháng 5 năm 1978, Việt Nam thực hiện đợt đổi tiền lần thứ
hai trong phạm vi toàn quốc nhằm thống nhất tiền tệ. Một lần nữa, kịch bản lại
tái diễn nhưng để ngăn ngừa việc “tẩu tán tiền” bằng cách mua các vật dụng,
chính quyền tịch thu cả tiền chưa đổi được và các vật dụng như tủ lạnh, TV,… của
nhiều người. Phần lớn người Hoa (và cả người Việt) đã trắng tay sau ngày này.
Tháng 1 năm
1976, chính phủ yêu cầu người Hoa đăng ký quốc tịch. Đa số người Hoa đã chọn quốc
tịch Trung Hoa, trong đó có nhiều người từ những năm 1956-1957 thời Việt Nam Cộng
hòa đã chuyển sang quốc tịch Việt Nam. Tháng 2 năm đó, chính phủ yêu cầu người
Hoa phải đăng kí lại theo quốc tịch đã nhận thời Việt Nam Cộng hòa. Nhưng phần
đông vẫn tiếp tục chọn quốc tịch Trung Hoa.
Vào tháng
Sáu năm 1976, một Nghị định quy định việc đánh thuế rất nặng đối với tất cả các
hàng quán, thương nghiệp có lợi nhuận trên 10% được ban hành. Theo tờ New
York Times ấn hành ngày 26/8/1976, mục tiêu của quyết định này “nhằm vào
khối tiểu thương, nhưng cái đích thực sự của chính quyền cộng sản là khoảng
1 triệu người Hoa ở vùng Sài Gòn – Chợ lớn”. Với kế hoạch này, tài sản của
người Hoa gần như bị vét sạch.
Bắt đầu từ đầu
năm 1977, chính quyền thực hiện chương trình phát triển vùng kinh tế mới với mục
tiêu tái phân phối lao động và tạo dựng khu kinh tế sản xuất thực phẩm. Số người
phải đi “vùng kinh tế mới” bao gồm cả người Việt và người Hoa, trong đó theo số
liệu của các báo cáo ở Hong Kong và tại Mỹ thì tới tháng 5/1978 có khoảng
300.000 đến 350.000 người Hoa.
Trước khi xảy
ra cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979, nhiều người Hoa ở cả 2 miền
đã theo đường biển chạy sang các nước khác. Ở các tỉnh phía bắc, nhiều người
theo đường bộ chạy về Trung Hoa trong số đó có nhiều người không còn biết “quê
cha, đất tổ” của họ là ở đâu, họ hàng của họ là ai bên đất Trung Hoa. Thậm
chí, vào thời kỳ đó nhiều người Việt Nam bị gán là “người Hoa” chỉ vì mang
họ “có vẻ Trung Hoa” dù những người này chỉ biết tiếng Việt và tổ tiên của
họ đã ở Việt Nam từ rất lâu đời. Theo tính toán của Ramses Amer thì “con số người
Hoa ra đi cụ thể từ tháng 4-1978 đến cuối tháng 12-1979 là khoảng trên dưới 25
vạn người” (Người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung - Việt, Kuals
Lumpur, 1991, tr.46).
Từ sau khi
“bình thường hóa” quan hệ Việt – Trung, tình hình người Hoa lắng dịu lại. Theo
tổng điều tra dân số năm 2009, người Hoa ở Việt Nam có dân số 823.071 người, có
mặt tại tất cả các tỉnh của Việt Nam, đông nhất là tại: thành phố Hồ Chí Minh
(414.045 người), Đồng Nai (95.162 người), Sóc Trăng (64.910 người), Kiên Giang
(29.850 người), Bạc Liêu (20.082 người), Bình Dương (18.783 người), Bắc Giang
(18.539 người).
4. Nhìn lại vấn đề người Hoa
Người Hoa là
ai?, sự hòa nhập của họ vào cộng đồng, sự trung thành của họ đối với các nhà nước
Việt Nam là vấn đề phức tạp trong lịch sử.
Danh từ “người
Hoa” không có nghĩa là họ thuộc tộc người Hoa – một bộ phận cấu thành của tộc
người Hoa Hạ (sau đổi thành người Hán). Họ thuộc nhiều dân tộc trong đó có những
dân tộc thuộc các tộc Bách Việt cổ xưa nay là các dân tộc thiểu số ở Trung Hoa,
không chỉ là người Hán.
Theo Danh mục
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam ban hành theo Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày
02 tháng 3 năm 1979, người Hoa được giải thích là người Hán, Minh Hương, Triều
Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Khách Gia (Hakka), Xạ Phạng,…
Bản thân việc giải thích này về góc độ “dân tộc” là mơ hồ, không nhất quán:
Hán, Khách Gia, Xạ Phạng là tên các dân tộc, trong khi Minh Hương là những người
từ nhiều dân tộc sang Việt Nam sau thất bại của nhà Minh, còn Triều Châu, Phúc
Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam lại là các địa danh.
Theo các quy
định hiện hành, người Hoa vẫn đang được xem là một dân tộc. Điều này liên quan
đến việc thực hiện các chế độ đối với người dân tộc thiểu số. Chẳng hạn trong
tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng thì theo Quy chế ban hành theo Quyết
định số 08/2003/QĐ-BGDĐT ngày 13/3/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “Công
dân Việt Nam không phải là người dân tộc thiểu số (người Kinh, Hoa) có hộ khẩu
thưởng trú 36 tháng trở lên, tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, vùng cao, vùng sâu khu vực 1” được xem là thuộc đối tượng 01. Với
quy định này, người Hoa không phải dân tộc thiểu số vì vậy không được cộng điểm
ưu tiên. Nhưng theo Nghị định 05/2011/NĐ-CP của chính phủ Việt Nam năm 2011 thì
người Hoa được xem là dân tộc thiểu số nên từ các kỳ tuyển sinh năm 2011 đến
nay, thí sinh là người Hoa được cộng thêm 2.0 hoặc 1.0 điểm tùy theo hộ khẩu của
họ mặc dù khả năng kinh tế, điều kiện sống và học tập của họ không thua gì người
Kinh.
Thực ra
không thể xem người Hoa là một dân tộc mà họ là một cộng đồng người thuộc nhiều
dân tộc khác nhau trong đó có những dân tộc thuộc các tộc Bách Việt cổ xưa,chứ
không phải chỉ là người Hán. Danh từ “người Hoa” chỉ hàm nghĩa rằng “quê tổ” của
họ tại Trung Hoa chứ không mang ý nghĩa “dân tộc”.
Ở các nước
Đông Á, mối liên hệ “huyết thống”, “gốc gác” có ý nghĩa “nặng” hơn các khu vực
khác trên thế giới. Nhiều người Hoa dù đã định cư ở Việt Nam nhiều đời, có quốc
tịch Việt Nam nhưng vẫn “mơ hồ” về việc đâu là Tổ quốc của mình. Nhiều người Việt
Nam cũng có những “mơ hồ” như vậy khi nhìn nhận về người Hoa. Sau hơn 200 năm,
ngày nay chắc không có người Mỹ gốc Anh nào còn băn khoăn liệu mình có ràng buộc
nào với nước Anh hay không. Nhưng sau 300 – 400 năm, đôi khi một số người Hoa
(và cả người Việt) thậm chí vẫn băn khoăn rằng người Minh Hương có ràng buộc với
Trung Hoa. Do nhìn theo góc độ “huyết thống”, “gốc gác” nên đôi khi nhiều người
không phân biệt rõ lắm giữa các khái niệm người Hoa và Hoa kiều. Nhiều người
Trung Hoa sang sinh sống ở Việt Nam, không có quốc tịch Việt Nam vẫn bị nhiều
người nhầm lẫn gọi chung là người Hoa.
Mối liên hệ
“huyết thống”, “gốc gác” này được các nhà nước của Trung Hoa sử dụng để vươn
cánh tay của mình, can thiệp vào nội bộ các nước khác. Một thời gian khá dài,
các chính quyền Trung Hoa xem con của đàn ông người Hoa là công dân Trung Hoa bất
kể người đó có quốc tịch khác ở nước ngoài.
Tổ quốc của
mỗi người là nơi người ta sinh sống, xây dựng, bảo vệ nó từ nhiều đời chứ không
phải từ nguồn gốc tộc người của họ. Nếu gọi những người thuộc các tộc người
khác nhau (trong đó có các tộc người thuộc Bách Việt) đang sinh sống tại Trung
Hoa là người Trung Hoa thì cũng vậy các danh từ dân tộc Việt Nam hay người Việt
Nam là những danh từ chung để chỉ những người thuộc các dân tộc khác nhau sống
trên lãnh thổ Việt Nam từ lâu đời, mang quốc tịch Việt Nam. Vì vậy người Hoa ở
Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam phải được xem là người Việt Nam. Những người
không nhập quốc tịch Việt Nam phải xem là ngoại kiều mà không được hưởng các
chính sách như người Việt Nam.
Trong Chỉ thị
số 62-CT/TW ngày 8/11/1995 của Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm người Hoa và
Hoa Kiều được giải thích rõ ràng hơn “Người Hoa bao gồm những người gốc Hán
và những người thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hoá di cư sang Việt
Nam và con cháu của họ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt
Nam, nhưng vẫn còn giữ những đặc trưng văn hoá, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục
tập quán của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa”.
Và “Hoa
kiều là những người có cùng nguồn gốc dân tộc với người Hoa, nhưng không nhập
quốc tịch Việt Nam”.
Việc hòa nhập
cộng đồng người Hoa không đơn giản chỉ là vấn đề quốc tịch mà còn là không làm
cho họ trở thành một cộng đồng tách biệt.
Thời Pháp
thuộc, vì chỉ quan tâm tới lợi ích kinh tế thu được từ người Hoa là chính, miễn
sao họ không chống đối nên chính quyền đã cho họ khá nhiều quyền lợi, thậm chí
có lúc người Hoa được hưởng đặc quyền và miễn trừ y như dân Pháp, hơn hẳn người
Việt Nam sở tại. Trong các thập kỷ 1960, 1970 chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho
người Hoa khá nhiều quyền tự quản, tự trị và đặc quyền. Điều này cùng với sở
trường về thương mại của người Hoa đã tạo điều kiện thuận lợi cho họ trở thành
một thế lực lớn có khả năng lũng đoạn về kinh tế, góp phần không nhỏ vào tình
trạng tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, trốn quân dịch gây bất ổn định chính trị
trong xã hội.
Trong khi
đó, ở giai đoạn 1975 – 1979, người Hoa phần nào bị kỳ thị, là đối tượng được
chú ý trong các chiến dịch đánh tư sản mại bản, đổi tiền, xây dựng vùng kinh tế
mới.
Cả hai thái
cực tạo đặc quyền, đặc lợi hay kỳ thị đều không giúp hòa nhập cộng đồng người
Hoa, đều tạo ra hố ngăn cách giữa họ với phần còn lại trong xã hội Việt Nam. Điều
này cùng với tính thực dụng của người Hoa và sự “mập mờ” về khái niệm Tổ quốc,
dân tộc, “quê tổ”, dòng họ,… khiến cho vấn đề quốc tịch nói riêng và sự hòa nhập
nói chung của người Hoa thêm phức tạp, tạo cơ hội cho các chính quyền Trung Hoa
can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, phục vụ mưu đồ bành trướng.
T.Q.N.
Tác giả gửi BVN.