Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016
Lê Phan: ‘Ich bin ein Berliner’
Ðó là lời
tuyên bố của cố Tổng Thống John F. Kennedy hồi Tháng Sáu, 1963. Và đó cũng là một
trong những bài diễn văn được coi như là hay nhất của một trong những vị tổng
thống Hoa Kỳ nổi tiếng về tài hùng biện. Bài diễn văn đó đã là một món quà tuyệt
vời cho người dân Berlin, lúc đó đang sống bao vây bởi Ðông Ðức và luôn lo sợ sự
xâm lăng của chế độ Cộng sản. Trước một cử tọa 450,000 người, Tổng Thống Kennedy
nói, “Cách đây hai ngàn năm, lời khoe tự hào nhất là ‘civis romanus sum’ (tôi
là một công dân La Mã). Hôm nay, trong thế giới tự do, lời khoe tự hào nhất là
‘Ich bin ein Berliner?’… Tất cả những người tự do, dầu họ sống ở đâu, đều là
công dân của Berlin, và do đó, là người tự do. Tôi tự hào để tuyên bố ‘Ich bin
ein Berliner!’”
Gần nửa thế
kỷ sau, đối với nhiều người dân Berlin, một chữ vẫn luôn luôn đi kèm theo thành
phố của họ, chữ đó vẫn là “tự do.” Tự do muốn làm gì thì làm, sống cách nào thì
sống và yêu ai bạn muốn. Thành ra khi ông đô trưởng của thành phố, ông Michael
Mueller gọi cuộc tấn công vào khu Chợ Giáng sinh Breitscheidplatz là một cuộc
“tấn công vào tự do của chúng ta,” ông muốn nói đây là một cuộc tấn công vào bản
chất của thành phố.
Mà quả thật
vậy, Berlin và Berliner có những cá tính đặc biệt.
Ở một khía cạnh
nào đó, Berlin không giống như là chúng ta tưởng. Mới bước chân tới phi trường
Tegel, chúng ta có cảm tưởng bước chân tới một thành phố nhỏ, không phải là thủ
đô của cường quốc lãnh đạo của Tây Âu. Thành phố Berlin gọn gàng, không trải rộng,
nhưng vẫn làm cho người ta cảm thấy thoải mái, không chật hẹp. Những năm khi bị
Ðông Ðức bao vây đã khiến Berlin không bành trướng đã đóng góp một phần cho sự
nhỏ bé của Berlin. Nhưng tuy không to lớn đồ sợ bằng Frankfurt hay Hamburg,
Berlin có phong thái của một thủ đô. Những đại lộ rộng lớn, những khải hoàn
môn, và tòa nhà quốc hội mới, được dựng lại trong cái khuôn của tòa nhà
Reichstag cũ, tất cả đều là những biểu tượng hùng hồn của một thủ đô.
Ông Ðô Trưởng
Mueller đã nói lên được tâm sự người dân Berlin khi ông nói đây là một cuộc tấn
công vào tự do của họ. Và đó cũng là lý do tại sao nhiều người Berlin nói họ từ
chối không để cho khủng bố làm họ sợ hãi, mặc dầu có lý do để sợ hãi.
Nghi phạm
chính là Anis Amri, một công dân Tunisia 24 tuổi, đến Ðức vào Tháng Bảy năm
2015 với tư cách xin tỵ nạn. Trong vòng một năm sau đó, đơn xin tỵ nạn bị bác
nhưng vẫn được tiếp tục ở lại. Nếu quả thật Amri là nghi phạm, thì sẽ có nhiều
người hỏi nhà chức trách Ðức: Tại sao chưa bị trục xuất?
Có nhiều lý
do pháp lý tại sao không thể trục xuất một người mà đơn xin tỵ nạn chính trị đã
bị bác bỏ, chẳng hạn như chưa có đủ giấy tờ, hay nếu quốc gia nguyên thủy của
người này không nhận hắn trở về. Trong trường hợp Amri, các viên chức Ðức nói
Tunisia từ chối không chịu nhận hắn là công dân. Mãi đến nay thì họ mới chịu nhận
nhưng đã quá trễ. Có khoảng 160,000 đang sống ở Ðức với quy chế tương tự. Những
người chống di dân muốn trục xuất họ. Những nhóm ủng hộ dân tỵ nạn nói họ sống
trong một tình trạng vô tổ quốc – không kiếm được công ăn việc làm, chỉ có quyền
tạm cư, và không có tí triển vọng có một tương lai nào cả.
Nhưng nay
thì Amri đã bị bắn chết ở Ý.
Dầu sao
chăng nữa, đây là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Nay nó sẽ trở thành một sự nhức
đầu cho chính phủ của Thủ Tướng Angela Merkel.
Một câu hỏi
quan trọng nữa là an ninh. Niềm yêu thích tự do của dân Berlin cũng có thể có
nghĩa là tự do không để nhà nước theo dõi mình. Và đó là lý do tại sao camera của
các hệ thống CCTV, vốn được cho phép ở các nơi khác ở Ðức, bị cấm ở những nơi
công cộng của thành phố Berlin.
Vì cuộc tấn
công này, chính phủ nay đang thúc đẩy một đạo luật mới cho phép có thêm nhiều
camera an ninh hơn. Nhiều cảnh sát cũng sẽ được triển khai và còn có những đề
nghị đang bị tranh cãi đưa thêm quân đội đến để tăng cường.
Ðòi hỏi tự
do của người dân Berlin khiến ngay cả sau cuộc tấn công, sự hiện diện của cảnh
sát vũ trang, tuy có, nhưng không nhiều như các nơi khác. Ngay ngày hôm sau xảy
ra cuộc tấn công, tôi đi lang thang trong thành phố, nhưng số cảnh sát và cảnh
sát vũ trang vẫn thưa thớt. Ngay cả ở các nhà ga của các hệ thống xe điện ngầm
của thành phố cũng thỉnh thoảng mới thấy bóng cảnh sát. Thật là khác hẳn Paris.
Khi vụ tấn công ở Nice xảy ra, thành phố Paris tràn ngập cảnh sát, gendarme, vũ
trang đầy đủ.
Người bị áp
lực nhiều nhất vì vụ này là Thủ Tướng Merkel. Bà đã bị gắn liền với một lập trường
ủng hộ di dân nhiều hơn là bất cứ một chính trị gia Âu Châu nào khác. Báo chí
Anh Mỹ thường nói bà chủ trương mở cửa cho di dân. Thực ra không hẳn thế. Bà đã
điều đình cho Liên Hiệp Âu Châu một thỏa thuận để gửi di dân từ Hy Lạp về Thổ
Nhĩ Kỳ, vốn đã giúp giảm đáng kể số di dân. Dĩ nhiên là các nhóm giúp dân tỵ nạn
đã phản đối thỏa thuận này.
Và để giữ cho
dân tỵ nạn không tràn vào Ðức, bà đã ngưng áp dụng thỏa thuận Schengen giữa Áo
và Ðức, tạm thời mở lại hàng rào biên giới. Chính phủ của bà cũng đang tìm cách
đưa ra những luật mới giảm thiểu trợ cấp cho những di dân ngay bên trong khối
Liên Hiệp Âu Châu.
Thực ra bà
đã có một chủ trương ôn hòa, duy trì niềm tin của bà là Ðức có trách nhiệm nhân
đạo để giúp những người tỵ nạn thực sự – không khác bao nhiêu lập trường của đa
số dân Ðức. Nhưng trong giai đoạn di dân ào ạt đổ vào, trước khi đạt được một
thỏa thuận với Thổ Nhĩ Kỳ, một số những cuộc bầu cử địa phương đã cho thấy sự
chiến thắng của đảng chống di dân Alternative for Germany (AfD). Bà Merkel và
AfD đã trở thành kẻ thù không đội trời chung. Bà cáo buộc họ là thúc đẩy hận
thù và chia rẽ xã hội. Họ tổ chức các cuộc biểu tình với những tấm biểu ngữ vẽ
bà bàn tay nhuốm máu. Ðây là hai cực đang chia rẽ xã hội Ðức.
Vấn đề di
dân nay đã là một vấn đề phân hóa xã hội Ðức như là Brexit ở Anh Quốc hay là kiểm
soát vũ khí ở Hoa Kỳ.
Cho đến nay,
cuộc tấn công vào chợ Giáng Sinh có vẻ đang làm cho khoảng cách chính trị đó lớn
hơn, chứ không phải đột nhiên tạo một sự thay đổi ý kiến trong dân chúng.
Riêng người
dân Berlin còn tức giận hơn nữa không những vì cuộc tấn công đã nhắm vào một
ngôi Chợ Giáng Sinh, một thứ đặc thù của nhân dân Ðức, mà còn vì nó nhắm vào
ngôi chợ ở Breitscheidplatz. Ngôi chợ Giáng Sinh này không phải là ngôi chợ lớn
nhất thành phố, cũng không phải là nơi đông đảo người đến nhất. Nằm trong quảng
trường bao quanh nhà thờ nổi tiếng Tưởng Niệm Hoàng Ðế Wilhelm vốn đã bị bỏ bom
trong thời Ðệ Nhị Thế Chiến, ngôi chợ này đa số người đến uống rượu và ăn xúc
xích hơn là đi chợ tết.
Khu chợ này
đã là nơi đông vui phồn thịnh từ thời còn Tây Berlin. Ở Tây Berlin, nó cũng nổi
tiếng như Time Square của New York hay Piccadilly Circus của Luân Ðôn. Sau khi
thống nhất, khu này tuy không còn đông vui như trước, nhưng vẫn quan trọng. Bởi
đây là nơi có ngôi nhà thờ mà chính thức được gọi là Nhà thờ Tưởng Niệm Hoàng Ðế
Wilhelm. Khánh thành vào năm 1985, rất xa cách Ðệ Nhị Thế Chiến, nó được xây dựng
để ăn mừng chiến thắng của Ðức trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ.
Nửa thế kỷ
sau, khi bom của đồng minh rơi xuống ngôi nhà thờ này năm 1943, hình ảnh sắc cạnh
của những ngọn tháp bị sụp một phần đã là biểu tượng cho điều mà người Ðức tự gọi
là “sự điên cuồng” của họ. Sau chiến tranh, Ðông Ðức xây dựng lại các di tích lịch
sử, hy vọng xóa đi ký ức của Ðức Quốc Xã. Nhưng dân chúng Tây Berlin giữ lại
nhà thờ bị bỏ bom này như là một chứng tích của lịch sử, một chứng tích cho sự
tàn phá và khủng bố mà người Ðức đã tự mang đến cho chính mình, một sự nhắc nhở
hàng ngày đừng bao giờ quên.
Chính bên
trong ngôi nhà thờ bị bỏ bom mà cái tháp vẫn còn nguyên đó, Thủ Tướng Merkel,
Ðô Trưởng Michael và các quan chức đã dự thánh lễ tưởng niệm những nạn nhân của
cuộc khủng bố.
Berlin đã trải
qua rất nhiều trong thế kỷ qua, kể cả tàn phá, chia rẽ, độc tài, và bị phong tỏa.
Thành ra người dân Berlin là những kẻ cứng rắn, can trường. Chắc chắn là họ sẽ
không để cho bị dọa dẫm để từ bỏ lối sống của họ. Chỉ một ngày sau cuộc tấn
công, khoảng 60 cái chợ Giáng Sinh đã mở cửa lại. Và người ta vẫn thản nhiên đi
mua sắm, uống Gluhwein (rượu mùi ngày Giáng Sinh) và ăn xúc xích.
Và chính vì
vậy tôi cũng muốn bắt chước Tổng Thống Kennedy để nói với người dân Berlin:
“Ich bin Ein Berliner!”