Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016
HỒNG THỦY: Học giả gốc Hoa phản bác quan điểm của Trung Quốc về Biển Đông, Trường Sa
Giáo sư Trương Bác Thụ, ảnh: Internet.
(GDVN) - Ông
Tập Cận Bình nói điều này, có lẽ là do nhu cầu chính trị, và cũng có thể phản
ánh một thực tế rằng ông ấy không hiểu về chuyện này.
Ngày 27/12,
Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng bài Học giả gốc Hoa: Tranh chấp Biển Đông khó giải quyết vì "ý thức hệ",
là bài phân tích của Giáo sư Trương Bác Thụ từ Hoa Kỳ. Ông đưa ra một số bình
luận rất đáng chú ý với thái độ khách quan, tôn trọng luật pháp quốc tế về Biển
Đông.
Hôm nay
chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tiếp đến quý bạn đọc bình luận của ông về
việc tại sao Trung Quốc chống lại Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS 1982) mà chính họ đã rất tích cực tham gia đóng góp, xây dựng
nên?
Thực hư cái
gọi là "Trung Quốc có chủ quyền với Biển Đông, Trường Sa từ thời cổ đại",
hay "Biển Đông, Trường Sa là của tổ tiên chúng tôi để lại" cũng được
Giáo sư Trương Bác Thụ mổ xẻ dưới lăng kính pháp lý, khoa học.
Đây là những
phân tích rất có giá trị từ một học giả người Trung Quốc phản bác chính các yêu
sách phi lý mà nước này đang theo đuổi ở Biển Đông, tìm cách biến nó thành ao
nhà.
Thiết nghĩ trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông hết sức phức tạp,
Trung Quốc thì ra sức tuyên truyền theo lối "cả vú lấp miệng em", những
tiếng nói từ các học giả Trung Quốc chân chính như Giáo sư Lý Lệnh Hoa, Giáo sư
Trương Bác Thụ cần được trân trọng, hoanh nghênh, cổ vũ và nghiên cứu thấu đáo,
để đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái.
Tại sao
Trung Quốc phản đối UNCLOS 1982?
"Nói
một cách tương đối, Trung Quốc can dự vào Biển Đông tương đối muộn, mãi nửa cuối
thập niên 1980 họ mới bắt đầu can dự quy mô lớn.
9 cấu
trúc Trung Quốc chiếm đóng ở Trường Sa đại bộ phận đều chiếm từ những năm 1980
(quan điểm phổ biến cho rằng Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép 7 cấu trúc: Gạc
Ma, Chữ Thập, Xu Bi, Tư Nghĩa, Châu Viên, Ga Ven chiếm năm 1988 và Vành Khăn chiếm
năm 1995).
Những cấu
trúc có giá trị, nhô tương đối cao khỏi mặt biển khi thủy triều lên, tương đối
nổi bật ở Trường Sa thì các bên đã chiếm trước rồi. Khi Trung Quốc tiến xuống,
mấy cấu trúc ban đầu chưa bị bên nào chiếm đóng, ví dụ như đá Chữ Thập.
Những cấu
trúc Trung Quốc chiếm đóng đại bộ phận là các bãi lúc chìm lúc nổi theo thủy
triều lên xuống. Thủy triều lên thì chúng chìm hoàn toàn dưới mặt nước biển, thủy
triều xuống thì chỉ có vài mỏm đá lô nhô, có lẽ vì thế các bên không (chưa kịp)
chiếm đóng.
Trong số
này có khoảng 2 hoặc 3 cấu trúc là đá, tức khi thủy triều lên vẫn có một số mỏm
đá nhô lên mặt nước, có những cấu trúc đã từng xảy ra chiến tranh, ví dụ năm
1988 Trung Quốc tấn công (xâm lược) Gạc Ma, sát hại mấy chục người lính Hải
quân Việt Nam.
Các cấu
trúc Trung Quốc chiếm đoạt từ tay nước khác còn có bãi cạn Scarborough năm
2012. Vốn dĩ bãi cạn này không phải vô chủ, mà nằm dưới sự kiểm soát của
Philippines, cách bờ biển nước này rất gần.
Người
Trung Quốc đến và cướp lấy, đó là ví dụ điển hình cho vở kịch bành trướng của
chủ nghĩa đế quốc.
Trung Quốc
gọi bãi cạn này là "đảo" Hoàng Nham, thực ra chỉ là vài mỏm đá. Khi
thủy triều lên, chỉ còn khoảng 5 đến 6 mỏm đá nhô lên mặt nước.
Tuy nhiên
ngày nay Trung Quốc đã tiến hành bồi lấp quy mô lớn (bất hợp pháp) thành các đảo
nhân tạo trên các cấu trúc mà họ chiếm đóng, thậm chí còn xây dựng cả đường
băng hàng ngàn mét.
Nói đến
đây, mọi người có thể lý giải tại sao chính phủ Trung Quốc lại không muốn giải
quyết tranh chấp Biển Đông trên cơ sở UNCLOS 1982, thậm chí còn tìm cách né
tránh Công ước.
Bởi vì họ
thừa biết, theo quy định của UNCLOS 1982, yêu sách của họ ở Biển Đông không có
sức thuyết phục.
Một là những
cấu trúc này cách bờ biển Trung Quốc quá xa, hai là những cấu trúc Trung Quốc đang
chiếm đóng phần lớn là các bãi cạn lúc chìm lúc nổi nên căn bản không có địa vị
nào về pháp lý.
Hơn nữa
cho dù họ xây dựng đảo nhân tạo trên các cấu trúc này cũng không làm thay đổi
quy chế pháp lý của chúng đã được UNCLOS 1982 quy định."
Nói Trung Quốc
có "chủ quyền" với Biển Đông, Trường Sa "từ thời cổ đại",
nó là "của tổ tông để lại" là bịa đặt, vô tri
"Cách
nói "Biển Đông là của tổ tiên chúng tôi để lại", cũng giống như cách
nói "Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi với khu vực này từ thời cổ đại",
bao gồm quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough.
Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố tại Singapore tháng 11 năm ngoái rằng, Trung
Quốc có "chủ quyền không tranh cãi" với Biển Đông, Trường Sa từ thời
cổ đại. Ảnh: AP.
Xét về mặt
pháp lý quốc tế, điều này có thể quy vào khái niệm "quyền lịch sử" mà
Trung Quốc giải thích: họ là người đầu tiên đến đây, người đầu tiên phát hiện,
người đầu tiên đặt tên, người đầu tiên quản lý khu vực này, cho dù nó cách đất
liền Hoa lục rất xa.
Lưu Lộ, một
luật sư nhân quyền người Trung Quốc cũng tham gia hội thảo lần thứ 23 của Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc ở New York, bàn về Biển Đông, ông cho biết:
"Một
người bạn học của tôi khi đi lính (hải quân) ở Biển Đông đã bảo tôi rằng, họ
thường xuyên phải lái tàu đem hàng hòm, hàng rương tiền cổ thời Tống mang (từ đất
liền Hoa lục?) rải ra các đảo.
Vậy nói
thẳng ra, cách nói "của tổ tiên chúng tôi để lại" có tin được không?
Đáng tin đến đâu?
Bản thân
tôi cũng đã nghiên cứu một số tài liệu và thấy rằng, vùng Biển Đông khoảng một
ngàn năm trước hoặc xa hơn nữa, có một quá trình lịch sử diễn biến phức tạp.
Không có
nhiều thời gian, tôi xin nói vắn tắt thế này: lịch sử Biển Đông về cơ bản là lịch
sử đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa tôn giáo không ngừng giao thoa, hội nhập, diễn
biến.
Có người
Trung Quốc, những cũng có người Ấn Độ, Trung Đông và đặc biệt là cư dân bản địa
hoạt động ở vùng biển này, là nơi giao lưu và dung hợp của nhiều dân tộc, nhiều
nền văn hóa, không thể xác định ai đến trước, ai phát hiện.
Mặt khác,
thời đó cũng chưa từng tồn tại khái niệm "chủ quyền" như cách hiểu hiện
nay. Khái niệm "chủ quyền" ta đang dùng hiện nay, bất quá cũng mới chỉ
xuất hiện cách nay quãng độ 400 năm.
Tính từ
Hòa ước Westphalia năm 1648 trở đi mới dần dần hình thành nên lý luận về "chủ
quyền" như hiện nay, bao gồm các yếu tố xác định về lãnh thổ, dân số,
chính quyền. Trước đó chưa từng tồn tại khái niệm ấy.
"Biên
giới" giữa các nước ven Biển Đông ngày nay vừa là sản phẩm của thời đại thực
dân, đồng thời lại phản ánh lịch sử lâu dài và phức tạp của khu vực này.
Nhưng bất
luận thế nào, quy thuộc vấn đề Biển Đông gắn vào lịch sử của một quốc gia nhất
định là điều không chấp nhận được. Cái gọi là "của tổ tiên chúng tôi để lại"
về mặt học thuật không chấp nhận được.
Ông Tập Cận
Bình nói điều này, có lẽ là do nhu cầu chính trị, và cũng có thể phản ánh một
thực tế rằng ông ấy không hiểu về chuyện này. Bởi các nhà lãnh đạo Trung Quốc,
suy cho cùng cũng là sản phẩm của một nền giáo dục hạn chế.
Hiện tượng
tự huyễn hoặc, tự biến mình thành tù binh của những thành kiến và tin đồn
(trong vấn đề "chủ quyền" ở Biển Đông) đã không phải là chuyện hiếm gặp."
Lịch sử đường
lưỡi bò và "bãi Tăng Mẫu" là minh chứng cho sự ngụy tạo
"Một
khi "quyền lịch sử" đã không đáng tin, thì cái gọi là đường 9 đoạn mà
ban đầu là đường 11 đoạn có lai lịch như thế nào? Thì ra nó được vẽ vào những
năm đầu của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc.
Năm 1947
Trung Hoa Dân Quốc công bố (đường lưỡi bò), nhưng từ những năm 1930 nó đã bắt đầu
xuất hiện.
Bối cảnh
ra đời của đường đứt đoạn là đầu những năm 1930, một chiến hạm của Pháp tới Trường
Sa, cắm bia ở đảo Nam Yết và bắn 21 phát pháo để tuyên bố chủ quyền.
Thời điểm
đó chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bị kích thích bởi điều này, bèn thành lập một số
cơ quan chuyên môn giống như Ủy ban Thẩm định địa đồ - đường thủy, sau đó đi
quan trắc.
Nói là
quan trắc cho oai, chứ kỳ thực cơ quan này chỉ dựa vào các tư liệu hàng hải dịch
của phương Tây, bắt đầu vẽ bản đồ Biển Đông mới.
Gọi là
"bản đồ Biển Đông mới", vì bức Trung Hoa Dân Quốc địa lý đồ năm 1914
đã đưa quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Đông Sa (còn gọi là quần đảo Pratas) vào
trong bản đồ "chủ quyền" của Trung Quốc, nhưng hoàn toàn không có Trường
Sa.
Người đẻ
ra đường 9 đoạn, hay còn gọi là đường chữ U, là một học giả khi đó, tên gọi Bạch
My Sơ. Lần đầu tiên ông ta vẽ ra đường lưỡi bò để quây lấy Biển Đông hòng biến
nó thành ao tù của Trung Quốc là năm 1936.
Thời đó lực
lượng quan trắc không đủ, mà Trường Sa thì ở quá xa Trung Quốc, nên thực ra
không có chuyện Trung Hoa Dân Quốc phái người ra Trường Sa đo đạc và đặt tên
cho các cấu trúc.
Chính vì
thế mới dẫn đến một số nhầm lẫn, ví dụ như cái Trung Quốc gọi là "bãi Tăng
Mẫu". Tăng Mẫu là cách dịch phiên âm chữ James, tên tiếng Anh thành tiếng
Hán.
Nhưng ban
đầu người Trung Quốc gọi nó là "bãi Tăng Mẫu", chữ bãi này là bãi cát
phẳng nổi trên mặt biển. Nhưng sau này người ta mới biết, làm gì có bãi cát nào
như vậy.
James là
một "bãi cát ngầm" nằm hoàn toàn dưới mặt nước biển, cách mặt nước
khoảng độ 22 mét, do đặc điểm địa mạo của nó, người ta gọi nó là "bãi cát
ngầm", nó không phải đảo, không phải đá, cũng chẳng phải bãi cạn lúc nổi
lúc chìm như mô tả của UNCLOS 1982, mà là một bộ phận của đáy biển.
Sở dĩ những
năm 1930 Trung Hoa Dân Quốc vẽ ra bản đồ mới, đưa quần đảo Trường Sa vào trong
bản đồ Trung Quốc cho dù chả có ai đến thực địa khảo sát, là vì Trung Quốc vừa
trải qua thời kỳ dài bị thực dân phương Tây xâm lược, nên xem việc này như ý thức
"tự cường dân tộc".
Tâm lý bị
thực dân phương Tây ức hiếp đã ảnh hưởng đến cả ý thức về vấn đề lãnh thổ. Chứ
lúc đó người Trung Quốc còn chưa có ý thức về một "đại Trung Quốc",
đường chữ U ra đời trong hoàn cảnh đó.
Đương
nhiên thời kỳ này không chỉ có Trung Hoa Dân Quốc yêu sách chủ quyền đối với Biển
Đông, Cộng hòa Pháp cũng tuyên bố yêu sách này.
Lúc đó Việt
Nam đang là thuộc địa của Pháp, nên Pháp cho rằng vùng biển phía Đông Việt Nam
thuộc về Pháp, vì vậy Pháp phái chiến hạm ra Nam Yết.
Nhật Bản
cũng từng tuyên bố Biển Đông là của họ, vì Nhật từng chiếm đóng đảo Đài Loan.
Trong Chiến tranh Thế giới II, Nhật Bản từng xâm chiếm cả Đông Nam Á, do đó thời
kỳ này Biển Đông gần như cái hồ của Nhật.
Chỉ có điều
Chiến tranh Thế giới II kết thúc, Nhật Bản cũng chẳng nhắc gì đến Biển Đông nữa.
Đến năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mới chính thức tuyên bố "chủ
quyền" đối với Biển Đông và chiếm đảo Ba Bình ở Trường Sa." [1]
Người viết
đánh giá rất cao thái độ khách quan, thượng tôn pháp luật của Giáo sư Trương
Bác Thụ khi bàn về vấn đề UNCLOS 1982 và ứng xử của Trung Quốc với Công ước mà
chính nước này từng rất tích cực tham gia xây dựng nên.
Đối với các
học giả Trung Quốc, có được nhận thức và cách tiếp cận khách quan, trên cơ sở
luật pháp quốc tế như Giáo sư Trương Bác Thụ quả thực không phải dễ dàng.
Bởi trước
tiên, họ phải vượt qua chính não trạng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ vốn đang phổ biến
ở Hoa lục, liên quan đến cái gọi là "chủ quyền" ở Biển Đông, vượt qua
dư luận và tư duy đám đông đã được tuyên truyền và dạy dỗ từ bé rằng: Biển Đông
là của tổ tiên người Trung Quốc để lại.
Có thể chính
họ sẽ bị các đồng nghiệp trong nước "ném đá", bị các cơ quan truyền
thông Trung Quốc chỉ trích và chụp cho đủ thứ mũ như Hán gian, phản quốc, nhưng
họ quyết sống đúng với lương tâm, trách nhiệm của người trí thức có hiểu biết,
thượng tôn pháp luật.
Những thông
tin liên quan đến chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa mà tác giả nêu ra trong
bài này, xuất phát từ góc nhìn của Giáo sư Trương Bác Thụ, mà rất có thể do nhiều
nguyên nhân, ông chưa có điều kiện tham cứu hết hồ sơ pháp lý của các bên, đặc
biệt là của Việt Nam.
Bởi quá
trình xác lập và thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã
được Nhà nước Việt Nam thực hiện từ thời các chúa Nguyễn, một cách hòa bình, hợp
pháp và liên tục.
Chính quyền
Cộng hòa Pháp sau này là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại, tiếp
tục thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo này, trước khi người Trung Quốc can
thiệp và tìm cách chiếm đoạt, xâm lược, chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa
và một số cấu trúc ở Trường Sa.
Những nội
dung này đã được Tiến sĩ Trần Công Trục nhiều lần phân tích trên Báo Điện tử
Giáo dục Việt Nam, điển hình như bài viết Những băn khoăn, thắc mắc về vấn đề chủ quyền quần đảo Trường Sa
đăng ngày 3/8/2016. [2]
Tài liệu
tham khảo:
H.T.