Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2016
Ngự Thuyết: Nhân Đọc Biệt Ly của Nguyễn Du, Tản Mạn về Thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát
(Tiếp theo và hết)
Để thoát
ly một phần nào cái thể điệu đều đặn của thơ lục bát, thể song
thất lục bát ra đời. Với thể này, hai câu 7 chữ được đặt trước câu 6
rồi đến câu 8. Cách hiệp vần và luật bằng trắc như sau.
Vần:
Chữ cuối
của câu 7 trên vần với chữ thứ 5 của câu 7 dưới, đều là vần trắc;
tiếp đến là chữ cuối của câu 7 dưới vần với chữ cuối của câu 6,
đều là vần bằng; tiếp đến nữa là theo lối gieo vần theo lối lục
bát. Thế là được 1 đoạn 4 câu. Để chuyển qua đoạn kế tiếp, chữ cuối
của câu 8 của đoạn vừa rồi vần với chữ thứ 5 của câu 7 trên của
đoạn tiếp theo. Và cứ thế, tiếp tục.
Bằng
trắc:
2 câu 6
và 8 theo đúng luật của thể lục bát. 2 câu 7:
Câu 7 trên: 0 trắc trắc bằng bằng trắc trắc
Câu
7 dưới: 0 bằng bằng trắc trắc bằng bằng
(số 0 bằng trắc tuỳ nghi, không kể.
Những chữ còn lại theo quy tắc nhất
tam ngũ bất luận, nhì tứ lục phân minh. Những chữ in nghiêng có
thể bằng hoặc trắc)
Ví dụ:
Đường
rong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi
tiễn đưa lòng bận
thê noa
Bóng
cờ tiếng trống
xa xa
Sầu
lên ngọn ải
oán ra cửa phòng
Ngoại
lệ: Khi 2 câu 7 đối nhau, hoặc được đặt sóng với nhau, chữ thứ 3 của
câu 7 trên theo quy tắc phải trắc
có thể đổi thành bằng:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp
thì về buồng cũ chiếu chăn
(đối nhau)
Chàng
từ đi vào nơi gió cát
Đêm
trăng này nghỉ mát phương nao
(sóng với nhau, không đối)
Đôi khi
có biến cách trong gieo vần. Xin nêu vài ví dụ trong Chinh Phụ Ngâm:
Chín lần gươm báu trao
tay
Nửa
đêm truyền hịch hẹn ngày xuất chinh
Nước
thanh bình ba trăm năm cũ
Áo
nhung trao quan vũ từ đây
...
Giã
nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vỵ ào ào
gió thu
Ngòi
đầu cầu nước trong như lọc
Đường
bên cầu cỏ mọc còn non
Ta vừa
đề cập đến vần, điệu, luật bằng trắc, trong thơ lục bát và song
thất lục bát. Thật ra các quy luật ấy được rút ra từ văn chương
truyền khẩu trong dân gian, trong ca dao, trong thơ cũ, Thơ Mới tiền
chiến. Nó quá quen thuộc. Nó đã nằm trong máu, trong thịt của người
làm thơ. Cho nên, khi làm hai loại thơ ấy, người thơ không cần phải ôn
lại hay để ý đến các quy luật như vừa nêu.
Thơ lục
bát có thể có từ thời Hai Bà Trưng như trên đã nói. Thế thể song
thất lục bát ra đời vào lúc nào? Trước thế kỷ thứ 14 chăng? Nguyễn
Trãi (1380
- 1442) đã làm những bài trong Gia Huấn Ca theo thể đó. Xin trích dẫn 4 câu đầu:
Phép Dạy Con
Ngày con đã biết chơi biết chạy
Đừng
cho chơi cầm gậy trèo cao
Đừng
cho chơi búa chơi dao
Chơi
vôi chơi lửa chơi ao có ngày ...
Đến thế
kỷ thứ 18, những tác phẩm rất giá trị như Chinh Phụ Ngâm của Đoàn
Thị Điểm (1705 - 1748), lời thơ não nuột, réo rắt, và đầy nữ tính-- hay của
Phan Huy Ích
(1750 - 1822)? --, Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia
Thiều (1741 - 1798) rất hay nhưng mang tính chất “đàn ông” hơn là
giọng oán than của một cung nữ, đều được viết theo thể song thất lục
bát. Ngay cả Nguyễn
Du, bậc thầy của thể
loại lục bát, cũng từng ghé mắt qua thể song thất lục bát bằng một
thi phẩm bất hủ dài đến 184 câu: Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh.
Xin trích 4 câu đầu
tiên:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát
hơi may lạnh buốt xương khô
Não
người thay bấy chiều thu
Ngàn
lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng
Xin trở
lại với đề tài “Biệt Ly”, lần này biệt ly trong thơ song thất lục
bát Chinh
Phụ Ngâm. Vì là sự phối
hợp của thơ 7 chữ và thơ
lục bát, thể song thất lục bát cho phép người làm thơ có được nhiều
áp dụng về thi pháp hơn, nhất là về mặt âm thanh và gieo vần – bằng
trắc ở yêu vận (vần giữa
câu) và cước vận (vần cuối câu) thay nhau xuất hiện khiến âm điệu câu thơ
biến chuyển nhanh chóng và đa dạng. Nhờ vậy, 408 câu trong Chinh phụ Ngâm đã tuôn dào dạt, réo rắt, như dòng nước
chảy, như tiếng sáo diều, như lời than thở dồn dập trùng trùng điệp
điệp không bao giờ dứt của người cô phụ. Đề tài “Biệt ly” trong Chinh Phụ Ngâm cũng
được viết đến 40 câu từ câu 25 đến câu 64[1].
Đây là
một đoạn thơ hay. Xin trích dẫn nhận xét của Giáo Sư Hà Như
Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận về 40 câu thơ nói trên:
“ ... Nhờ
sự phụ họa của màu sắc: nước trong như lọc, cỏ mọc còn non, áo đỏ
tựa ráng pha, ngựa trắng như tuyết, ngàn dâu xanh ngắt, của âm thanh: tiếng nhạc ngựa, tiếng trống, tiếng địch,
của hình ảnh hào
hùng: “Múa gươm rượu
tiễn chưa tàn/chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo” và nhất là tình cảm đượm buồn, trang nhã, đằm
thắm của chinh phụ, ta
đã cảm thấy một cách sâu sắc vẻ đẹp Á Đông và cổ kính cùa một
cảnh ly biệt.”
Ngoài ra,
về mặt thi pháp, tác giả tận dụng một vài ưu thế của thể thơ song
thất lục bát so với thể
thơ lục bát, đó là phép đối và
liên hoàn.
Phép Đối: trong
thơ lục
bát có phép đối trong phạm vi từng câu riêng lẻ (tiểu đối), chẳng hạn đối trong câu 6 hoặc đối trong
câu 8, như đã nêu trong phần “Biệt Ly” của Nguyễn Du. Ngoài ra, câu 6
không thể đối với câu 8.
Trong thơ
song thất lục bát, trong phạm vi câu 6 hoặc câu 8 lẽ tất nhiên có thể
có tiểu đối (câu thứ 343: “nghĩ bạc mệnh”
đối với “tiếc niên hoa”; câu thứ
16 “sầu lên ngọn ải đối với oán ra cửa phòng”). Với những cặp câu 7, thủ pháp đối
ngẫu được sử dụng rất nhiều và rất chỉnh:
Quân trước đã gần ngoài Doanh Liễu
Kỵ
sau còn khuất nẻo Tràng Dương
...
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp
thì về buồng cũ gối chăn
...
Chàng
ruổi ngựa dặm trường mây phủ
Thiếp
dạo hài lối cũ rêu in
...
Tìm
chàng thuở Dương Đài lối cũ
Gặp
chàng nơi Tương phố bến xưa
Liên hoàn (chữ cuối
của câu trước được chữ đầu của câu kế tiếp lặp lại): Thủ pháp này không được sử dụng trong
thể lục bát, trái lại trong Chinh
Phụ Ngâm có nhiều
đoạn liên hoàn đặc sắc:
Cùng
trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng
chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
...
Mặt
biếng tô miệng càng biếng nói
Sớm
lại chiều dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng
chàng điểm phấn trang hồng với ai
Có thể
kể thêm 6 câu song thất lục bát dưới đây. Cùng với liên hoàn là những thủ pháp nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trưng, điệp ngữ, và rất nhiều hình ảnh, ngôn từ láy đi
láy lại, tất cả họp lại diễn tả nỗi bi thương, lời oán thán, miên
man, bất tận. Một điểm đặc biệt là chỉ trong 6 câu (42 chữ), có rất nhiều điệp ngữ. Thế nhưng các câu
thơ tuôn ra như dòng suối, không chút vấp váp, cấn cái, trái lại quấn
quýt nhau, nâng đỡ nhau, âm vang, ray rứt.
Một đặc
điểm khác nữa, câu cuối trong 6 câu đưới đây muốn nói gì? Phải chăng
người chinh phụ đáng thương đó đã trải qua nhiều đêm thức trắng? Không
chợp mắt mới chứng kiến được, mới đếm được, trong “đêm sương” hoa mấy lần rụng. (Bà Đoàn Thị
Điểm đã dịch rất thoát, nếu không muốn nói sáng tạo ra câu cuối
cùng này, nghe hay hẳn lên. Nguyên tác: Hoàng
hoa lão hề lạc mãn tường/Hoa lạc như kim kinh kỷ sương nghĩa là Hoa vàng già rồi rụng đầy tường/Hoa
rụng đến nay đã trải qua mấy năm?).
Đây, 6 câu
thơ ấy:
Hướng
dương lòng
thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng
dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng bởi
tại bóng dương
Hoa vàng hoa
rụng quanh tường
Trải
xem hoa rụng đêm sương mấy lần
(người viết in nghiêng và tô đậm)
*
Trên đây
là ca dao, là những vần thơ cổ, là những bài thơ thuộc phong trào Thơ
Mới tiền chiến. Qua hậu bán thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, thơ lục
bát và song thất lục bát vẫn còn tồn tại. Một nhà thơ rất tài ba,
đầy sáng tạo, ngôn ngữ rất phong phú, lắm khi pha trộn với sự tinh
quái, nghịch ngợm, có lúc đi đến “mép rìa” của huyền bí, kinh dị,
điên loạn, thay vì tiếp cận với các thể loại hiện đại, hậu hiện
đại, vẫn thường sử dụng những lối thơ cũ như thơ 5 chữ, 7 chữ, 8
chữ, nhất là thơ lục bát, và thỉnh thoảng song thất lục bát. Đó là
Bùi Giáng. Thử đọc vài ba bài thơ lục bát trong thời gian đầu của
nhà thơ này:
Anh Về Bình Dương
Anh về
đất rộng Bình Dương
Trái cây
và lá con đường cỏ xanh
Môi người
nắng ngọt vây quanh
Nụ cười
Nam Việt yên lành bấy nay
Em về đẩy
mộng lên vai
Chào xuân
ngả nón bụi ngày gió ru
Mừng vui
con mắt ngây thơ
Mày
nghiêng như lệ pha mờ chiêm bao
Yêu nhau
cảm động dường nào
Anh về
đất rộng cúi chào Bình Dương
Kỷ Niệm
Trời xưa
mây đổ dặm ngàn
Bước lang
thang đã hao mòn mấy thu
Chập chờn
hình ảnh phiêu du
Ghì môi
máu nhạt giữa mù mịt sương
Quê chàng
trời quạnh Liêu Dương
Quê chàng
đất quạnh trên đường chia phôi
Tình em
mây phủ chân đồi
Phụng dâng
lở dở nước trời mênh mông
Mắt Buồn
Bóng mây
trời cũ hao mòn
Chiêm bao
náo động riêng còn hai tay
Tấm thân
với mảnh hình hài
Tấm thân
thể với canh dài bão giông
Cá khe
nước cõng lên đồng
Ruộng
hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ
tháng chạp quay nghiêng
Ầm trang
sử lịch thu triền miên trôi
Bỏ trăng
gió lại cho đời
Bỏ ngang
ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người
yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình
hài của tiên nga trên trời
Bây
giờ riêng đối diện tôi
Còn
hai con mắt khóc người một con
Chữ
nghĩa bay lượn, mới mẻ, ý tình tha thiết, man mác. Và giữa những
hàng chữ dâng lên một nỗi niềm khác – một chút yêu đương, một chút
băn khoăn, một chút áo não và rất nhiều hoang mang, cô đơn.
Sau đó,
trong một bài viết ngắn, ông nhắc nhở đến Huy Cận, đồng thời bày tỏ
quan niệm của mình về thơ:
“A
thân thể! Một cái bình tội lỗi
Đất
sơ sinh đã hóa lại bùn lầy
Một ý tưởng chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu
thơ của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời.
Và
cổ đứng như mình cây vững chãi
Và
vai ngang như mặt nước xuôi dài
(4 câu trên trích từ bài Thân Thể trong
tập Lửa Thiêng của Huy Cận – NT chú thích)
Viết câu thơ lai rai như thế mới đích thị là
thiên tài. (Còn như cái bài Tràng Giang của ông chính ông cũng lấy làm đắc ý lắm,
thật ra còn vướng vướng, không có chi là huyền ảo cả.)
Và cái câu:
Tôi
đội tang đen và mũ trắng
Ra
đi không hẹn ở trên đường
Ông viết hai câu kỳ tuyệt như thế, thì thử
hỏi: còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô ùa Đường Thi chạy
mất hút. Toàn khối thi ca Trung Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu
như bị nổ bung lông lốc, vì cái trái lựu đạn đơn giản đó của ông
tung ra.” (Thi Ca Tư Tưởng, CADAO xuất bản lần thứ nhất 12/69, SAIGON –
VIỆT NAM)
Bùi Giáng vẫn có thói quen đưa đẩy ngọn bút của mình đến chỗ không kiểm
soát nổi. Mặt khác, căn cứ vào ý kiến của ông về thơ Huy Cận vừa nêu trên (Đặt bài Thân Thể ít người biết lên trên bài
Tràng Giang nổi tiếng), ta nhận thấy ông càng về sau càng xa lánh
chữ nghĩa du dương, hoa mỹ, dễ dãi, chải chuốt của Thơ Mới thời Tiền
Chiến. Ông muốn đi theo con đường khác, muốn đi sâu vào thế giới u uẩn khó
nắm bắt, hoặc muốn chụp lấy những rung động khi ẩn khi hiện, chợt
lóe chợt tắt, và viết bằng một thứ ngôn ngữ nghịch ngợm, lai rai, “chịu chơi”,
“hồ đồ”, “gùn ghè, gay cấn”, có khi đi
đến chỗ hỗn mang, quái dị. Xin trích dẫn vài ba bài thơ trong tập thơ
Mưa Nguồn và Lá Hoa Cồn (An Tiêm, Sài Gòn, 1973) của Bùi Giáng:
Trời
Mưa Trên Đầu
Trời
mưa lộp độp trên đầu
Thì
xin Thượng Đế chia sầu với tôi
Thuở
còn trẻ dại rong chơi
Thì
sung sướng với mưa rơi trên đầu
Bây
giờ cái sướng đi đâu
Cái
gì ở lại ra màu dở dang
Chiêm
bao rớt hột hàng hàng
Từ
xiêm trắng xuống hỗn mang trên đầu
Gái Ăn
Quà
Chị
em xuống phố ăn quà
Gặp
lưu manh đón đường tra hỏi gì
Lặng
nhìn mái tóc từ bi
Lắng
nghe môi miệng nhu mì mở ra
(Chị em xuống phố ăn quà
Làn
mi liễu mộng miệng hòa chan chan)
Làn
mi thổi gió lên ngàn
Chị
em xuống phố hoà chan ăn quà
Vô
ngần miệng ngọc mở ra
Môi
răng thể lệ ăn quà thể quang
Chị
em xuống phố hòa chan
Ăn
quà rất mực thênh thang thật là
Hai bài
thơ thật hay, ý nghĩa đột ngột, “phiêu bồng”, chữ dùng lạ lùng, mới mẻ. Ông còn đưa vào thơ nhiều tiếng rất
bình dân chen lẫn với chữ nghĩa thông thái. “Gái Ăn Quà” là đề tài
của thơ thì cũng là chuyện chưa từng thấy trong văn học Việt Nam. Bài
này cho thấy tấm lòng thương yêu bao la, đằm thắm, trìu mến của tác
giả đối với phái nữ. Không phải chỉ những nữ lưu cao sang như Nam
Phương Hoàng Hậu, Trí Hải Ni Cô, Hà Thanh, Kim Cương, Marilyn Monroe, vân
vân, mà cả những người vô danh trong đám dân dã. Môi, miệng, răng, mi, tóc của con gái ăn
quà trông sao mà “nhu mì mở ra” như thế, dễ thương đến thế. Thảo nào
lưu manh đón muốn “tra hỏi gì”, muốn trấn lột hay sách nhiễu tình
dục chăng, cũng đành phải “lặng nhìn”, lắng nghe”, quên khuấy đi mất
cái ý định sàm sỡ của mình.
Xin trích
mấy đoạn để biết thêm “tấm lòng” của Bùi Giáng đối với phái đẹp.
Đừng nói
bậy về “Cô Bán Phở” nhé:
Hai cô bán phở dịu dàng
Đừng
nên nói bậy hai nàng buồn ta
“Thôn Nữ”
quá hấp dẫn:
Em xin chàng chớ lai rai
Con
đường thôn lấm ngày dài chi mô
Mở
môi ngôn ngữ hồ đồ
Vén
xiêm em lội xuống hồ nước kia
“Gái Chửa
Hoang” đầy cám dỗ khiến tôi chưa chịu về:
Hội nào em lỡ chửa hoang
Và
em đã khóc lệ tràn như mưa
Bây
giờ tôi đã quên xưa
Sài
Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về
Nhưng khi
viết về Phùng Khánh (tức
là ni cô Trí Hải, nhỏ tuổi hơn Bùi Giáng nhiều, NT chú thích), cũng có chút bỡn cợt gọi nhân vật
nữ này là mẫu thân, ông đã tỏ rõ tấm lòng thương yêu nồng nàn chan
chứa xen lẫn với buồn tủi, ngậm ngùi, chẳng khác gì đứa con thơ côi
cút vừa trông thấy mẹ mới về đứng ở đầu sân bỗng dưng mẹ bỏ đi đâu
mất:
U hoài đầu mộng hôm qua
Mẫu
thân phùng khánh thật là u u
Chân
đi từng bước hư phù
Mộng
đi từng bước tuyệt trù ống chân
Mẹ
về đứng giữa đầu sân
Cuối
cùng mẹ bước vô ngần mẹ đi
Là một
người uyên bác với tấm lòng bao la, ông đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ bao gồm văn,
triết, dịch thuật, và nhất là thơ. Thơ của ông rất đa dạng về tư
tưởng, về ngôn ngữ, trong giai đoạn đầu. Sau đó, ông bước thêm một
bước nữa trong lối sử dụng “chữ nghĩa lai rai, gùn ghè, chịu chơi,
gay cấn”. Ví dụ bài thơ dưới đây làm theo thể song thất lục bát (trong bài viết này, để được
tập trung, xin chỉ trích dẫn thơ lục bát và song thất lục bát của nhiều tác giả, và của Bùi Giáng trong
khi nhà thơ này có nhiều bài rất hay viết theo các thể loại khác):
Bà
Hiệu Trưởng Bước Đi Đệ Nhất
Bà hiệu trưởng bước đi đệ nhất
Cô
giáo viên bản chất nữ sinh
Chào
xuân mật niệm u tình
Biên
thành bắc húc bình minh nam triều
Bà
đi bước hoang liêu ngờ vực
Cô
bước theo càng lúc càng nghi
Chỉn
e trận trận giai kỳ
Ruộng
nương nảy lúa hột phì nhiêu thơm
Bà
đi bước sớm hôm tề chỉnh
Gió
tương lai vẫn thỉnh cầu sương
Nắng
vàng trút lục nghìn phương
Bà
về phố thị cô mường tượng thôn
Hình
dung bước hà sơn như thể
Láng
giềng dàng hội lễ tháng ba
Biển
dâu bước một chan hoà
Bà
vào rún đất cô ra chân trời
(Đệ Nhị Bà Cô
về U
Thâm Đệ Nhất )
Cảm
tưởng đầu tiên là càng đọc càng thấy bài thơ thật lạ, thật hay, ngôn
ngữ thật tân kỳ, ngộ nghĩnh. Nhưng tác giả muốn nói gì? Phải chăng
bà thì khắc khổ, ngờ vực; cô thì sợ sệt, hoang mang? Phải chăng bà
gay gắt, khó chịu; cô ngây thơ, phục tùng? Phải chăng bà đã bị đô thị
hóa, hướng “về phố thị”, bó thân vào “rún đất”; cô vẫn còn mơ màng
những bước phiêu bồng hoang dã?
Nghĩa là khoảng cách giữa bà và cô còn xa lắm? Nhà thơ “nể” bà
nhưng “quý” cô? Bà đã bị tha hóa, cô còn nguyên si? Ấy là người viết
chỉ “đoán mò” những “ý đồ” của tác giả. Có lẽ đối với Bùi Giáng,
câu chuyện giữa bà hiệu trưởng và cô giáo trẻ là điều thứ yếu, là
cái cớ để từ đó tác giả vung bút múa may đùa cợt với ngôn ngữ.
Về sau
nhiều lúc tâm thần của ông không ổn định, thơ của ông nghe như những
lời mê sảng, chẳng lóe cho ta thấy chút ánh sáng nào. Loại thơ này
khá nhiều trong kho tàng thơ đồ sộ của Bùi Giáng. Tôi chỉ xin trích
dẫn một bài theo thể lục bát, một bài theo thể song thất lục bát:
Âm Thanh
Âm
thanh chạy tuột lên đường
Tồn
lưu thái thậm vô thường cảo thơm
Gà
con gãy cẳng cá tôm
Chuyên
cần trì ngự bao hàm trì lưu
Tan
canh eo óc dê cừu
Sơ
lan vãn huệ xin trừu tượng bông
Cô
nương máu giục phi hồng
Ngọ
về đứng nắng sương đồng chảy tuôn
Đầy
vơi ngôn ngữ cỗi nguồn
Ngậm
cười mở ngọn mối buồn trung niên
Tứ
Diện Ca
Quả
ấn độ bà là mật túy
Trái
xiêm la giáp trĩ phong phiêu
Em
chanh chua ngọt ngọn triều
Thiền
vu khâm mệnh cung thiều hằng sa
Số
đếm lộn ra tòa kiếp số
E
rằng sai âm hộ ôn hinh
Lầm
than tứ diện tâm tình
Quy
y tam bảo lục trình trở cơn
A
tăng kỳ kiếp liên tồn
Thoái
tàng ư mật lá cồn lập thu
*
Càng
ngày các loại thơ cũ, nhất là thơ lục bát và song thất lục bát,
càng bị thờ ơ, nếu không muốn nói rẻ rúng. Trước những tấn công ồ ạt của các
phương tiện truyền thông hiện đại, nhất là từ khi truyền thanh, truyền
hình, điện ảnh, và đặc biệt là điện toán ra đời, thú đọc thơ, bình
thơ bị giảm sút nhiều. Ngay cả đối với những ai còn quan tâm tới thi
ca, đại đa số cũng không muốn đi trên những con đường mòn cũ. Họ sáng
tạo, họ sục sạo tìm cái mới, cái lạ, họ hối hả du nhập những
trào lưu thi ca hiện đại, hậu hiện đại của thế giới. Thơ Tự Do, Thơ
Không Vần, Thơ Xuôi, Thơ Tân Hình Thức, Thơ Cụ Thể, vân vân, ra đời. Thử
trích một đoạn ngắn trong bài thơ “Thơ: cái gì lơ lửng” của Nguyễn Tôn Hiệt hiện sống tại Úc:
...Tôi
không thể nào đi trực tiếp vào trang giấy.
Giữa
tôi và trang giấy luôn luôn có sự lơ lửng.
Từ
tôi đến trang giấy luôn luôn có một khoảng lơ lửng.
Phải
chăng thơ chính là khoảng lơ lửng ấy?
Nếu
thơ chính là cái lơ lửng ấy, tại sao tôi còn phải chép
nó xuống trang giấy?
...
Và đoạn
đầu trong bài thơ Những Hạt Cơ Hàn
của Phan Thị Trọng Tuyến hiện sống ở Pháp:
Thứ hai, tôi thấy em đang leo ngược
dốc.
Lưng nhỏ cong mềm vai oằn quang
gánh.
Em hồn nhiên: ấy nghiệp dĩ mẹ
cha.
Thúng thiện bên này, bên kia thúng
ác.
Thiên hạ xếp hàng hò reo mắng
nhiếc.
Trải khăn, ghế, nướng thịt cùng píc
níc.
Ai gánh gánh, ai ăn ăn. Em
độ
lượng gật gù. Tôi cúi mặt băn
khoăn. Quay lưng, mò tìm sandwich, gặm
Quả là
những luồng gió mới khiến người đọc cảm thấy ngạc nhiên, thích thú.
Những nhà thơ hôm nay, tuyệt đại đa số, đều không làm thơ theo thể lục
bát và song thất lục bát. Đa số độc giả cũng không còn ưa chuộng hai
thể thơ trên như trước kia. Có người làm thơ lục bát nhưng dùng kỹ
thuật vắt dòng mong nó có dáng dấp của một loại thơ bây giờ. Chẳng
hạn:
Trăm năm trong
Cõi
Người
ta
Chữ
tài chữ mệnh khéo
Là
ghét nhau
Thơ bây
giờ cần tự do. Gạt bỏ những ràng buộc về thanh, vần, nhịp, điệu,
luật bằng trắc, gạt bỏ những thủ pháp về tu từ, mỹ từ, và đi thật
gần với lối nói bình dị hằng ngày, lối nói có thể dịch ra một
ngoại ngữ mà không làm mất ý nghĩa của nguyên bản, nói cách khác
nó hướng đến tính cách “toàn cầu hóa”[2].
Người làm thơ, do đó, tha hồ vẫy vùng ngọn bút. Nhưng làm một bài
thơ tự do, thơ không vần, thơ cụ thể, thơ tân hình thức, thơ hậu hiện
đại, hậu ngôn ngữ, vân vân, cho thực hay, đó không phải là chuyện dễ,
nếu không muốn nói nó còn khó hơn làm một bài thơ theo thể cách cũ.
Dưới đây là một bài thơ hay thuộc loại tân tân hình thức, tác giả là
Mai Phương:
Đi Tìm
Nơi Mặt Trời Mọc
Buổi
sáng, trên xa lộ
dài
và rộng, không còn
anh
bên cạnh, những dòng
xe tấp nập, những con
đường
đi về đâu mà
thênh
thang nỗi nhớ. Phía
trước
mặt, màu đỏ của
mặt
trời đốt cháy nỗi
cô
đơn rực nóng, những
đam
mê một thời khao
khát,
anh ở đâu? Có
hay
một người đang tìm
anh,
tìm lại hạnh phúc
của
đời mình đã để
vụt
bay. Xa lộ, đoàn
xe
nối nhau bất tận,
những
màu xe vượt qua
mặt,
xe nào anh trong
đó,
vùng nào anh đang
đi
sao nỡ vội xa
nhau
...?
Hơn thế nữa, một bài thơ theo thể lục bát
hoặc song thất lục bát, nếu hay, không phải tùy thuộc vào thể thơ.
Thể thơ không cứu vãn một bài thơ dở. Thể thơ có khi làm thiệt hại
cho bài thơ. Ngay cả 4 câu
đầu tiên trong Chinh Phụ Ngâm dịch
từ 3 câu của Đặng Trần
Côn là những câu thơ khá hay, nhưng nếu được dịch thành văn xuôi, không
chừng nghe hàm súc hơn, gợi ý hơn.
Vì phải khép vào vần điệu của thể song thất
lục bát, 3 câu nguyên tác của Đặng Trần Côn với 16 chữ:
Thiên
địa phong trần
Hồng
nhan đa truân
Du
du bỉ thương hề thùy tạo nhân
được
Đoàn Thị Điểm dịch ra thành 4 câu 28 chữ âm điệu du dương, réo rắt,
hơi dài dòng, và có vài ba chữ thừa:
Thuở
trời đất nổi cơn gió bụi
Khách
má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh
kia thăm thẳm từng trên
Vì ai
gây dựng cho nên nỗi này
Dịch 3 câu nguyên tác ra văn xuôi sẽ không có cái
trầm bổng của thể song thất lục bát, nhưng sẽ gọn hơn, chữ nghĩa
mạnh dạn hơn, và sẽ giữ được ấn tượng sâu đậm hơn mà nguyên tác đã
tạo nên: “thiên địa phong trần” (trời đất gió bụi) là nhân, đưa đến “hồng nhan đa
truân” (má hồng gian truân) là quả. Hai vế sóng với nhau, đối
với nhau về ý nghĩa, dù không đối với nhau về thanh âm. Chiến tranh
không mang đau khổ cho chinh phu, cho chiến sỹ ngoài mặt trận, mà chủ
yếu là cho người chinh phụ,
người vợ ở nhà cô đơn, mong đợi.
8 chữ đầu
tiên nêu lên chủ đề (thème) của toàn khúc ngâm, nó dùng để dẫn nhập đồng thời tóm lược cho
toàn thể trên 400 câu của bài thơ dài. Do đó, nó đóng vai trò
rất quan trọng. Câu thứ 3 tiếp theo chỉ là lời phụ họa.
Xin tạm dịch ra văn xuôi 3 câu chữ Hán:
Trời
đất gió bụi
Má
hồng gian truân
Cao
xanh kia vì ai gây nên cớ sự
Nói là văn xuôi, 3 câu trên có thể được xem như
là thơ, thơ không vần, chữ nghĩa giản dị mà súc tích.
Theo thời gian, trước những biến chuyển vô cùng
lớn lao của cuộc sống hiện tại, của một thế giới thiên hình vạn
trạng, một thế giới hung tàn, quay cuồng, điên đảo, liệu các thể thơ hoa mỹ, êm đềm, dịu
dàng cũ, đặc biệt là thơ lục bát và song thất lục bát, có đủ khả năng mô
tả, diễn đạt tâm thức của con người bây giờ? Hay nó đã lỗi thời, đang bị lạnh
nhạt nếu không muốn nói bị rẻ rúng, và sẽ tàn lụi trong một tương lai
không xa? Là vì, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, thơ muốn tồn tại
phải trải qua nhiều trăn trở, thay đổi để có thể theo kịp thời đại,
hay cũng có thể vượt thời đại. Và cứ thế, trên con đường dài bất
tận không bao giờ đến được đích, thơ lại muốn sống còn, thì lại
phải biến đổi hay ngay cả tự hủy như con phượng hoàng trong thần
thoại tự đốt cháy ra tro để tái sinh thành con phượng hoàng mới lẫm
liệt gấp bội. Hậu sinh khả uý!
Nhưng
cũng có trường hợp ngược lại. Trong nền thi ca Tàu, các thời đại
Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều không so sánh nổi với thời Thơ Đường. Ở
phương Tây, nhà thơ mù Homer Cổ Hy Lạp vẫn là hình ảnh chói lọi khiến hậu thế
cả mấy ngàn năm sau kính phục.
Và đây
là một thực tế ở nước ta. Mặc những tấn công, đả kích các loại thơ
cũ, hoặc những khẳng
định, chẳng
hạn, rằng
bây giờ “Thơ là trí tuệ. Không phải
là rung động[3]”,
khi nhìn lại những bài thơ xa xưa có giá trị như một số bài thơ
thượng dẫn, người thưởng ngoạn vẫn thấy lòng rung động, không phải
cái rung động bất chợt khi bắt gặp một kỷ niệm thân thươngcủa thời
còn bé dại. Đấy là rung động đích thực trước cái hay, cái đẹp đứng
vững với thời gian.
Tóm lại, các loại thơ vần điệu cũ, nhất là
thơ lục bát và song thất lục bát, vẫn có thể tồn tại, vẫn có thể
tìm được chỗ đứng xứng đáng trong nền thi ca bây giờ nếu nó biết tự
điều chỉnh, chuyển biến, cách tân, thay đổi. Chẳng hạn như thơ lục
bát của Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, vân vân.
11/2016
[1]Ngòi
đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền
Nước có chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ có thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên Sa
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà Lương chia rẽ dường này
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi
Quân trước đã gần ngoài Doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu Dương biết thiếp đoạn trường này chăng
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấy chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn
Đoái trông
theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dau
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
2 Một trong những nỗ lực của nhà thơ tân hình thức là làm những câu thơ thật đơn
giản, thật gần với tiếng nói thông thường. Muốn thế phải loại bỏ tu
từ, âm điệu, vần. Tu từ (loại tu từ vẫn được sử dụng, chứ không phải tân tu từ, “new rhetoric”) khiến cho ngôn ngữ bị uốn nắn, chải
chuốt đến độ mất đi tính cách uyên nguyên của nó. Âm điệu du dương là
để nghe, nhưng thơ tân hình thức là để đọc hơn là nghe, đọc trong “cô
đơn, tĩnh lặng”. Âm điệu réo rắt có thể làm xao nhãng người đọc,
khiến người đọc không lãnh hội đầy đủ ý tưởng của bài thơ.
3 Mai Thảo có lần viết: Với những cõi thơ như Vũ
Hoàng Chương phải vận dụng trí tuệ mới mong mở được lối vào. Thơ là trí tuệ. Không phải là rung
động. Về điểm này, thấy được, nói được những điều xứng đáng về
tiếng thơ Vũ Hoàng Chương, cũng phải từ một tâm hồn , một trí tuệ
xuất chúng. (Chân dung 15 nhà văn nhà thơ Việt Nam của Mai Thảo, Văn
Khoa xuất bản, Wesminster, California, 1985).
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét