Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH: NGUYỄN DU QUA MỘ ÂU DƯƠNG TU (1007-1072)
Nguyễn Du qua mộ Âu Dương Tu trong khi đi sứ năm 1813, thời gian từ 9-8 đến 22-8 năm Quý Dậu, khi đi ngang qua tỉnh Hà Nam, cựu kinh đô Khai Phong tức Đông Kinh nhà Tống. Âu Dương Tu là một trong 10 văn hào lớn nhất Trung Quốc : Khuất Nguyên,Tư Mã Thiên, Đào Uyên Minh, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Hàn Dũ, Âu Dương Tu, Tô Thức, Tào Tuyết Cần ; và một trong 8 nhà văn lớn thời Tống : Đường Tống Bát Đại Gia : Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Vương An Thạch, Tăng Củng.
Trước mộ văn hào Âu Dương Tu, Nguyễn Du đã xúc động viết bài thơ :
Mộ ông Âu Dương Văn Trung Âu Dương Tu là một nhà thơ trữ tình xuất sắc, một
ngòi bút sử gia chính trực, một mẫu mực của người quân tử ngày xưa. Sớm đỗ đạt,
làm quan cao. Suốt đời theo đường lối ngay thẳng không để lại điều gì để đáng
ân hận. Nghìn năm qua chốn suối vàng còn vang tiếng danh. Một trong những việc
ngay thẳng của Âu Dương Tu để lại tiếng danh là việc bênh vực nhà cải cách
chính trị Phạm Trọng Yêm (989-1052).
Nguyên Phạm Trọng Yêm, Phó Tể Tướng đứng đầu chủ trương cải cách chế độ
quan liêu, chế độ ruộng đất, công chính xã hội, bài trừ tham nhũng, tích cực chống lại giặc Tây Hạ bên ngoài,
nhưng gặp phải sự phản đối của phe Tể tướng Lữ Di Gián. Phạm Trọng Yêm bị vu hại,
bị biếm đi Nhiêu Châu (nay là Bá Dương, tỉnh Giang Tây). Âu Dương Tu cùng một số
đại thần dâng thư lên Hoàng đế nhà Tống, xưng tụng Phạm Trọng Yêm là người
chính trực dám nói, làm quan thanh liêm, xin giữ lại ông ở lại triều đình.
Nhưng Gián quan là Cao Nhược Nột không có lương tâm nói rằng Phạm Trọng Yêm
đáng bị biếm. Âu Dương Tu viết thư trách mắng Cao Nhược Một :
« Trước đây tôi nghe người ta nói ông là một người quân tử, chính
trực có học vấn, nhưng tôi hoài nghi. Cái gọi là chính trực đó là không thể co
mình lại, có học vấn đó là có thể phân biệt được thị phi. Ông thân là Gián
quan, đối với việc Phạm Trọng Yêm bị biếm lại không thể nói những lời công
chính, tôi thấy ông không phải là bậc quân tử. Phạm Trọng Yêm cương chính hiếu
học, bác cổ thông kim, trong triều ngoài nội ai ai cũng đều công nhận. Ông ấy
chỉ đắc tội với Tể tướng. Ông thì sợ Tể tướng, ham tiếc chức vị bản thân, vì hám
lợi mà không dám nói những lời công chính. Ông làm như thế, còn mặt mũi nào mà đi
gặp các vị đại thần ? Còn có tư cách gì vào triều xưng là Gián quan. Tôi
xem ra ông là người không biết ở nhân gian có những việc đáng hổ thẹn. »
Năm 1036, Cao Nhược Nột và Lữ Di Gián báo thù trục xuất Âu Dương Tu ra
khỏi kinh thành, giáng chức xuống làm huyện lệnh Di Lăng (nay là Nghi Xương, tỉnh
Hà Bắc). Mãi đến mấy năm sau triều đình trọng dụng lại Phạm Trọng Yêm, Âu Dương
Tu mới được trở về triều đình.
(Trích : Bất tri nhân gian
hữu tu sỉ sự, trong Trung Quốc thành ngữ cố sự tổng tập, tập I, chủ biên Đường
Kỳ. Trường Xuân. Thời Đại văn nghệ xuất bản xã. 2004).
Nguyễn Du có ý gì khi nói nơi nấm mộ con người danh tiếng ngay thẳng
đó, nay là nơi chứa chuột và chồn cáo ? Đời nay (thời Nguyễn Du) không có
ai ngay thẳng, chính trực, tài năng như Âu Dương Tu chăng ? Nguyễn Du chỉ
thấy loài chuột hôi tanh lợi dụng danh tiếng Âu Dương Tu để đục khoét, gặm nhấm,
phá phách. Nguyễn Du chỉ thấy loài chồn
cáo, điêu ngoa xảo quyệt, lợi dụng danh
tiếng người ngay thẳng. Nguyễn Du đứng trước mộ Âu Dương Tu : có những cội tùng cao, có cỏ chỉ mọc quanh mộ, tại sao còn hỏi cây tùng
và cỏ chỉ mọc nơi nào ? phải chăng Nguyễn Du muốn nói đến những thi ca,
văn chương tuyệt tác của Âu Dương Tu ngày nay không ai biết tới, mà chỉ nghe
người tiều phu và trẻ mục đồng hát những bài vè, bài đồng dao dưới nắng tà.
Âu Dương Tu là ai ? mà đứng vào hàng ngũ bênh vực nhà cải cách, chống
tham nhũng, bè phái, theo lẽ phải, không sợ bạo lực, không sợ bị biếm trích. Văn
chương ông như thế nào ? lời thi hào Nguyễn Du khen ngợi và nhắc nhở : kẻ nào là chuột cáo nơi gò
cỏ thu mộ Âu Dương Tu ? không khéo rồi chúng ta chỉ, là tiều phu, mục đồng
dốt nát không biết tới văn chương tuyệt tác của Âu Dương Tu.
Bia cao năm thước dựng bên đường. Mộ cổ triều Tống có ghi tên họ Âu
Dương. Suốt đời theo đường lối ngay thẳng, không để lại điều gì đáng ân hận.
Nghìn xưa chốn suối vàng còn nức mùi hương. Một gò cỏ thu thành nơi chứa chuột
chồn. Đứng trong hàng tám văn hào lớn lừng tiếng văn chương. Cây tùng cao và cỏ
chỉ mọc ở nơi nào ? Người tiều phu và trẻ mục đồng ca hát dưới chiều tà.
MỘ ÔNG ÂU DƯƠNG VĂN TRUNG
Năm thước mộ bia dựng cạnh đường,
Ghi tên Triều Tống, mộ Âu
Dương.
Suốt đời ngay thẳng không ân hận,
Chốn suối vàng thu nức mãi
hương.
Một nấm cỏ thu nơi chuột cáo,
Tám văn hào lớn tiếng văn
chương.
Tùng cao, cỏ chỉ nơi nào nhỉ ?
Mục đồng, tiều hát dưới tà
dương.
Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
ÂU DƯƠNG VĂN TRUNG CÔNG MỘ
Ngũ xích phong bi lập đạo bàng,
Tống triều cổ mộ ký Âu Dương,
Bình sinh trực đạo vô di hám,
Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu
hương.
Thu thảo nhất khâu tàng thử hạc,
Danh gia bát đại thiện văn
chương,
Trường tùng chỉ thảo sinh hà xứ ?
Tiều mục ca ngâm quá tịch
dương.
Âu Dương Tu (1007-1072) tên tự là Vĩnh Thúc, hiệu Túy Ông. Quê Lư Lăng,
tỉnh Giang Tây. Nhà nghèo, mồ côi cha, nhờ mẹ dạy, khắc khổ học tập. Năm 1030, 24 tuổi đỗ đầu Tiến sĩ. Giữ chức
quan Hàn Lâm học sĩ, Xu Mật Viện Phó sứ, Tham tri Chính sự. Dưới thời vua Tống
Thần Tông giữ chức Binh Bộ Thượng Thư. Tính tình trung trực, làm quan không được lòng
bọn quyền quí, nhiều lần bị giáng chức, vẫn hết lòng can vua đừng ruồng bỏ người
hiền tài. Khi mất được đặt tên thụy là Văn Trung. Là nhà văn lớn nổi tiếng, nhà
thơ lớn, nhà Sử học, Chính trị gia, nhà làm từ xuất sắc. Khởi xướng cách tân
văn học, chống lại những trường phái thơ văn hình thức, ủy mị đương thời. Chủ
trương văn chương phải Minh Đạo (sáng lẽ đạo) và Trí Dụng (thiết thực). Ông
khai sáng thể loại thơ Thi thoại, bình luận ghi chép các cuộc luận bàn các thi
nhân. Cuốn Lục Nhất Thi thoại là quyển
thi thoại đầu tiên với các bài nổi tiếng :
Thu Thanh Phú, Túy Ông đình ký, Mai Thánh Du thi tập tự, Bằng đảng luận.
Có nhiều thành tựu trong tản văn, thơ, từ, Âu Dương Tu được tôn là Hàn Phi đương thời và có nhiều ảnh hưởng đến văn học
đời Tống.
Âu Dương Tu tự xưng là Lục Nhất Cư sĩ (6 cái một) : Một vạn quyển
sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bầu rượu, một thân già. Âu Dương Tu
là người chấm thi Tiến sĩ lấy đỗ TôThức tức
Tô Đông Pha.
Tác phẩm sử học nổi tiếng của ông còn có : Tân Đường Thư, Tân Ngũ Đại Sử. là hai trong số
Nhị Thập Tứ Sử, 24 bộ sử hàng đầu Trung Quốc.
Thơ Âu Dương Tu nhẹ nhàng sâu lắng, thâm trầm, tinh tế, ta thử đọc vài
bài thơ tiêu biểu của ông được đánh giá là tuyệt tác trong văn học Trung Quốc.
Bài Điệp Luyến Hoa, Hoa nhớ bướm, tả tâm trạng người khuê phụ trông chồng đi
xa :
Ngồi trong khuê phòng, trong
đình viện vắng chàng nên thấy sâu thăm
thẳm. Nhìn cây dương liễu mông lung sương khói mờ. Từ lầu cao nhìn ra phố xá
trướng rèm nhiều không đếm nỗi . Người đi như trẩy hội cỡi ngựa mang hàm ngọc,
yên vàng. Riêng nàng không thấy nẽo Chương Đài nơi, nơi trường đình bẻ cành liễu phất vẫy tiễn chàng đi . (Kiều : Ai về nhắn liễu
Chương Đài, cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay). Cuối tháng ba mưa dầm gió mạnh.
Khép cánh cửa chiều hoàng hôn, không có cách gì lưu lại nổi mùa xuân. Mắt lệ nhớ
chàng hỏi hoa, hoa chẳng nói. Những cánh hoa đào rơi rụng tung bay hơn cả lá
vàng mùa thu.
Xao xác gió đưa cánh hoa phất vào mặt. Sương khói lên dày cây liễu
xanh. Tuyết nhẹ bay phơ phất. Mưa ngớt hơi sương chưa thấm lạnh. Sầu xuân muốn
uống rượu cho quên cơn buồn. Bên gối bức bình phong vẽ núi non che sóng biếc.
Thắp ngọn đèn hoa, khoác áo lạnh lông chim thúy vũ. Đêm dài ngồi trông ngóng. Lặng
lẽ ngồi lên vén bức màn gấm. Đầu ngọn hoa lê thấy vầng trăng sáng.
Ai bảo khi nhàn rỗi không còn tình yêu ? Mỗi độ xuân sang, mỗi tối
bên hoa, chuốc chén rượu buồn. Soi gương thấy mình nhan sắc trông vàng võ. Xanh
mịt bờ đê liễu rũ tơ. Muốn hỏi cơn sầu về có nhớ chuyện cũ năm năm đó. Đứng trước
cây cầu nhỏ một mình cô đơn trước gió, nhìn trăng treo rừng thẳm thầm hỏi :
người yêu giờ nơi đâu ?
Mấy độ mây bay biền biệt, quên bay về.
Chẳng biết mùa xuân tàn vội. Sau khi khí hàn thực tới, trăm cỏ ngàn hoa
nở rộ. Nhà ai vẫn ngóng đợi mùa xuân. Ứa lệ tựa hiên lầu tự hỏi. Đôi én bay về phải
chăng là báo hiệu ngày gặp nhau. Bối rối
lòng xuân, buồn như liễu rũ sầu. Nơi nào trong mộng để tìm thấy nhau ?
Gái Việt hái sen bên bờ sông thu. Tay áo nhẹ nhàng bay, đôi xuyến vàng ẩn
lộ trong sương mù. Bóng hoa in bóng nước lồng bóng dung nhan, Lòng nhụy hoa
cùng tơ cuốn sen bối rối như lòng. Khe đỏ nơi dầu thác chiều sóng gió. Sương nặng,
khói nhẹ. Không thấy bạn tới. Nghe thấp thoáng tiếng ca khách chèo từ xa. Nhớ nỗi
buồn ly biệt ở phía Nam sông.
Từ họa các (phòng vẽ) tới lui, mùa xuân lại hết. Đôi én cùng bay đi, liễu
rũ, đào rụng phai tàn. Mưa nhỏ đầy trời và gió đầy viện. Mi sầu mùa thu không
ai thấy. Một mình đứng tựa lan can, lòng như náo loạn. Cỏ thơm tốt tươi, lòng
đau đáu nhớ tới bờ sông Nam, (sông Nam tượng trưng cho quê hương do bài thơ Dữu
Tín). Trăng gió vô tình, người thay đổi. Cuộc chơi xưa (với chàng) như giấc mộng,
chỉ còn lại ruột gan như đứt lìa.
ĐIỆP LUYẾN HOA
Bài I
Đình viện sâu sâu, sâu biết mấy,
Dương liễu khói mờ,
Trướng rèm không đếm nổi,
Hàm ngọc, yên vàng trẩy hội
mơ.
Lầu cao nào thấy nẽo Chương
Đài,
Cuối tháng ba mưa gió cuồng
xô.
Khép cửa hoàng hôn,
Chẳng níu nổi xuân tàn,
Mắt lệ hỏi hoa hoa chẳng nói,
Cánh hồng rơi rụng tựa thu
sang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
ĐIỆP LUYẾN HOA
Kỳ 1
Đình viện thân thâm thâm kỷ hử ?
Dương liễu đôi yên,
Liêm mạc vô trùng sổ.
Ngọc lạc
điêu an dã xứ,
Lâu
cao bất kiến Chương Đài lộ.
Vũ hoạch
phong cường tam nguyệt mộ,
Môn yểm
hoàng hôn,
Vô kế
lưu xuân trú.
Lệ
nhãn vấn hoa, hoa bất ngữ,
Loạn hồng
phi quá thu thiên khứ.
Bài 2
Gió đưa
rơi rụng, mặt hoa bay,
Liễu
xanh sương khói dày,
Tuyết
nhẹ rơi phơ phất,
Mưa dứt
hơi sương thấm lạnh thay !
Sầu
xuân bệnh rượu cơn buồn đến,
Bên gối,
núi bình phong che sóng cao.
Đèn
hoa, áo thúy,
Đêm
dài trông ngóng,
Lặng lẽ
ngồi lên vén trướng đào,
Đầu ngọn
hoa lê trăng sáng treo.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ 2
Diện
toàn lạc hoa phong đãng dạng,
Liễu
trùng yên thâm,
Tuyết
nhứ phi lai vãng,
Vũ hậu
kinh hàn do vị phóng,
Xuân sầu
tửu bệnh thành trú trướng,
Chẩm bạn
bình sơn vi bích lãng.
Thúy bị
hoa đăng,
Dạ dạ
không tương hướng,
Tịch mịch
khởi lai khiên tú hoảng,
Nguyêt
minh chinh tại lê hoa thượng.
Bái 3
Tình
yêu sao
bỏ khi nhàn rỗi,
Mỗi độ
xuân sang,
Nỗi buồn
còn đó,
Mỗi tối
bên hoa chung rượu buồn.
Soi
gương nhan sắc trông vàng võ,
Xanh
mượt bờ đê liễu rũ tơ,
Muốn hỏi
sầu về,
Chuyện
cũ năm năm đó,
Cầu nhỏ
một mình trơ trước gió.
Trăng
treo rừng thẳm người đâu hở ?
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ 3
Thùy đạo
nhàn tình phao khí cửu ?
Mỗi
đáo xuân lai,
Trù
trướng hoàn y cựu,
Nhật
nhật hoa tiền thương bệnh tửu.
Bất từ
cảnh lý chu nhan sấu.
Hà bạn
thanh vu đêthượng liễu,
Vị vấn
tân sầu,
Hà sự
niên niên hữu,
Độc lập
tiểu kiều phong mãn tụ.
Bình
lâm tân nguyệt nhân quy hậu.
Bài 4:
Mấy độ
mây bay biền biệt mãi.
Quên
lãng bay về,
Chẳng
biết xuân tàn vội,
Trăm cỏ
ngàn hoa tiết lạnh tới.
Nhà ai
còn ngóng đợi xuân xa ?
Ứa lệ
tựa hiên lầu tự hỏi ?
Đôi én
bay về,
Có
chăng cùng tương hội,
Bối rối
lòng xuân liễu rũ sầu.
Gặp
nhau trong mộng, biết tìm đâu ?
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
Kỳ 4:
Kỳ nhật
hành vân hà xứ khứ ?
Vong
khước quy lai,
Bất đạo
xuân tương mộ.
Bách
thảo thiên hoa hàn thực lộ.
Xuân
xa hệ tại thùy gia thụ ?
Lệ
nhãn ỷ lâu tán độc ngũ,
Song yến
lai thì,
Mạch
thượng tương phùng nhủ.
Liêu
loạn xuân sầu như liễu nhứ.
Y y mộng lý vô tâm xứ ?
Bài 5
Hồ thu, gái Việt hái hoa sen,
Tay áo nhẹ nhàng,
Sương lộ đôi vòng xuyến.
Bóng
nước dung nhan lồng bóng hoa !
Lòng
nhụy, tơ sen cùng rối bời,
Thác đầu
Khe Đỏ chiều sóng gió.
Sương
nặng khói nhẹ,
Thời
chẳng thấy bạn tới.
Thấp
thoáng chèo ai vọng tiếng ca.
Nỗi buồn
ly biệt sông Nam nhớ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ 5
Việt nữ
thái liên thu thủy bạn,
Trách
tụ khinh la,
Ám lộ
song kim xuyến.
Chiếu ảnh
trích hoa họa tự diện,
Phương
tâm chỉ long ty tranh loạn,
Khê
xích than đầu phong lãng vãn.
Vụ trọng yên khinh,
Bất kiến
lai thời bạn,
Ẩn ẩn
cao thanh quy trạo viễn,
Ly sầu
dẫn trước Giang Nam ngạn.
Cựu du
như mộng không trường đoạn.
Bài 6
Gác vẽ
đi về xuân đã qua,
Đôi én
đồng bay,
Đào
phai tàn, liễu rũ,
Mưa nhỏ
đầy trời, gió đầy viện,
Mi sầu
thu lại không ai thấy,
Mình tựa
lan can lòng rối bời,
Cỏ
thơm xanh mướt,
Vẫn nhớ
tới bờ sông Nam,
Trăng
gió vô tình, người thay đổi,
Cuộc
chơi xưa như mộng, ruột tơi bời.
bản dịch Nhất Uyên
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
Kỳ 6
Họa
các quy lai xuân hựu vãn,
Yến tử
song phi,
Liễu
nhuyến đào hoa thiển.
Tế vũ
mãn thiên, phong mãn viện.
Sầu mi
liễm tận vô nhân kiến,
Độc ỷ
lan can tâm tự loạn,
Phương
thảo thiên miên,
Thượng
ức Giang Nam ngạn,
Phong
nguyệt vô tình nhân ám hoán.
Cựu du
như mộng không trường đoạn.
Bài THANH THU PHÚ, bài phú Tiếng Thu được xem
là một kiệt tác của Âu Dương Tu, trong văn học Trung Quốc :
BÀI PHÚ TIẾNG MÙA THU
Âu
Dương Tử đang đêm đọc sách. Nghe thanh âm từ hướng Tây Nam. Bổng cả kinh mà nói
rằng: Mới nghe thưa thớt rì rào lan xa, bỗng dưng kinh động phong ba. Lại như
mưa gió đổ sa ầm ầm. Va vào mọi vật trên đường, nghe như tiếng sắt tiếng vàng
chen nhau. Lại như tiếng quân đi chống địch, miệng ngậm tăm im tiếng mà đi. Chẳng
nghe thấy hiệu lệnh gì, tiếng người tiếng ngựa quân đi rầm rầm.
Bảo đồng
tử: Tiếng gì như thế ? Hãy ra sân mà thử xem sao ?
Đồng tử
thưa : Trăng sao sáng tỏ. Dòng sông Ngân
rực rỡ trên cao. Ban đêm chẳng có người nào. Chắc là tiếng ấy ở vào khóm cây.
Ta rằng
: Ôi hỡi ! thương thay ! Đó là tiếng thu về rồi đó. Thu mênh mang đã về nhanh
thế !
Vẻ thu
bao trùm, sắc thu ảm đạm, khói thu tản mát, mây thu tụ hội. Thu không trong trẻo,
một trời dịu dàng. Khí thu run rẩy châm tràn thịt da. Ý thu tiêu điều, núi sông
tịch liêu.
Tiếng
thu là thế, thảm thiết thê lương, réo gào giận giữ. Cỏ xanh đang mơn mởn um
tùm. Cây đang xanh ngát trông thích mắt. Chỉ trông phút chốc, thu lướt qua cỏ
liền đổi sắc, cây liền xơ xác. Làm cho tàn tạ, rơi rụng là thu. Khí thu cùng khắp,
bạo lực có thừa.
Ôi mùa
thu như hình bóng vậy ! Thu theo mùa thuộc về âm. Thu theo hành thuộc về kim.
Thu kéo về như thể đoàn quân.
Thế mới
nói: Nghĩa khí đất trời lấy tiêu sát làm tâm. Vạn vật trên đời, xuân đến sinh
sôi, thu về trái chín.
Ôi mùa
thu như là nhạc vậy : Thu là cung thương, chủ âm ở Tây, Di làmđiệu nhạc, vận
vào tháng Bảy. Âm thương là thương tổn vậy. Điệu Di là diệt đi thôi. Vật quá
già thì bi thương đến. Vật đã quá thịnh phải chịu tàn suy.
Ô hô !
Thảo mộc vô tình đến mùa thu thi tiêu điều ! Người ta là động vật duy nhất linh
thiêng, trăm lo trăm lắng, xúc động trong tâm. Muôn việc làm cho thân hình tiều
tụy. Động chínhtrong lòng, tinh thần xao xuyến. Huống hồ, lực bất tòng tâm, trí
lo chẳng đủ.
Nên
như: Cây khô còn vẻ son hồng,tóc đen đà điểm bạc.
Hơn thế
nữa: Chẳng phải là thân vàng đá. Sao muốn cùng cây cỏ tranh hơn. Nghĩ xem ai
làm hại mình. Làm sao còn hận tiếng thu.
Đồng Tử
chẳng lời, gục đầu mà ngủ. Những nghe bốn phía tiếng côn trùng rỉ rả, hùa theo
nỗi lòng than thở của ta.
Nguyên văn phiên âm Hán Việt:
THU THANH PHÚ
Âu
Dương Tử phương dạ độc thư. Văn hữu thanh tự Tây Nam lai giả. Túng nhiên thính
chi viết:
Dị tai
! Sơ tích lịch dĩ tiêu táp, hốt bôn đằng
nhi phanh vi, như ba đào dạ kinh, phong vũ sâu chí, kỳ xúc ư vật dã, thung
thung tranh tranh, kim thiết giai minh, hựu như phó địch chi binh, hàm mai tật
tẩu, bất văn hiệu lệnh, đãn văn nhân mã chi hành thanh.
Dư vị
đồng tử:
Thử hà
thanh dã ? nhữ xuất thị chi ?
Đồng tử
viết:
Tinh
nguyệt hiệu khiết, minh hà tại thiên, tứ vô nhân thanh, thanh tại thụ gian.
Dư viết :
Y hy ! Bi tai ! Thử thu thanh dã, hồ vi hồ lai
tai ! Cái phu thu chi vi trạng dã,
kỳ sắc thảm đạm, yên phi vân liễm, kỳ dung thanh minh, thiên cao nhật tinh, kỳ
khí lật liệt, biêm nhân cơ cốt, kỳ ý tiêu điều, sơn xuyên tịch liêu. Cố vi
thanh dã, thê thê thiết thiết, hô hiệu phấn phát, phong thảo lục nhục nhi tranh
mậu, giai mộc thông lung nhi khả duyệt, thảo phất chi nhi sắc biến, một tao chi
nhi diệp thoát, kỳ sỡ dĩ tồi bại linh lạc giả, mãi nhất khí chi dư liệt.
Phù thu hình quan dã, ư thì vi
âm, hủ binh tượng dã, ư hành vi kim. Thị vị thiên địa chi nghĩa khí, thường di
túc sát nhi vi tâm. Thiên chí sinh vật,
xuân sinh thu thực, cố kỳ tại lạc dã, thương thanh chủ tây phương chi âm, di tắc
vi thấy nguyệt chi luật. Thương thương dã, vật ký lão nhi bi thương, di lục dã,
vật quá thịnh nhi đương sát.
Ta phù ! Thảo mộc vô
tình, hữu thì phiêu linh, nhân vi động vật, duy vật chi linh. Bách ưu cảm kỳ
tâm, vạn sự lao kỳ hình, hữu động hồ trung, tất dao kỳ tinh, nhi hướng tư kỳ lực,
chi sở bất cập, ưu kỳ trí sở bất năng,
nghi kỳ ác nhiên đan giả vi cảo mộc, y nhiên hắc giả vi tinh tinh. Nại hà phi
kim thạch chi chất, dục dũ thảo mộc như
tranh vinh ! Niệm thùy vi chi tường
tặc, diệc hà hận hồ thu thanh !
Đồng tử mạc đối, thay đầu nhi
thụy, đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức, như trợ dư chi thán túc.
Bài Xuân Nhật Tây Hồ Ký viết ở Hàng Châu,gửi ông Pháp Tào họ Tạ. Uống
rượu mà gặp bạn hiểu mình thì ngàn chén cũng còn ít. Nói chuyện mà không hợp
nhau thì nói nửa câu cũng thấy nhiều. Mới biết bên hồ nâng chén rượu. Sẽ nhớ đến
người đi vạn dậm nơi chân trời xa.
BÀI KÝ NGẢY XUÂN TÂY HỒ
Ngàn chung tri kỷ vẫn chưa vừa,
Nói nửa câu thừa kẻ chẳng ưa.
Mới biết bên hồ nâng chén rượu,
Vạn dậm chân trời nhớ bạn xưa.
bản dịch Nhất Uyên
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
XUÂN NHẬT TÂY HỒ
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiếu,
Thoại bát đầu cơ bán cú đa.
Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
Năng ức thiên nhai vạn lý nhân.
Bài ĐẠP SA HÀNH. Âu Dương Tu viết : Nơi quán nghỉ, hoa mai đã tàn. Cầu bên khe suối
lá liễu lăn tăn. Cỏ thơm gió thổi, cương ngựa ruổi dong. Nỗi buồn chia ly càng
xa càng không biết là vô cùng. Chảy dài không dứt như dòng nước mùa xuân. Từng
tất ruột mềm, rưng rưng tràn đầy nước mắt. Lầu cao chớ ra đứng tựa lan can. Tầm
mắt nhìn xa tít, đó là núi xuân. Người đi ở ngoài núi xuân đó.
ĐẠP SA HẢNH
Mai tàn quán khách,
Liễu rũ suối cầu.
Gió thoảng cỏ thơm, cương ngựa
ruỗi rong mau.
Nỗi buồn ly biệt sầu vương nặng.
Cuồn cuộn dòng xuân nước chảy
tràn.
Tấc dạ bâng khuâng,
Rưng rưng giọt lệ.
Lầu cao chớ tựa hiên xa ngóng,
Núi xuân xa tít tận trời xa,
Bên kia núi biếc bóng người
qua.
Bản dịch Nhất Uyên
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
ĐẠP SA HÀNH
Hậu quán mai tàn,
Khê kiều liễu tế.
Thảo huân phong noãn dao chinh
bí,
Ly sầu tiệm viễn tiệm vô cùng.
Điều điều bất đoạn như xuân thủy,
Thốn thốn như trường,
Doanh doanh phấn lệ,
Lâu cao mạc cận nguy lan ỷ,
Bình vu tận xứ thị xuân san,
Hành nhân cánh tại xuân san
ngoại.
THÁI TANG TỬ gồm bốn bài thơ Âu
Dương Tu viết tại Tây Hồ ở Hàng Châu. Bài thơ những nét chấm phá tuyệt bút như
bức tranh thủy mặc :
Qua mùa hoa nở cảnh Tây Hồ thật đẹp, cánh đào hồng rụng rơi rắc đầy, lất
phất tơ bay. Liễu rũ ngoài hiên gió lay động suốt ngày. Cuộc ca hát đã tàn, người
chơi xuân đã về. Xuân vắng mới hay, khi rèm buông xuống. Cóđôi chim én bay về
trong mưa rơi.
Giữa mùa xuân mưa tạnh cảnh Tây Hồ thật đẹp. Trăm hoa đua màu sắc, bướm bay loạn, ong ồn ào. Trời ấm trong sáng dục muôn hoa nở.
Chèo lan uyển chuyển thuyền dần xa khuất. Ngỡ là cảnh thần tiên. Ánh sáng nhấp
nhô trên làn sóng. Hồ rộng gió lộng, văng vẳng tiếng sáo ai.
Thuyền xinh chèo nhẹ, cảnh Tây Hồ thật đẹp. Nước biếc nhấp nhô. Cỏ mượt
trên đê dài, (Hồ Tây có hai con đê, đê Bạch do nhà thơ Bạch Cư Dị lúc làm Thứ sử
Hàng Châu cho xây đắp bao quanh hồ vàđê Tô do nhà thơ TôĐông Pha, lúc làm Thứ sử
cho nạo vét hồ, đắp băng ngang từ chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà Thượng
từng tu hành đến Miếu Nhạc Phi, nơi Nguyễn Du viết 5 bài thơ) Ẩn hiện theo thuyền
tiếng sáo ai. Gió yên nước phẳng lì như ngọc lưu ly. Chẳng nghĩ đến thuyền đi, sóng gợn lăn tăn. Kinh sợ,
chim trời trên bãi cát vụt thoát bay.
Ngồi thuyềnuống rượu trên Tây Hồ thật tuyệt. Kèn sáo vui vầy . Tay chuyền
cho nhau chén rượu ngọc. Hết lắc sóng im
thuyền như ngủ say. Dưới đáy nước mây trôi qua, con thuyền như lướt bóng. Trời
nước thật trong, trên trời dưới nước như lưu thông với nhau. Cứ ngỡ giữa hồ, có một trời
khác riêng dành cho ta.
THÁI TANG TỬ
Bài I
Mùa xuân hoa nở đẹp Tây Hồ,
Cánh hồng rơi rắc,
Lất phất bay tơ,
Liễu rũ ngoài hiên, ngày gió lộng.
Sênh ca tàn cuộc, khách chơi
đi.
Xuân vắng mới hay,
Rèm the buông xuống,
Đôi én
bay về trong mưa rơi.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
THÁI TANG TỬ
Kỳ 1
Quần
phương quá hậu Tây Hồ hảo,
Lang tịch
tàn hồng,
Phi nhứ
mông lung,
Thùy
liễu lan can tân nhật phong.
Sinh
ca tán tận du nhân khứ,
Thủy
giác xuân không,
Thùy hạ
liêm lung,
Song yến
quy lai tế vũ trung.
Bài 2
Mùa
xuân mưa tạnh đẹp Tây Hồ,
Trăm
hoa đua sắc,
Bướm
lượn, ong vi vo.
Trời
trong ấm dục muôn hoa nở.
Chèo
lan nhẹ lướt bóng thuyền trôi.
Ngỡ cảnh
thiên thai.
Soi
trên sóng nhẹ,
Gió lộng
hồ xa tiếng sáo ai ?
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ 2
Xuân
thâm vũ quá Tây Hồ hảo,
Bách
hoa tranh nghiên,
Điệp
loạn phong huyên,
Tình
nhật thôi hoa noãn dục nhiên.
Lan kiêu họa khả du du xứ,
Nghi thị thần tiên,
Phản chiếu ba gian,
Thủy khoát phong cao tương quản
huyền.
Bài 3
Thuyền nhẹ chèo lan đẹp Tây Hồ,
Nước biếc nhấp nhô,
Đê dài cỏ mượt,
Ẩn hiện theo thuyền tiếng hát
mơ.
Gió yên nước lặng tựa lưu ly,
Chẳng biết thuyền lay,
Lăn tăn sóng gợn,
Kinh sợ chim trời vụt cánh
bay.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
Kỳ 3
Khinh chu đoản trạo Tây Hồ hảo,
Lục thủy uy dĩ,
Phương thảo trường đê,
Ẩn ẩn sinh ca xứ xứ tùy,
Vô
phong thủy diện lưu ly hoạt,
Bấc
giác thuyền di,
Vi động
liên y,
Kính khởi sa cầm lượt ngan
phi.
Bài 4
Ngồi thuyền uống rượu thú Hồ
Tây,
Kèn sáo vui vầy,
Trao chuyền chén ngọc.
Sóng lặng
thuyền êm êm ngủ say.
Đáy nước
mây trôi thuyền lướt bóng.
Trời
nước trong thay
Soi
bóng tỏ bày,
Cứ ngỡ
hồ riêng, trời nước mây.
Bản dịch Nhất Uyên
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ 4
Họa
thuyền tái tửu Tây Hồ hảo,
Cấp quản
phồn huyên,
Ngọc
trản thôi truyền,
Ổn phiếm
bình ba nhiệm túy miên,
Hành
vân khước tại hành chu hạ,
Không
thủy trừng tiên,
Phủ
ngưỡng lưu liên,
Nghi
thị hồ trung biệt hữu thiên.
Bài TỲ BÀ ĐÌNH, Âu Dương Tu qua bến Tầm Dương
nơi có Tỳ Bà Đình nơi thi hào Bạch Cư Dị,
đời Đường, từng bị biếm trích ra đây, ông viết bài Tỳ Bà Hành, một áng thơ tuyệt
tác: Lạc Thiên Bạch Cư Dị từng bị biếm trích ở ven sông. Chỉ biết than thở với
trời lệ ướt thắm khăn. Qua đây mới biết mình có trọng tội hơn cả Bạch Cư Dị, bị
biếm trích đến Di Lăng, nơi hẻo lánh tỉnh
Hà Bắc cách xa nơi biếm trích Bạch Cư Dị
đến ba nghìn dậm (gần 1500km).
Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ năm 800, làm quan chức Tả
Thập Di. Do việc hạch tội việc Tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích, Ngự sử
Bùi Độ bị hành hung, ông bị bọn gian thần đầy làm Tư Mã Giang Châu. Năm 822-824
làm thứ sử Hàng Châu, năm 825-826 làm thứ sử Tô Châu. Sau được triệu về kinh
làm Thái tử Thiếu Phó, năm 842 về hưu hàm Thượng thư bộ Hình, mất ở Lạc Dương.
(Nguyễn Du có bài Bùi Tấn công mộ, viết về Bùi Độ, từng làm Tể tướng 30 năm khi
qua thăm Chiêu Lăng ở Trường An trong thời
trẻđi giang hồ Trung Quốc 1787-1790.)
TỲ BÀ ĐÌNH
Lạc Thiên
từng biếm trích ven sông,
Than
thở với trời lệ thắm khăn.
Nay mới
biết mình vì tội lớn,
Thêm
ba nghìn dậm trích Di Lăng.
Bàn dịch thơ Nhất Uyên
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TỲ BÀ ĐÌNH
Lạc
Thiên tằng trích thử giang biên,
Dĩ
thán thiên nhai thế huyễn thiên.
Kim nhật
thủy tri dư tội đại,
Di
Lăng thử khứ cách tam thiên.
Xã hội Trung Quốc đã có những nhà cải cách
chính trị xuất sắc, từ Tô Tần, Khuất Nguyên, Quản Trọng thời Chiến Quốc đến Giả
Nghị thời Hán. Đời Đường có Bùi Độ, Bạch Cư Dị. Đời Tống có Phạm Trọng Yêm, Âu
Dương Tu, Vương An Thạch. Nhưng lý do gì,
các nhà cải cách thường bị biếm trích, đi đày. Các nhà cải cách Trung Quốc
không tạo dựng được các cơ cấu nền tảng dân chủ dài lâu làm cho xã hội tiến bộ:
như Angora, Lycée, Sénat, Accadémie... của Hy Lạp thời Cổ đại, đến Đại Học, Viện Nghiên Cứu, Tự Do Báo Chí,
Đối lập Xây dựng Tây Phương. Xã hội Trung Quốc dậm chân một chỗ suốt ba ngàn
năm. Xã hội Trung Quốc là một cuộc đấu tranh thường trực giữa trung thần và nịnh
thần. Giữa người cải cách và người thủ cựu. Gặp vua hiền, tôi sáng thì nước thịnh,
gặp vua u tối kẻ nịnh làm loạn thì suy vong, do đó hết tan rồi hợp, thịnh vượng rồi tàn suy
không lâu dài, hết độc tài này đến độc
tài khác. Lý do gì mà Nhật Bản với Minh Trị Thiên Hoàng đã thành công, với một
giai cấp Samourai ủng hộ, từ bỏ cung kiếm lao vào kinh doanh công thương nghiệp,
học thuật nhanh chóng đưa nước Nhật một xứ sở đất không rộng không có nhiều tài
nguyên thành một cường quốc kinh tế. Nước ta, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ
chỉ mới là bản Điều Trần, với Phan Chu
Trinh: Cải cách dân chủ, Nâng cao dân trí, Chấn hưng công thương nghiệp, Khai
dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh, cải
cách Phan Chu Trinh chỉ ở dạng thử nghiệm trong một vài nơi chưa bao giờ là tư
tưởng chủ đạo của đất nước. Ngày nay nước ta trông chờ gì ở những nhà cải cách và sức mạnh thủ cựu? Nước ta có một
bản điều trần nào, có một kế hoạch nào để làm nên sự hưng thịnh đất nước, hay
trôi nổi theo dòng thời cuộc, nhắm mắt đi theo con đường mà chẳng biết đi về đâu
? hay trông đợi tìm ra “Người cỡi ngựa” ?
Đọc văn học Trung Quốc, chúng ta trân trọng những
nhà cải cách Trung Quốc, tấm lòng cương trực ngay thẳng không lùi bước trước việc
lưu dày, biếm trích trong hoàn cảnh nào cũng “Lo trước cái lo của thiên hạ, và
vui sau cái vui của thiên hạ “ của Phạm Trọng Yêm. Cụ Hồ cũng không dặn dò gì
hơn là lập lại câu nói của Phạm Trọng Yêm và Quản Trọng. Ngày nay đem xử tội,
tù đày những người nhiệt huyết “Lo trước cái lo thiên hạ và vui sau cái vui
thiên hạ”. Điều quan trọng không phải là trấn áp những người nhiệt huyết, mà
xây dựng những cơ cấu dân chủ, làm nền tảng lâu dài cho việc lo trước cái lo của
thiên hạ. Lo trước cái lo thiên hạ không phải làm một trọng tội, mà chuyện bình
thường, là bổn phận của người trí thức, của Kẻ Sĩ trước sự hưng vong của đất nước:
Lo nhân dân mất niềm tin, lo xã hội không còn đạo đức, lo những con chuột đục
khoét tài nguyên, tài sản quốc gia, lo những con cáo lường gạt nhân dân, lo cho
biển đảo bị lấn chiếm, lo cho những ngư dân không còn đánh cá được trên biển của
mình, lo cho nguồn hải sản bị tiêu diệt, lo cho tương lai tàu bè máy bay muốn
đi ra biển mình phải xin phép, lo cho dân trí quan trí còn thấp kém, lo cho đồng
bằng bị nước mặn lấn chiếm sẽ mất đi 1/5 lãnh thổ, lo cho nhân dân ruộng lúa sẽ không đủ ăn, lo cho công nghiệp còn yếu kém,
lo cho nhân dân mỗi khi bệnh tật là sạt nghiệp, phải đút lót từ ngoài cổng đến
phòng bệnh. Bao nhiêu là mối lo, có thể nào để mối lo ấy trên vài nhân vật
chính trị, tổ chức đảng ? Làm chính trị không phải là lo hết mọi việc, thâu tóm
quyền lực vào cho mình cho bè đảng mình mà phải mở rộng cơ cấu, tự do dân chủ để
mọi người cùng lo mưu cầu hạnh phúc. Chính trị tại các nước tiên tiến nhẹ nhàng
vì họ chỉ là người điều hợp, phân phối nơi thừa qua nơi thiếu, thiết lập đạo luận,
kích thích kinh tế tăng trưởng, soạn thảo và theo dõi và điều hành những kế hoạch. Cái đáng sợ của
một đất nước là ngày nào mọi người dân đều thờ ơ với đất nước, xã hội không còn
đạo lý, không còn lý tưởng : cha mẹ bán con gái làm nô lệ tình dục xứ người chỉ
vì 5 000 đô la, người giàu có, tài
năng tìm cách bỏ đi ra nước khác sinh sống. Nước non ai muốn buôn bán gì, ai chết
thây kệ, chẳng quan hệ gì đến mình !
Làm người lãnh đạo, được người phê phán chỉ trích nên mừng vì đất nước
có những người biết “lo trước cái lo của thiên hạ”, nên lắng nghe và biết cái
sai của mình để sửa đổi. Chuyện Trung Quốc có ai thô lỗ dốt nát hơn anh hào trưởng
Lưu Bang? giật cả
giải mũ đội đầu của nho sĩ và đái lên: “Ta ngồi lưng ngựa mà được cả
thiên hạ, há cần đến bọn nho sĩ”, nhưng khi nghe lời phải mọi việc đều biết phục
thiện nên thành công lập nên nhà Hán cai trị 400 năm. Có ai mạnh bạo, đánh giặc
giỏi hơn Hạng Võ, nhưng ỷ sức mình, quân lực mình không biết nghe lời ai, chỉ
tiếng sáo Trương Lương đội quân cả triệu người bỏ trốn, cùng đường trước
sông Ô Giang chỉ còn biết tự vẫn.
Đọc thơ Thi hào Nguyễn Du trước mộ Âu Dương Tu,
nhắc nhở chúng ta có những con chuột, con cáo ẩn nấp trên ngôi mộ. Những con
chuột tham nhũng to lớn, vẫn đục khoét xã hội Trung Quốc, những con cáo làm
hàng giả để trục lợi, bỏ cả chất mélamin độc hại trong sữa cho trẻ em cho sữa đặc
giống như sữa các nước Tây Phương, những chất độc trong cả thịt con heo, trong
rau trái ăn mỗi ngày khiến cho người Trung Quốc chỉ tin tưởng sữa và thịt sản
xuất ở Âu Mỹ... Những con cáo, con chuột
ấy không chỉ ở Trung Quốc mà tràn lan qua cả nước ta.
Paris, 4-10-2016
PHẠM TRỌNG CHÁNH*Tiến sĩ
Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét