Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016
Trần Thảo: TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN / THƠ THANH TỊNH
Niên khóa 1970 - 1971 tôi vào học lớp đệ thất, là lớp sáu bây giờ, của trường trung học công lập Trần Quốc Tuấn của tỉnh Quảng Ngãi. Với tuổi đời vừa qua mười hai, tôi cũng như hầu hết những học sinh khác thời đó, vừa nôn nao, vừa hồi họp khi bản thân mình sắp bước qua một giai đoạn mới mẻ trong cuộc đời học sinh của mình. Tôi nhớ người thầy dạy chúng tôi Kim Văn và Cổ Văn trong niên học ấy chính là Thầy Trương Quang Lục. Thầy Lục dáng người cao lớn, giọng giảng bài trầm ấm, khá thu hút chúng tôi, những học sinh vừa từ giả môn văn với những bài luận tả con mèo, con chó của bậc tiểu học, để đón nhận những cảm quan tinh tế hơn về Cổ Văn và Kim Văn. Tôi rất thích Văn Học, nên thường say mê nghe Thầy Lục giảng những truyện thơ như Bích Câu Kỳ Ngộ, tả mối tình thật thơ mộng đầy tính cách huyền thoại của Tú Uyên và Giáng Kiều. Trong giờ Kim Văn, chúng tôi được học về những nhà văn, nhà thơ cận đại như Thanh Tịnh, Bàng Bá Lân, Anh Thơ v.v. Dĩ nhiên với tâm hồn non nớt của chúng tôi, những cậu bé lớp đệ thất, thì chương trình văn học không đòi hỏi phải đào sâu vào những tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ. Trong những tác giả Kim Văn, người đã đem lại những xúc động dạt dào nhất cho tôi, và tôi tin là cho bất kỳ học sinh nào cũng vậy, là nhà văn, nhà thơ Thanh Tịnh.
Tôi đã không quá đáng khi viết như thế. Bởi vì chỉ với mỗi truyện
ngắn TÔI ĐI HỌC, nhà văn Thanh Tịnh đã khơi dậy cái tình cảm lãng
mạn, đáng yêu biết bao của một thời tuổi nhỏ. TÔI ĐI HỌC, được viết
dưới dạng truyện ngắn, nhưng trong đó có những đoạn đọc lên nghe êm
ái, nhẹ nhàng như những tứ thơ.
"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá
ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc,
lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường."
hay
"Buổi sáng mai hôm
ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi
dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi
lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh
tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn : Hôm nay
tôi đi học."
Nhà Văn Thanh Tịnh không sáng tác nhiều thơ, nhưng những
bài thơ của ông đều để lại trong lòng độc giả ấn tượng rõ nét về
một tâm hồn lãng mạn, yêu quê hương tha thiết. Ông từng đoạt giải nhất
thi ca với bài thơ Rồi Một Ngày, đồng hạng với thi sĩ Phạm Đình
Bách trong cuộc thi thơ do Hà Nội Báo tổ chức vào năm 1936. Những tác
phẩm khác của ông như Quê Mẹ, Ngậm Ngải Tìm Trầm v.v. cũng được độc
giả chú ý và yêu thích.
Sau này, khi tìm hiểu thêm về ông, tôi mới hay ông sinh tại Huế năm 1911.
Vào năm 1945, ông thoát ly gia đình, bỏ lại vợ con để đi theo cách
mạng. Năm 1946, ông từ chiến khu Bình Trị Thiên, tập kết thẳng ra miền
bắc Việt Nam. Quân hàm đầu tiên ông được phong là đại úy, và cuối
cùng trước khi về hưu, ông mang quân hàm đại tá. Ông đã từng là nhân
tố thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam tại Hà Nội.
Điều khiến tôi, cho tới giờ này, luôn giữ lòng yêu mến và kính trọng
ông chính là phong cách quân tử, hào sảng và chân thành với bạn bè.
Đọc những bài viết của khá nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc viết về ông,
tôi nghĩ cái động cơ thôi thúc ông thoát ly gia đình, tập kết ra bắc
chính là lòng yêu nước nồng nàn của một chàng trai đất Việt được
sinh ra trong một giai đoạn nhiễu nhương, muốn quên tình riêng để đáp
lời sông núi, góp sức mình để mong đem vinh quang thực sự về cho nòi
giống. Chính vì yêu nước quá nồng nàn, chẳng riêng ông mà cả một
thế hệ thanh niên thời ấy đã lên đường như trong bài hát Nam Bộ Kháng
Chiến:
"Mùa thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến.
Vùng chân trời đầy hoang vu, muôn dân nam nhịp chân tiến ra trận
tiền..."
Tiếc thay, giòng máu nóng anh hùng hừng hực đó đã bị lợi dụng, bị
bán đứng, bị bịt mắt, để khi biết rõ bộ mặt thật của những tên cai
thầu chính trị cộng sản, thì tất cả đã sa vào cái vòng kim cô,
không thể nào thoát ra được. Đây cũng chính là lý do mà vụ án NHÂN
VĂN GIAI PHẨM bùng nổ ở miền Bắc. Bắt đầu bởi những văn nghệ sĩ
trong quân đội như Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Hữu Loan v.v. Bởi vì
những tài năng văn học đó phải sống và viết theo chỉ thị, không một
chút sáng tạo nào, nên lâu ngày cái xú bắp cần được xả là chuyện
đương nhiên. Và những kết quả mà những văn nghệ sĩ trong vụ NVGP phải
chịu đựng trong nhiều năm trời với sự tra tấn, cô lập, dìm xuồng đã
khiến cho những người muốn tìm hiểu phải kinh sợ. Nhà Văn Thanh Tịnh
không dính vô trong vụ NVGP. Có phải ông hài lòng với sự ưu đãi của
chế độ Hà Nội, và thấy thỏa mãn với công việc làm văn nô cho đảng?
Theo cái nhìn của tôi thì không phải vậy. Ông Thanh Tịnh là người nổi
tiếng hay xuề xòa, hay hài hước nhẹ nhàng với tất cả bạn hữu, đồng
đội từ khi ông còn trong lực lượng vệ quốc quân. Con người chân thành
ấy, tôi nghĩ ông không có ngu để không thấy được cá nhân mình và cả
một thế hệ trai trẻ đã bị lừa bịp, ông chỉ giả dại qua ải, vì ông
không thấy được một tia hy vọng nào trong hoạt động có tính cách bộc
phát của nhóm NVGP. Nhưng ông Thanh Tịnh vẫn giữ được tư cách quân tử
của mình. Những sáng tác của ông sau năm 1945, có thể nói là vô
thưởng vô phạt. Ông không a dua theo đóm ăn tàn như những Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Huy Cận v.v. Những tài năng một thời chói sáng ấy, đã cúi
rạp mình làm văn nô cho đảng, sẵn sàng bán bạn cầu vinh, bốc thơm
những già Hồ, Sóng Hồng, Tố Hữu v.v. lên tận trời xanh. Có ai mà
ngờ một Huy Cận mà viết câu " Đánh Mỹ vui như trẩy hội",
Chế Lan Viên thì "Tổ quốc ta có bao giờ đẹp thế này chăng ?
" và Xuân Diệu với bài thơ sắt máu a dua trong cải cách ruộng đất
nghe sao mà rùng mình.
Ông Thanh Tịnh không tham gia NVGP, nhưng ông luôn lưu tâm giúp đỡ những
bạn văn, thơ bị đảng đày đọa, dở sống dở chết trong vụ án nổi
tiếng này. Điển hình là nhà thơ Phùng Quán, người nổi tiếng với
bài thơ LỜI MẸ DẶN, với hai câu kết "Giấy bút tôi, ai cướp giật
đi. Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá." Vì dính vô NVGP, Phùng Quán
cũng như khá nhiều người khác như Trần Dần, Văn Cao, Hữu Loan, Phùng
Cung v.v. đã bị đảng cô lập, đày đọa về tinh thần lẫn vật chất. Chỗ
ở không có, phiếu thực phẩm bị cắt, mọi sáng tác đều không có chỗ
dùng, người người xa lánh vì sợ bị liên lụy. Trong hoàn cảnh đó, ông
Thanh Tịnh lại hề hà xuất hiện, ông vẽ cho Phùng Quán cái cần câu
cơm, bằng cách là có những sáng tác nào vô thưởng vô phạt mà ở trên
cần ông viết, ông nhường lại cho Phùng Quán chấp bút, rồi cứ lấy tên
ông ra mà in, tiền nhuận bút ông trao cả cho gia đình Phùng Quán. Sự
tích người ta kể lại là nhà thơ "dùng dao viết văn lên đá "
đã quỳ xuống chân thành tri ân Thanh Tịnh đã cứu mình. Cũng chính
nhờ sự giúp đỡ tận tình này mà sau này khi Phùng Quán qua đời, vợ
của ông, Bà Bội Trâm, đã có tiền để chuyển hài cốt của nhà thơ về
Huế, nơi chôn nhau cắt rốn của ông.
Điều tôi thấy xúc động nhất là hoàn cảnh gia đình của nhà thơ Thanh
Tịnh rất bi thương. Như đã nói ở trên, năm 1945 ông thoát ly gia đình,
theo tiếng gọi non sông, rồi từ đó ông không có bất kỳ liên lạc nào
với vợ con. Những cán bộ tập kết ra Bắc phần lớn đều lập lại gia
đình, chả quan tâm gì tới vợ con còn ở trong miền nam VN. Nhưng ông
Thanh Tịnh vẫn cứ sống cu ky một mình như vậy, với hy vọng đất nước
hòa bình trở lại để về vui buổi đoàn viên. Nhưng sau năm 1975, khi ông
trở lại Huế thì mới biết người vợ của mình đã lập gia đình với
một đại tá của quân đội miền nam Việt Nam. Nhà thơ Thanh Tịnh đã
đứng ra làm đơn bảo lãnh cho người chồng sau của vợ mình, sau đó ông
trở lại miền Bắc với nỗi u uất của riêng mình, và không trở lại
Huế nữa .Cuộc chiến Việt Nam bi thương, và không cần thiết đó, đã đem
lại bao bi kịch ê chề cho người dân hai miền nam bắc, mất mát chia lìa
đã là chuyện không thể nào tránh khỏi, nhưng đọc câu chuyện đời của
nhà thơ Thanh Tịnh, ai có chút lòng trắc ẩn, cũng khó nén một tiếng
thở dài. Nghe đâu sau khi ông qua đời, nhằm kỷ niệm một trăm năm ngày
sinh của ông, những thân hữu và cộng tác viên trong Hội Nhà Văn có tổ
chức một buổi lễ kỷ niệm trang trọng, và có mời người con trai của
ông là Trần Thanh Vệ từ Huế ra tham dự, nhưng anh đã không đến được,
lý do là mẹ của anh vừa mới qua đời. Âu cũng là định mệnh, khi đã
nhắm mắt xuôi tay, tất cả chỉ còn là hạt bụi.
Viết đến đây, tôi lại nhớ đến bài thơ Et S’il Revenait Un Jour, Rồi Một
Hôm , của nhà thơ người Bỉ Maurice Maeterlinck, do Thanh Tịnh phỏng dịch
:
Rồi một hôm, nếu về,
cha hỏi :
Mẹ ở đâu ? Con biết nói sao ?
Con hãy bảo : Trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau.
Nếu cha hỏi sao nhà
vắng vẻ ?
Mẹ khuyên con hãy trả lời sao ?
Con lặng chỉ bình hương khói rẽ
Và trên giường chỉ đĩa dầu hao.
Nếu cha hỏi cặp đào
trước ngõ
Sao chỉ còn một gốc ngả nghiêng ?
Con sẽ chỉ một cây đào nhỏ
Bên cây tùng, rồi đứng lặng yên.
Còn mồ mẹ, nếu cha
muốn biết
Phải hướng nào con nói cùng cha ?
Con lặng chỉ bầu trời xanh biếc
Và bên trời chỉ nội cỏ xa.
1936
Cuộc
đời như phù vân, có đó rồi mất đó. Nhưng là một nhà văn, nhà thơ
chân chính, hẳn ai cũng mong cho tác phẩm của mình còn sống mãi với
thời gian. Có những ánh sao chói sáng trên bầu trời, nhưng rồi vụt
tắt. Có thể là vì bản mệnh ngắn ngủi như Hàn Mặc Tử, Bích Khê,
Nguyễn Nho Sa Mạc, Đặng Thế Phong v.v. nhưng thơ nhạc của họ vẫn sống
mãi trong tâm hồn người thưởng ngoạn. Cũng có thể chính họ tự khai
tử chính mình, chối bỏ những đứa con mà họ đã đứt ruột sinh ra như
trường hợp của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận v.v.
Riêng trường hợp của Nhà Thơ Thanh Tịnh, thơ văn của ông, tư cách của
ông, đã khiến cho tôi cực kỳ xúc động. Có thể ông rất buồn vì hoàn
cảnh đau thương của gia đình mình, nhưng tôi tin rằng, cho tới phút
cuối của cuộc đời, ông hẳn đã vô cùng hạnh phúc khi biết rằng, trong
khi chế độ Hà Nội chối bỏ tất cả những sáng tác của ông thời kỳ
trước năm 1945, thì trong miền nam Việt Nam đã có hằng triệu học sinh,
sinh viên luôn ái mộ những đứa con tinh thần của ông, bởi có người
học sinh nào, mà không thấy tâm hồn trong trắng của mình rung động như
cậu bé lần đầu theo chân mẹ đến trường, trong một buổi sáng đầy
sương thu và gió lạnh?
Kính chúc hương linh Nhà Thơ luôn mỉm cười an lạc nơi cõi vĩnh hằng.