Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016
Trần Doãn Nho: Trò chuyện với nhà văn Phạm Phú Minh
Lời Giới thiệu của Trần
Doãn Nho (TDN): Tôi quen nhà văn Phạm Phú Minh (PPM – bút
hiệu Phạm Xuân Đài) qua Thế Kỷ 21, tờ tạp chí tôi cộng tác từ lúc
anh làm chủ bút cho đến số cuối cùng. Có một khoảng thời gian, anh mời tôi vào
Ban Biên Tập cùng với một số nhà văn nhà thơ khác. Ngoài việc đóng góp bài vở
khá thường xuyên, trong một vài số đặc biệt, tôi cộng tác với anh Minh để thực
hiện. Như số về Hồ Hữu Tường, tôi là người trực tiếp đến nhà người con gái của
Hồ Hữu Tường, chị Hồ Huệ Tâm, đang dạy ở đại học Harvard, để thu thập một số
tài liệu và thực hiện cuộc phỏng vấn. Hay số đặc biệt về Trần Văn Tuyên. Vị cựu
phó thủ tướng này có cô con gái ở cùng thành phố với tôi, tôi liên lạc với cô để
tìm thêm tài liệu. Hà Nội trong mắt tôi, tác phẩm đầu tay của anh do nhà
văn Nguyễn Mộng Giác biếu tôi, là một trong những tác phẩm đầu tiên mà tôi được
đọc khi ra hải ngoại. Cái tựa đề khá nhạy cảm này cộng với bút danh Phạm Xuân
Ðài mới mẻ khiến cho tập bút ký này trở thành “vấn đề” lúc mới phát hành, gây
xôn xao trong cộng đồng người Việt tại một vài nơi, kể cả ở Boston, nơi tôi định
cư, khi tác giả đến đây trong một lần ra mắt sách. Nhưng rồi mọi chuyện ổn thỏa
khi người ta biết về tác giả và đọc nội dung tác phẩm.
Tại buổi Hội thảo Văn Học Miền Nam (Quận Cam, California, ngày 6 &
7 tháng 12/2014) (từ trái sang phải): Trần Doãn
Nho,Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Hoàng Nam, chị Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hưng Quốc,
Nguyễn Đức Tùng, Phạm Phú Minh, Phùng Nguyễn
Bài viết mới nhất của Phạm
Phú Minh, “Vang bóng của một thời sắp qua”[1]
(tháng 4, 2016), lược qua sinh hoạt của giới cầm bút hải ngoại và sự ra đi của
những cây bút trong vòng vài năm vừa qua. Bài viết ngắn nhưng gây cho tôi một nỗi
bâng khuâng lạ lùng. Chỉ trong một thời gian ngắn, hải ngoại mất đi một số
khuôn mặt văn học nghệ thuật quan trọng. Nguyễn Mộng Giác (7/12) vừa ra đi chưa
nguôi niềm nuối tiếc thì đến Nguyễn Xuân Hoàng (9/14). Rồi Võ Phiến (9/15). Rồi
đột ngột Phùng Nguyễn (11/15). Rồi Đinh Cường (8/1/16). Và gần đây nhất, Tạ Chí
Đại Trường (3/16). Ðọc xong bài viết, tôi email ngay cho Phạm Phú Minh.
Trần Doãn Nho (TDN):
Anh Minh, tôi vừa đọc bài viết “Vang bóng của một thời sắp qua.” Cảm thấy thấm
thía. "Những mất mát dồn dập mấy năm gần đây nhắc nhở chúng ta rằng mỗi
lớp người đều đóng vai trò trong thời của mình. Một thời đại đi qua bao giờ
cũng với những bước chân tiệm tiến, và trong cái cảm thức mất mát, chuyển giao,
chuyển tiếp từ từ ấy, hình như ai cũng thấy nhu cầu bắt chước Nguyễn Tuân để vẽ
nên cái “vang bóng một thời.” Một thời Việt Nam Cộng Hòa nối dài trong
giới văn nghệ đã để lại cái gì đáng kể nhất? Đó chính là văn hóa hành xử: tự trọng,
tử tế và rất mực thương yêu tương kính nhau.”
Chao ơi, vang bóng một thời?
Anh Minh ơi, có thật là thế hệ chúng ta sắp “vang bóng một thời”?
Phạm Phú Minh (PPM):
Quả là tôi có cảm khái ngậm ngùi về tình trạng giới văn nghệ hải ngoại rơi rụng
liên tục. Nhưng mình cũng thấy một thời đại có trôi qua thì cũng một cách từ từ
thôi, với số lượng sáng tác của lớp già xem như đã ngừng, lớp trẻ hơn thì lai
rai…Trong khi đó lớp thế hệ thứ hai ngày càng vững vàng. Kể ra thì chính thế hệ
này coi như đang thay thế hẳn lớp trước rồi chứ còn gì nữa. Măng đã mọc và lớn
rồi, thì tre già đến lúc nói lời từ giã thôi.
TDN: Ở quận Cam, còn
những ai thuộc thế hệ cũ, anh Minh? Đỗ Quý Toàn, Du Tử Lê, Viên Linh, Trúc Chi,
Doãn Quốc Sỹ, Nhã Ca, Trần Dạ Từ …? Và ở các nơi khác? Tô Thùy Yên, Trần Thanh
Hiệp, Tuý Hồng, Trùng Dương …? Còn thế hệ hai, theo anh, là những ai? Mới đây,
đọc đoản văn “Áo khăn ngày cũ" của Trần Mộng Tú. Nhà thơ soạn lại
áo khăn những người đã khuất và nhớ những kỷ niệm ngày xưa của người thân, thật
bùi ngùi. Văn chương của người đã khuất cũng là một loại áo khăn ngày cũ, đọc lại
biết bao cảm khái!
PPM: Tháng 5/2016 vừa
rồi, anh chị Đặng Tiến từ Pháp qua Hoa Kỳ chơi, chúng tôi có gặp nhau trong mấy
lần hội họp bạn bè. Như Nho biết, Đặng Tiến cũng là một người cầm bút thuộc lớp
"cũ", nhưng vẫn hăng hái đề cập một số việc muốn làm, mặc dù sức khỏe
coi bộ cũng không tốt lắm. Lớp tuổi sinh cuối thập niên 1930, đầu 40 thì một số
vẫn còn viết, như Đỗ Quý Toàn, Du Tử Lê, Viên Linh…. Anh chị Trần Dạ Từ – Nhã
Ca vẫn bận rộn với tờ nhật báo Việt Báo của họ. Trùng Dương thỉnh thoảng vẫn tự
lái xe từ Oregon xuống Orange County thăm anh em, và vẫn còn viết những bài tường
trình kèm hình ảnh về một số sinh hoạt đặc biệt về văn hóa, chính trị của cộng
đồng người Việt Nam tại Mỹ. Anh Trúc Chi còn khỏe mạnh lắm, vẫn ngao du sơn thủy,
nhưng viết rất ít. Anh Doãn Quốc Sỹ đang ở với con cái tại vùng này, so với hồi
thuyết trình trong hội thảo Tự Lực Văn Ðoàn thì nay yếu đi nhiều, nhất là không
còn sáng suốt nữa. Lớp trẻ như Đặng Thơ Thơ, Đinh Từ Bích Thúy, Lê Đình Nhất
Lang vân vân, nói chung là nhóm Da Màu, thì tôi nghĩ là họ đang tự khẳng định một
cách chắc chắn. Lớp này thì thuộc hẳn thế hệ thứ hai rồi.
TDN: Mới đây, gặp Trần
Trung Đạo, nghe nói anh vừa quy y?
PPM: Thầy Thích Như Điển
làm lễ quy y cho tôi hồi cuối tháng 3/2016, đặt pháp danh cho tôi là Thiện Văn 善聞. Tôi
nói đùa sau buổi lễ rằng tôi vừa được cấp passport cho chuyến ra đi dài
sẽ tới. Nhưng tôi cảm nhận một điều rất rõ là tôi đổi khác rất nhiều sau khi
quy y, có một sự chuyển hóa sâu trong tâm thức mà chính mình cũng không ngờ.
TDN: Pháp danh anh là
“Thiện Văn”. Nghĩa là gì?
PPM: Là lắng nghe điều
thiện. “Văn” đây có nghĩa là nghe. Thoạt đầu tôi tưởng “Văn” là văn chương, sau
được thầy giảng “Thiện Văn” là lắng nghe điều Thiện. Ngẫm lại cũng đúng, pháp
danh đâu phải là một lời chúc nghề nghiệp, mà là một lời khuyên, lời nhắc nhở
cách sống hợp với đạo lý. Phải biết lắng nghe, thu thập, tích lũy những gì tốt
đẹp.
TDN: Tôi tưởng anh đã
phải quy y từ lâu rồi chứ! Dù sao, cũng mừng anh ngộ được đạo. Cũng hơi trễ đó
nhé.
PPM: Nói "ngộ được
đạo" thì không biết đâu là sớm đâu là trễ. Trên con đường thăm thẳm trải
nhiều kiếp, có thể có lúc mình đã ngộ rồi, có thể cũng có lúc mình đã đọa xuống
một tầng rất thấp, rồi ngoi từ từ lên. Cứ nhìn kiếp này thì thấy quá khứ của
mình cũng trùng trùng nghiệp quả, tốt xấu lẫn lộn. Và khi cái duyên đã tới, thì
bước lên được một bậc thang — là lễ quy y vừa rồi. Cứ hãy cho đó là một bước
tích cực, còn lại mọi chuyện tiến hay lui, là do mình.
TDN: Nghe như một sư
ông giảng đạo! Mà thôi, ta hãy trở lại chuyện đời.
Theo tôi nghe thì hồi trước,
hình như anh Minh học Triết, sau đó lại học Quốc Gia Hành Chánh, vì muốn làm
quan. Thế mà sau này, sang đây lại là nhà văn kiêm nhà hoạt động văn hóa, lại
còn là chủ báo, giám đốc đài truyền hình. Do thời thế hay do yêu thích văn hóa,
văn chương? Tôi cũng lạ, nhưng không lạ như anh. Tôi học ban B, khá toán. Thế
mà lên đại học, lại thích triết. Xong triết lại không theo triết, chỉ dùng triết
mà bàn về văn chương. Trước 1975, hoạt động chính trị chuyên nghiệp, là thành
viên tích cực của một đảng phái quốc gia, có tham vọng làm “lớn” (!) Nhưng sau
khi qua đây rồi, bỏ hẳn sinh hoạt chính trị, chỉ chuyên chú văn chương. Có những
điều chính mình thay đổi mà mình không ngờ được. Riêng anh thì sao?
PPM: Hóa ra Trần Doãn
Nho hiểu "tiểu sử" của tôi rắc rối hơn chính nó rất nhiều. Tôi là dân
ban C, sau khi đậu tú tài thì đi đâu bây giờ? Sư phạm là gần nhất, thi thử vài
môn, tôi nhớ là Triết và Anh văn, đậu cái nào thì đi cái nấy. Sau đó, đậu vào
Triết. Tốt nghiệp, ra đi dạy, thì có cơ hội hoạt động với đám bạn cũ mới trong
chương trình Hè 1965 như Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Đoàn Viết Hoạt, Đỗ Quý
Toàn, Hà Tường Cát, Trần Đại Lộc, Phan Văn Phùng.… rồi khẳng định luôn hoạt động
thanh niên như một phương cách của giáo dục. Tổng Trưởng Văn Hóa Giáo Dục Trần
Ngọc Ninh của thời ấy đồng ý quan niệm giáo dục này, mở rộng cửa cho sinh hoạt
thanh niên vào trường học. Tôi không học Quốc Gia Hành Chánh. Sở dĩ tôi về làm
cho Dân Vận là do biệt phái từ Giáo Dục, khi Lê Đình Điểu thỏa thuận với Hoàng
Đức Nhã nắm Dân vận quốc nội (Nguyễn Ngọc Bích nắm quốc ngoại). Vụ biệt phái
này đưa mình vào tù sau biến cố 75.
Trong biến cố 1975 một số bạn
bè trong nhóm chúng tôi đã kịp di tản ra nước ngoài, trong đó có Đỗ Ngọc Yến,
sang Mỹ thành lập báo Người Việt từ năm 1978. Một số anh em trong nhóm
đi nước ngoài, dù có cư ngụ tại Nam California hay không, đều dưới hình thức này
hay hình thức khác góp sức với Yến xây dựng tờ báo này. Từ đó mỗi khi có người
trong nhóm từ Việt Nam thoát ra được đều có khuynh hướng gia nhập tập thể Người
Việt. Đến lượt tôi cũng vậy, qua Mỹ định cư theo diện H.O. thì tấp vô báo Người
Việt như là một chuyện đương nhiên. Thậm chí khi tôi còn ở tù, anh em đã
cho tôi một số cổ phần trong công ty đó rồi. Nói vậy để Nho thấy cái nhóm anh
em kết lại từ 1965 vẫn coi như có sợi giây vô hình ràng buộc nhau, như trong
cùng một đảng vậy, dù chưa bao giờ lập đảng. Cái “đảng” ấy, có tên là Anh Em,
nghe nặng tình cảm.
Và tấp vô Người Việt
thì còn con đường nào khác ngoài việc làm báo? Cứ vậy, nghề dạy nghề, nhưng tôi
cũng thấy cái căn bản triết học từ những năm sư phạm là nền tảng cho mọi hoạt động,
kể cả viết lách của tôi.
Nhưng ảnh hưởng lớn nhất cả đời
tôi là tư tưởng Phật giáo, mặc dầu cuối đời mới làm lễ quy.
Phạm Phú Minh cắt bánh sinh nhật khi báo Thế Kỷ 21
bước vào năm thứ chín, tổ chức vào ngày 12 tháng Mười năm 1997
bước vào năm thứ chín, tổ chức vào ngày 12 tháng Mười năm 1997
TDN: Anh thuộc loại đa
tài. Viết văn, làm báo, tổ chức các sinh hoạt văn hóa. Có lẽ sinh hoạt văn
chương, văn hóa quận Cam mà thiếu anh thì thiếu nhiều lắm. Làm chủ hai tờ báo,
đứng ra tổ chức trực tiếp hay gián tiếp hàng chục buổi ra mắt sách và các sinh
hoạt văn hóa như hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn, về Văn học Miền Nam, về Võ Phiến,
về Nguyễn Mộng Giác .… Anh dám đoạt giải là một trong những người năng động nhất
trong các sinh hoạt văn hóa ở quận Cam. Cuộc đời anh quả là đầy những hữu ích.
Tôi đoán là anh yêu thích văn hóa hơn là sinh kế.
PPM: "Anh thuộc
loại đa tài," câu của Nho làm tôi rất thích thú nhưng cũng rất ngạc nhiên.
Vì chưa bao giờ tôi nghĩ mình là người "có tài" thôi, chứ khoan nói
là nhiều tài. Bây giờ tâm sự một chút với Nho. Thời còn trẻ tham gia hoạt động
với anh em, cái món tôi dốt nhất, sợ nhất là tổ chức. Bày ra một việc gì, tôi
không biết phải bắt đầu từ đâu, ăn nói trước công chúng thì không suông sẻ, hay
sợ hãi vu vơ. May là tôi ở giữa một đám bạn rất giỏi, những Lê Đình Điểu, Trần
Đại Lộc, Đỗ Quý Toàn, Phan Văn Phùng, Hà Tường Cát .… đều là những tay mà sinh
hoạt nào họ cũng có thể tổ chức dễ dàng.
Khi mở ra Chương Trình Phát
Triển Thanh Niên Học Đường(CPS) mùa hè 1966, anh em đặt tôi phụ trách việc gì
Nho biết không? Trưởng ban Tài chánh! Một người tốt nghiệp ban Triết lo về tài
chánh! Tôi phải vừa học vừa làm, cuối cùng chi tiêu 20 triệu cho trại công tác
năm ấy cũng hoàn tất tốt đẹp. Đó là cái "tài" đầu tiên của tôi: không
có ai làm thì mình làm, rồi cuối cùng cũng tạm coi là hoàn thành nhiệm vụ.
Nhưng cũng phải nhớ ơn chị Nguyễn Thị Cẩm Hường, một giáo sư Anh văn, lúc đó là
Tổng Thủ quỹ đã góp công rất lớn điều hành tốt đẹp quỹ này.
Khi ra nước ngoài năm 1992
cũng vậy, anh em giao cho tôi điều hành tờ Thế Kỷ 21 xuất bản từ năm
1989, một tờ báo đã ổn định, sáng lập bởi Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Đỗ Quý
Toàn .… Tôi chỉ là người thừa hưởng những thành tựu của bạn bè, phát triển tờ
báo theo đường hướng đã định từ trước. Chính trong việc làm báo Thế Kỷ 21
mà tôi dần dần thoát ra khỏi trạng thái thụ động vốn là bản chất của tôi. Tôi bắt
đầu có những sáng kiến và sự quyết định của riêng tôi, mở những mục mới cho
báo, làm những số báo đặc biệt, tổ chức hội thảo với nhiều loại đề tài .… Chính
tôi cũng ngạc nhiên về khả năng mới mẻ này của mình, nhưng nhìn lại thì tôi hiểu
là phải như thế thôi. Bạn rất thân của tôi, chuyên viên tổ chức trại và các
sinh hoạt từ trước đến nay là Trần Đại Lộc qua đời năm 1997, rồi đến Lê Đình Điểu
1999, một cách vô thức tôi tự thay thế họ tổ chức các sinh hoạt văn hóa cho
nhóm Người Việt.
Với hội thảo và triển lãm về
Phạm Quỳnh mà tôi phối hợp với chị Thụy Giao, một nhà báo từ San Jose, tổ chức
năm 1999, tôi tự tin hẳn, và không sợ về vấn đề tổ chức nữa. Sự biến chuyển
ngay từ bản thân đó khiến tôi phải hiểu thế này: tôi là một người dự trữ của
nhóm Người Việt, để thay thế cho những tay chuyên về hoạt động tổ chức sẽ
mất sớm. Sẵn cái trớn đó, tôi tổ chức các sinh hoạt khác mà Nho đã biết, tương
đối thoải mái dễ dàng, khiến chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên.
Thành ra tôi không bao giờ
nghĩ mình có tài, là một ý nghĩ rất thành thật. Tôi là người bị (hay được) ép
buộc hay đào luyện bởi tình thế với một ý thức trách nhiệm rõ rệt, chứ bản chất
của mình thì không có một khả năng, hoặc một thiên hướng tự thân. Đi sâu vào mỗi
sinh hoạt thì "ở trong còn lắm điều hay" nhưng tổng quát thì như thế.
TDN: Khi nói tài, theo
tôi, là nói đến những gì người ta đã thực hiện được, đã thể hiện ra bằng công
việc. Để có một thành tích nào đó, ai mà chẳng trải qua những cái "dốt",
cái "sợ"… Điều hành một tờ báo như Thế Kỷ 21 trong cả 10 năm,
để lại một số lượng bài vở đủ mọi mặt, từ văn hóa, văn học, chính trị, xã hội,
tôn giáo, thông tin sinh hoạt.… Đó là một tờ báo bách khoa, một dấu ấn lớn của
sinh hoạt văn hóa hải ngoại. Đó còn là nơi xuất hiện biết bao nhiêu khuôn mặt
cũ, mới.
Đọc lại Thế Kỷ 21 có
thể nói là nhìn lại diện mạo của cái "vang bóng" khá lạ lùng của một
VNCH nối dài. Tôi chỉ mong có được một chút "ép buộc" như anh mà đâu
có được. Anh có còn nhớ anh lo cho tờ báo bao nhiêu năm? Bao nhiêu số báo? Đã tạo
ra bao nhiêu tên tuổi?

Các bìa báo Thế Kỷ 21: Số Ra Mắt; Tranh bìa Thái Tuấn (2000;
Tranh bìa Nguyễn Đồng cho số đặc biệt Phan Thanh Giản;
số đặc biệt Hoàng Đạo với tranh bìa của Đặng Thơ Thơ
PPM: Tờ Thế Kỷ 21
ra đời vào tháng 5 năm 1989, lúc bấy giờ tôi còn ở Việt Nam. Tôi đến Mỹ vào cuối
năm 1992, và bắt đầu vào làm báo này đầu năm 1993, lúc đó chủ nhiệm là Lê Đình
Điểu, chủ bút là Vương Hữu Bột (tức Đỗ Quý Toàn), tổng thư ký là Nguyễn Xuân
Hoàng. Trong thực tế, chỉ một mình Lê Đình Điểu lo mọi chuyện, vì Nguyễn Xuân
Hoàng bận làm tổng thư ký cho nhật báo Người Việt, còn Đỗ Quý Toàn ở tuốt
bên Canada. Thời gian này tôi tập sự với Lê Đình Điểu. Cho đến số tháng 9/1993
thì tôi được phong làm phụ tá cho chủ bút Đỗ Quý Toàn. Tháng 11, 1995 lên chức
Tổng thư ký tòa soạn (thay cho Nguyễn Xuân Hoàng). Từ năm 1997, làm chủ nhiệm,
với chủ bút vẫn là Đỗ Quý Toàn. Rồi từ khoảng đầu thế kỷ 21, Đỗ Quý Toàn thôi
làm chủ bút, tôi thay thế mãi cho đến khi tôi nghỉ sau khi làm xong số 223,
tháng 11 năm 2007, và tờ báo cũng không còn là của Người Việt nữa, nhưng
sau mấy số cũng đóng cửa luôn. Trong số cuối này (số 223) có một truyện ngắn của
Trần Doãn Nho, Một chút Việt Nam. Tuy chức vụ thì lung tung như thế
nhưng trong thực tế thì Lê Đình Điểu lo mọi chuyện cho tờ báo cho đến cuối năm
1995 thì tôi lo, vì Điểu bận điều hành đài phát thanh VNCR từ giữa năm 1995.
Như vậy coi như tôi điều hành mọi chuyện cho Thế Kỷ 21 từ đầu năm 1996
cho đến 2007, tổng cộng là 155 số trên tổng số 223 số.
TDN: Trong trên hai
trăm số báo, về mặt xã hội, chính trị, sử, đời sống, khoa học, anh có còn nhớ
những ai đã cộng tác và họ thuộc thành phần nào không? Và riêng về mặt văn
chương (biên khảo, sáng tác…), anh còn nhớ thuộc thành phần, thế hệ nào? Có ai
trong nước cộng tác? Có bao nhiêu số có chủ đề đặc biệt?
PPM: Hỏi như vậy là buộc
tôi phải nhìn lại “lịch sử” của tờ báo. Cũng là một việc tốt.
Nhìn lại số đầu trước tiên, gọi
là Số Ra Mắt, thay vì gọi số 1. Nó có một Hội Đồng Chủ Biên, với Đỗ Ngọc
Yến, Lê Đình Điểu, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Xuân Hoàng v.v… Chủ biên là Nguyễn
Xuân Hoàng, phụ tá là Hoàng Khởi Phong. Với một nhóm gọi là Biên Tập (không có
chữ Ban) khá đông người, xin ghi ra một số: Bùi Bích Hà, Bùi Bảo Trúc, Bùi Vĩnh
Phúc, Cao Xuân Huy, Đặng Phùng Quân, Lê Tất Điều, Lưu Trung Khảo, Nguyễn Hưng
Quốc, Nguyễn Mộng Giác, Thế Giang, Trần Thanh Hiệp, Phạm Cao Dương v.v…; và một
nhóm Cộng Tác: Mai Thảo, Võ Phiến, Phạm Công Thiện, Phạm Duy, Đào Trung Đạo,
Nguyễn Tất Nhiên v.v…
Sở dĩ tôi phải đi lại từ đầu,
để cho Nho thấy khi khởi sự, Thế Kỷ 21 đã có một dàn nhân sự viết lách
khá hùng hậu. Nó đã khởi đi như thế. Đến số 2 thì thấy Chủ nhiệm kiêm Chủ bút
là Đỗ Ngọc Yến. Số 3 lại đổi mới: Chủ nhiệm Đỗ Ngọc Yến, Chủ bút Vương Hữu Bột
(Đỗ Quý Toàn), Chủ biên Văn học Nguyễn Xuân Hoàng, Chủ biên Biên khảo Lê Đình
Điểu. Như tôi đã đề cập ở trên, thay đổi vị trí cho hợp lý thôi, thực tế Lê
Đình Điểu làm mọi việc. Bốn năm sau số ra mắt (tháng 5, 1989) tôi mới gia nhập
vào làm việc biên tập lẫn trị sự, và sáu năm sau, từ đầu năm 1996, tôi mới thật
sự “nắm” tờ báo. Dĩ nhiên sáu năm sau thì người cộng tác bài vở có thêm bớt so
với lúc ban đầu. Những vị như Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Duy, Mai Thảo, Lưu Trung
Khảo, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng v.v… hầu như không còn đóng góp bài vở
nữa, một số vì có tờ báo riêng của họ. Một số cây bút cũ tiếp tục, cộng với nhiều
cây bút mới đóng góp thường xuyên:
– Về bình luận thời sự
kinh tế chính trị: Ngô Nhân Dụng, Tôn Thất Thiện, Nguyễn Quốc Khải, Nguyễn
Mạnh Hùng, Lê Mạnh Hùng, Đinh Xuân Quân, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn
Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Nghĩa, Cổ Lũy…
– Về biên khảo (lịch sử,
văn hóa, văn học…): Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Lê Văn Lân, Trương Bảo Sơn, Trần Gia
Phụng (Canada), Trần Anh Tuấn, Trần Kiêm Đoàn, Tôn Thất Thiện (Canada), Vũ Thư
Hiên (Pháp), Đoàn Thanh Liêm, Trần Hữu Thục, Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Hưng Quốc
(Úc) Nguyễn Văn Tuấn (Úc), Trần Từ Mai (tức Trần Huy Bích), Trần Ngươn Phiêu,
Ngô Thế Vinh, Nguyễn Hoài Vân (Pháp), Nguyễn Duy Chính, Phan Quốc Sơn, Như
Phong Lê Văn Tiến, Cung Tiến, Thụy Khuê (Pháp), Trần Đông Phong, Nguyễn Hữu Chi
(Canada), Đặng Tiến (Pháp), Vũ Quốc Thúc (Pháp), Trần Minh Tùng, Tiêu Dao Bảo Cự
(Việt Nam), Hà Sĩ Phu (Việt Nam), Nguyễn Minh Cần (Nga), Huỳnh Hữu Ủy, Võ Phiến,
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Lâm Lễ Trinh, Lê Xuân Khoa, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Mạnh
Hùng (Luân Đôn), Đoàn Viết Hoạt, Phạm Đỗ Chí, Từ Trì (Pháp), Lưu Văn Vịnh, Phan
Thanh Tâm, Nguyễn Hữu Chung (Canada), Nguyễn Gia Tiến (Thụy Sĩ), Nguyễn Quốc Trị,
Bùi Hạnh Nghi (Đức), Quỳnh Giao, Lữ Phương (Việt Nam), Trần Trung Đạo, Đào Trung
Đạo, Nguyễn Huệ Chi (Việt Nam), Phạm Công Thiện, Thang Ma v.v…
– Về sáng tác (thơ,
văn): Trần Mộng Tú, Trần Hồng Châu, Tạ Tỵ, Dương Kiền (Na Uy), Võ Phiến, Cung
Tích Biền (VN), Trần Doãn Nho, Hồ Minh Dũng, Hồ Phú Bông, Lý Thừa Nghiệp (Úc),
Chu Vương Miện, Trần Vấn Lệ, Nguyễn Tường Thiết, Đặng Thơ Thơ, Nguyễn Lê Hồng
Hưng (Hòa Lan), Kiệt Tấn (Pháp), Trần Yên Hòa, Song Thao (Canada), Hồ Đình
Nghiêm (Canada), Hoàng Chiều Nhân (Canada), Lưu Văn Vịnh, Nguyễn Hiền (Hòa
Lan), Vũ Thư Hiên (Pháp), Lê Lô, Từ Thức (tức là Trần Công Sung, Pháp), Trần
Bang Thạch, Trang Châu (Canada), Trần Huy Sao, Tôn Nữ Thu Nga, Luân Hoán
(Canada), Lê Minh Hà (Đức), Trần Ngọc Tuấn (Tiệp), Phạm Thị Hoài (Đức), Hòa Đa,
Lê Tất Điều, Nguyễn Ái Nhân, Nguyễn Thị Kim (VN), Phan Lạc Tiếp, Hà Kỳ Lam,
Hoàng Khởi Phong, Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh, Hồng Khắc Kim Mai, Trần Quán Niệm, Tường
Linh (VN), Mạc Phương Đình, Nguyễn Đức Tường (Canada), Bùi Bích Hà, Xuân Đỗ, Du
Tử Lê, Hoàng Quân (Đức), Nguyễn Văn Thực (Nguyễn Văn Thà -NaUy), Tâm Thanh,
Khánh Hà (Na Uy)… Còn nhiều, không thể kể hết được.
Nói chung, những người đóng
góp bài vở cho Thế Kỷ 21 (không kể các tác giả đã qua đời mình đăng lại
tác phẩm của họ như Nhất Linh, Khái Hưng, Hồ Hữu Tường, Tạ Ký…) mà tôi liệt kê
tên ở trên phần lớn đều là những tên tuổi nhiều người biết, đọc qua là biết
thành phần xã hội và thành tích của họ. Có thể nói là những tên tuổi nặng ký,
không chỉ riêng trong giới cầm bút hải ngoại, mà là của Việt Nam.
Nhưng tôi sẽ rất thiếu sót nếu
không nhắc tới các họa sĩ đã đóng góp tài hoa của mình để giúp cho phần mỹ thuật
của tờ báo. Trước hết là đôi nghệ sĩ Nguyễn Đồng-Nguyễn Thị Hợp, suốt 18 năm từ
số đầu tiên cho đến số cuối cùng của Thế Kỷ 21 đã giữ công việc trình bày bìa
báo và đóng góp các minh họa cho các trang trong. Họa sĩ Ngọc Dũng và Vũ Thái
Hòa (Pháp) ngay trong những số đầu tiên đã đóng góp nhiều hình vẽ trang trí
(vignette), các năm sau có các họa sĩ Thái Tuấn, Đinh Cường gửi tranh đóng góp
rất tích cực lâu dài. Các họa sĩ cũng nhiều lần gửi hình chụp các bức tranh
quan trọng của mình để làm bìa báo. Thời đó, thập niên cuối của thế kỷ 20, quý
vị họa sĩ đều gửi họa phẩm trên giấy, bằng đường bưu điện. Về hý họa, các số đầu
thường có tác phẩm ký tên Gúc và Kúm (cho tới nay tôi cũng chưa được biết quý vị
này là ai), rồi đến họa sĩ Hiếu Đệ cộng tác một thời gian. Họa sĩ Babui
Mamburao vẽ hý họa cho Thế Kỷ 21 trong mười mấy năm liền cho đến ngày
báo đóng cửa.
Lục báo cũ riết mấy hôm nay
tôi cũng thấy thấm mệt rồi. Về những số báo đặc biệt thì tôi nhớ đâu nói đó
thôi nhé: Võ Phiến; Khái Hưng; Phạm Quỳnh; Hồ Hữu Tường; Nhất Linh; Hoàng Đạo;
Thạch Lam; Phan Thanh Giản; Nguyễn Gia Trí; Thanh Tâm Tuyền; Trần Văn Tuyên; Từ
Chung; Vũ Hoàng Chương; Hà Nội; Sài Gòn; Hội thảo Văn Học Hải Ngoại: Thành Tựu
và Tiềm Năng; Cải cách ruộng đất; Sông Cửu Long. Có thể còn, nhưng ít và không
quan trọng. Muốn xem lại Thế Kỷ 21 một cách nhanh chóng, Nho có thể vào
mục Thư Viện trên Người Việt Online, tìm Thế Kỷ 21 bấm xem là tiện
nhất.
TDN: Trong dịp lục tìm
lại báo cũ để nói chuyện với anh, tôi tò mò đọc lại nhiều số Thế Kỷ 21
và với con mắt tương đối khách quan, tôi đã gặp những số báo rất hay. Càng về
sau hình như càng hay. Tôi bỗng nhớ đến lời Đỗ Quý Toàn nói hôm tôi tới thăm
tháng 7/2016 vừa rồi: “Công lớn của ông Minh là thời gian làm báo Thế Kỷ 21,
cho đến số cuối cùng.” Theo tôi, đó là một cái nhìn sâu sắc và toàn diện.
PPM: Cám ơn Nho, cám
ơn Đỗ Quý Toàn. Nghe lời khen, tôi thực sự ngạc nhiên. Tôi nghĩ là quý vị sẽ
nói công của tôi là tổ chức các cuộc triển lãm và hội thảo, với nhiều thành
công vang dội trong xã hội …. nhưng Nho và Toàn chỉ nhắc tới Thế Kỷ 21.
Mà nghĩ cho cùng, tổ chức triển lãm hội thảo là công tác nổi, chính làm báo mới
là công việc âm thầm mà có ảnh hưởng lâu dài.
TDN: Đúng thế, anh
Minh. Theo tôi, có thể nói tạp chí Thế Kỷ 21 là “hơi thở” của miền Nam
thời VNCH. Không chỉ là vì Thế Kỷ 21 có mặt của nhiều, rất nhiều những
nhân vật đã từng góp phần xây dựng và duy trì chế độ miền Nam về mặt chính quyền
cũng như về mặt văn hóa xã hội, mà còn vì cái cách thể hiện, tính chất văn hóa,
sự thảo luận nghiêm túc, đứng đắn và lương thiện. Nó cho thấy, những người thua
cuộc chỉ “thua cuộc” chứ không thua về chính nghĩa, không thua về văn hóa, về
tính nhân bản, về sự tự do cũng như về mặt trí tuệ. Những bài viết trong Thế
Kỷ 21 không có cái ngậm ngùi của những kẻ lưu vong, cũng không có cái hằn học
của những kẻ thất cơ lỡ vận, hay đổ lỗi cho “ai đó”, mà tràn đầy niềm tin ở một
nước VN sẽ được phục hồi. Là một chủ biên, anh có nhận thấy như thế không?
Thế Kỷ 21 cũng còn là
“hơi thở” của hải ngoại, về phương diện văn chương, chính trị, tranh đấu cũng
như về phương diện đời sống. Nhiều mặt sinh hoạt phong phú của đồng bào hải ngoại
cũng như các sự kiện chính trị, xã hội trên thế giới đã được đưa vào. Từ chuyện
lạm dụng tình dục trẻ em của một số cha cố ở Hoa Kỳ, cải cách ruộng đất ở miền
Bắc, kỷ niệm 40 năm vụ thảm sát Mậu Thân của Cộng Sản Việt Nam, vụ Khủng Bố
9/11 Hoa Kỳ, những tiết lộ mới về cái chết của tổng thống Ngô Đình Diệm, đại hội
điện ảnh Việt Nam quốc tế, những khám phá của khảo cổ học về Thánh kinh, Cộng Sản
Việt Nam phá bia tưởng niệm thuyền nhân tỵ nạn ở Galang và Bidong. Vân vân.
Cũng ghi nhận phần sách báo trong tháng, nơi Phạm Xuân Đài đã rất công phu và đầy
thiện chí giới thiệu những sách mới. Không phải chỉ là những dòng giới thiệu
khô khan, mà là những bài điểm sách nho nhỏ, để giúp độc giả có một cái nhìn về
tác phẩm, chứng tỏ người đọc đã bỏ ra thì giờ và công sức, chứ không chỉ “làm
cho có”. Anh đã làm công việc này như thế nào?
PPM: Hai đoạn viết về
"hơi thở" của Nho rất hay, đó là những nhận xét rất sắc sảo của một
cái nhìn khách quan và trí tuệ. Các nhận xét vừa rồi của Nho lâu nay tôi chỉ cảm
nhận một cách mơ hồ, bây giờ mới có người phân tích một cách rành mạch. Tôi sẽ
dựa vào các nhận xét ấy để khai triển thêm, vì mình là người trong cuộc, bây giờ
có một cái nhìn vô tư của "người ngoài" thì dễ cho mình nhìn lại mọi
chuyện hơn.
Người thực hiện tờ báo cứ lo
cắm cúi làm, có khi không ý thức hết những điều như Nho nhận xét, nhưng khi đọc
thì thấy rất đúng, rất phục. Nếu Nho định gợi ý cho tôi đưa ra những nhận xét tổng
quát của mình về tờ Thế Kỷ 21 thì tôi nghĩ chỉ cần khai triển hai đoạn vừa
nói là cũng đủ vinh dự cho Thế Kỷ 21 lắm rồi. Còn nếu đi sâu vào từng vấn đề của
tờ báo, về từng số báo thì lúc đó lại là những công phu khác, phức tạp hơn.
PPM: Buổi sáng nay tôi
ngồi xem lại những số báo Thế Kỷ 21 đầu tiên, bắt đầu từ tháng 5-1989. Thời
gian đó tôi mới ra tù được hơn một năm, mùa hè 1989 tôi lần đầu tiên đi Hà Nội,
để rồi về viết Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thời đó anh em ở Mỹ bắt đầu giao động
một cách phấn khởi vì những biến chuyển ở Nga và Đông Âu. Những anh em cốt cán
của báo Người Việt như Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Đỗ Quý Toàn, Hoàng Ngọc Tuệ
v.v… bàn với nhau: nhật báo Người Việt là cơ quan thông tin cho cộng đồng,
đồng thời cũng là nơi làm ra tiền để nuôi sống anh em. Cần phải có thêm một tờ
tạp chí để nói lên ước vọng, lý tưởng đối với đất nước Việt Nam. Vì thế Thế
Kỷ 21 ra đời đúng vào giữa năm 1989.
Tại sao lấy tên Thế Kỷ 21?
Đỗ Ngọc Yến, người đứng đầu
nhóm, viết bài mở đầu cho Số Ra Mắt, với nhan đề: "Thập niên 90: bước
chuyển tiếp đưa Việt Nam vào thế kỷ 21". Vậy Thế Kỷ 21 coi như là mục
tiêu mà tờ báo nhắm tới. Thập niên 90 là 10 năm rèn dũa, chuẩn bị chào đón thế
kỷ mới, mà mọi người coi sẽ là sân khấu chính cho quá trình đổi mới và xây dựng
Việt Nam.
TDN: Thì ra thế! Xin
anh tiếp…
PPM: Qua những số báo
mở đầu, với những cây bút uy tín từ trước 1975 ở Việt Nam: Đỗ Quý Toàn, Phạm
Cao Dương, Trần Thanh Hiệp, Võ Phiến, Phạm Duy, Mai Thảo, Nguyễn Mộng Giác, Phạm
Công Thiện, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Ngọc Bích, Lê Đình Điểu…; cộng
với các cây bút mới nổi ở hải ngoại như Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Thị Hoàng Bắc,
Nguyễn Bá Trạc, Trần Mộng Tú, Trần Diệu Hằng, Đỗ Kh., Hoàng Mai Đạt… đã tạo
ngay tức khắc những số báo nặng ký. Rất trí tuệ. Rất điềm tĩnh. Không hô khẩu
hiệu. Không nặng cảm tính. Nghĩa là rất trưởng thành, có trình độ và viễn kiến
cao.
Khi tôi bước vào tòa soạn Thế
Kỷ 21 trên đường Moran thì tờ báo được ba tuổi rưỡi.
Bây giờ tôi nói qua về việc
điểm sách. Lê Đình Điểu là người sáng lập ra mục Sách Báo Trong Tháng, khi tôi
vào làm thì đã có mục này, viết khá kỹ. Tôi vốn thích đọc sách, nên xin giữ một
chân, mỗi tháng góp nhận xét cho vài ba tác phẩm. Từ đó các bài điểm sách của
tôi được nhiều người thích, và dần dần tôi là người duy nhất phụ trách mục đó.
Nhưng làm một mình thì đó là
công việc nặng nhọc, trung bình mỗi tháng tôi phải đọc khoảng 10 cuốn sách. Dĩ
nhiên không thể đọc hết tất cả các trang của một cuốn sách, nhưng phải tới một
mức nào đó để có thể có nhận xét riêng về văn phong, kỹ thuật và câu chuyện
trong sách hầu có thể trình bày trong ít chục dòng. Mỗi lần viết điểm một quyển
sách tôi như đang sáng tác một cái gì đó, cũng phải động não, rút ruột để nhận
định rồi lựa một cách viết cho phù hợp. Nói chung là nặng nhọc, tuy chỉ viết một
đoạn ngăn ngắn trong một mục cuối cuốn báo.
Tôi nhớ thời ấy có lần Khánh
Trường tới nhà tôi chơi, khen phần điểm sách của Thế Kỷ 21, cho là khá
so với một số các tạp chí khác. Cùng trong nghề, Khánh Trường cười cười: Tay
nào viết giới thiệu sách cũng vậy, lật sách coi có lời Tựa không, không có thì
hơi buồn. Vì có lời Tựa thì công việc rất nhanh, chỉ cần trích vài ba nhận xét
(và khen ngợi) của người khác bỏ vào bài là coi như xong (tôi cũng có dùng
“phương pháp” này, nhưng ý của tôi mới là ý chính). Một độc giả ở Texas, anh
Thiện Ý (thỉnh thoảng cũng có viết bài cho Thế Kỷ 21) đề nghị tôi tập họp
những bài điểm sách để in thành sách. Nhưng tôi thấy chưa tới mức đó, các bài
viết tuy có kỹ nhưng chưa đạt đến chỗ phê bình sách. Tôi tự thấy mình chưa có
trình độ của một nhà phê bình, chỉ nhận xét với tư cách một người đọc sách bình
thường, nói ra cảm nghĩ và một số nhận xét của mình cốt chỉ để giới thiệu sách
mới cho độc giả tờ báo của mình thôi. In thành sách phải ở một trình độ khác.
Phạm Công Thiện, vốn từ trước
chưa quen biết gì với tôi hết, cũng vì đọc Thế Kỷ 21 mà tìm đến nhà tôi
chơi mà thành bạn. Có lần Thiện nói đại ý thấy được tấm lòng của tôi qua những
bài điểm sách. (Tôi không nhớ mình có điểm cuốn nào của Phạm Công Thiện không).
Khi viết điểm sách, tôi có một
quan điểm chung thế này: phải gắng tìm ra ưu điểm để khen, không đào bới khuyết
điểm để chê, trừ một số trường hợp cần thiết. Tôi nghĩ đã bỏ nước ra đi tị nạn
xứ người, đã lo làm lụng cực nhọc để sống mà còn chịu khó bỏ công viết lách, in
sách thì đã là một việc đáng khen, nên khuyến khích. Nên hầu hết bài nào tôi
cũng có ý kiến tích cực. Một hôm có một phụ nữ gọi tôi, xưng là độc giả Thế
Kỷ 21, trách tôi đã làm cho bà ta mua lầm một quyển sách quá dở, chỉ vì những
lời khen của tôi trong bài điểm sách.
Nhưng cũng có lần vì tôi chê
một quyển sách mà ông tác giả gần như mở một cuộc bút chiến với tôi!
TDN: Anh cho biết tiếp
cách điều hành tờ báo. Cũng xin hỏi rõ: trong việc điều hành và chọn lựa bài vở,
anh hoàn toàn tự quyết định hay phải qua Ban Điều Hành của công ty Người Việt (và nhật báo Người Việt)? Nhân tiện, xin anh
ghi lại cho vài chi tiết sau (một cách tổng quát): anh đã tổ chức hay bảo trợ tổ
chức bao nhiêu lần ra mắt sách và hội thảo, nói chung là các sinh hoạt văn hóa,
xã hội? Và Thế Kỷ 21 đã đứng ra xuất bản bao
nhiêu đầu sách?
PPM: Về “khung” tổ chức,
chúng ta thấy có in trên báo Thế Kỷ 21 một Hội
Đồng Quản Trị khoảng 7, 8 người. Tùy thời gian số người này có thể thay đổi, có
khi người này ra, người khác vào, nhưng trong đó luôn luôn có các vị như Đỗ Ngọc
Yến, Đỗ Quý Toàn, Hoàng Ngọc Tuệ, Phạm Phú Minh… Đó là một hội đồng có tính
cách tượng trưng, để cho thấy Thế Kỷ 21 có một
tập thể độc lập coi ngó chứ không phải phụ thuộc vào báo Người Việt. Trong thực tế, hội đồng
đó không làm việc thường xuyên, người được chỉ định hoặc bầu ra để làm chủ nhiệm
hay chủ bút quyết định mọi việc trong việc điều hành tờ báo.
Riêng tôi từ 1995 bắt đầu sát
cánh với Điểu trong việc lo bài vở, và từ đầu năm 1997 thì một mình tôi lo cho
đến số cuối cùng. “Lo” đây là toàn quyền trong việc chọn lựa bài, thêm mục này,
bớt mục kia, tìm ra và quyết định những người hợp tác mới, có sáng kiến làm những
số báo có chủ đề đặc biệt. Nói chung, toàn bộ nội dung của tờ báo là do một
mình tôi trách nhiệm. Người tham gia sát cánh với tôi nhất là Đỗ Quý Toàn như một
cây bút chủ lực về bình luận thời sự chính trị, và giữ một mục nhiều người đọc
là Sổ Tay, gom những bài bình luận do Toàn viết đã đăng trên báo Người Việt suốt tháng qua, sửa chữa
lại cho gọn và làm nên mục này. Toàn và Điểu (mất năm 1999) là những người hay
góp ý về nội dung lẫn hình thức của tờ báo.
Trong tất cả các anh em, tôi
là người duy nhất làm việc full time cho Thế
Kỷ 21. Tôi làm việc tại nhà, không có văn phòng tại báo Người Việt. Sau khi Điểu mất thì
tôi tham gia thêm công việc của đài phát thanh VNCR, viết bài, đọc bài, và vào
thời gian cuối, làm Tổng giám đốc.
Điều tích cực nhất cho bản
thân tôi từ khi tôi lãnh trách nhiệm làm báo Thế Kỷ 21 là sự
quan hệ xã hội. Rất nhanh tôi có được một mạng lưới rất tin cậy từ những người
cộng tác, hầu như khắp thế giới. Tôi cho việc này là cái được lớn nhất cho cả
cuộc đời tôi, đôi khi làm tôi ngạc nhiên. Từ những vị trí thức mình nghe tiếng
đã lâu như Tôn Thất Thiện, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Huy Bích, Phạm Cao Dương, Võ
Phiến, Phạm Duy, Nguyễn Gia Kiểng, Thụy Khuê … tự nhiên đến một lúc nào đó bỗng
thành những người bạn tâm giao; các người cầm bút cùng lứa với mình, hoặc trẻ
hơn như các anh em đi từ Hà Nội đang ở Đông Âu trở nên thân thiết thì rất đông;
đặc biệt các gia đình như Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo, Thạch Lam,
Trương Bảo Sơn, Le Mur Nguyễn Cát Tường… thì tuy tôi mới quen biết trong thời kỳ
làm báo Thế Kỷ 21, nhưng ngay lập tức cảm
thấy gần gũi quen biết nhau như từ lâu lắm rồi, đến độ coi nhau gần như bà con;
một số các cây bút trẻ như Nguyễn Văn Thực (Na Uy), Tôn Nữ Thu Nga, Hoàng Quân
(Đức)… đã đến với Thế Kỷ 21 và coi
tôi như một người bạn lớn tuổi.
Trong một chuyến đi du thuyền
với bạn bè trên biển Baltic, tôi lên bến Oslo (Na Uy) được hai vợ chồng nhà văn
Tâm Thanh-Khánh Hà đón ở bến tàu để đưa đi chơi. Buổi trưa về nhà anh chị thì
được gặp các bạn văn cư ngụ ở Oslo Nguyễn Văn Thực, Trương Kim Anh, Song Chi
cùng nhau ăn uống. Trong bữa ăn, Nguyễn Văn Thực nói với mọi người một câu khiến
tôi sửng sốt: “Không có anh Phạm Phú Minh thì cũng không có Nguyễn Văn Thực.”
Thực giải thích ngay: “Anh Minh đã đăng các sáng tác của tôi trên báo Thế Kỷ 21, nhà xuất bản Thế Kỷ của anh đã ấn hành hai cuốn
sách của tôi.” Lúc đó tôi mới hiểu ảnh hưởng sự phổ biến bài vở của một tác giả
trẻ trên Thế Kỷ 21 có tầm quan trọng như thế
nào. Tối hôm đó trở lại tàu tôi kể lại với các bạn cùng đi câu nói của Nguyễn
Văn Thực, thì anh Nguyễn Tường Thiết lại làm tôi sửng sốt hơn nữa khi thốt ra:
“Tôi cũng thế, không có anh thì không có tôi.” Các câu nói đó chỉ để khẳng định
một điều: tờ báo Thế Kỷ 21 quả là
có ảnh hưởng khá quan trọng đối với uy tín của các cây bút cộng tác.
Không có mạng lưới quen biết
được thành hình một cách rất tự nhiên do việc làm báo thì coi như tôi không thể
nào làm thành công trong việc làm báo nói chung, hoặc khi thực hiện những số
báo đặc biệt, hay lớn lao hơn, tổ chức các buổi tưởng niệm, triển lãm, hội thảo
.… Cái mà tôi gọi là “mạng lưới” đó thật ra là một khối tinh thần, một tình
thân thiết, tin cậy xuất hiện giữa tôi và một số rất đông người trong giới văn
hóa. Dĩ nhiên là qua tờ báo, nhưng đôi khi tôi thấy tờ Thế Kỷ 21 chỉ là một cái cớ, một chất
xúc tác trực tiếp, còn cái duyên chữ nghĩa, duyên văn nghệ, văn hóa giữa mình
và họ dường như đã tồn tại sẵn đâu tự bao giờ…
Trở lại mấy câu hỏi của Nho về
các buổi ra mắt sách, các chương trình hội thảo, triển lãm, các số báo đặc biệt
và việc xuất bản sách của Thế Kỷ 21. Đó là
các mảng khác nhau về tính chất và tầm cỡ tổ chức.
Về sinh hoạt ra mắt sách,
thực ra tôi rất ít khi tổ chức. Người khác tổ chức và mời mình phát biểu thì
nhiều. Có thời gian anh em ta viết sách rất hăng, và trong chỗ bạn bè mình phải
nhận lời mời phát biểu cũng hơi dồn dập. Cũng có trường hợp họ đưa sách đọc trước,
mình thấy không thích hợp để phát biểu, phải từ chối. Các buổi ra mắt sách là
loại sinh hoạt nhỏ, gọn, ảnh hưởng trong xã hội không lớn, nhưng nó hâm nóng hoạt
động văn học nghệ thuật trong cộng đồng.
Không thể nhớ hết đã phát biểu
bao nhiêu lần ra mắt sách, nhưng nhớ một số bài phát biểu mà chính mình và tác
giả cuốn sách đều hài lòng. Ví dụ bài nói về cuốn Thơ
Tuyển Bốn Mươi Năm 1969-2009 của Trần Mộng Tú; bài điểm cuốn Hồi ký của Vũ Quốc Thúc (tác giả ở
Pháp nhưng nhờ nhà xuất bản tổ chức ra mắt sách tại báo Người Việt, Nam California, Hoa Kỳ.
Xong việc, tôi gửi bài phát biểu qua Pháp cho tác giả đọc, được trả lời: Tôi đang bệnh, nhưng đọc bài của anh tôi hết bệnh)…
TDN: Trong số nhiều
sinh hoạt mà anh đứng ra, trực tiếp hay gián tiếp, tôi có tham dự và làm thuyết
trình viên vài lần. Gây ấn tượng cho tôi nhiều nhất là cuộc hội thảo về Tự Lực
Văn Ðoàn và Văn Học Miền Nam. Riêng anh, (những) lần sinh hoạt nào khiến cho
anh mãn nguyện nhất?
PPM: Hai cuộc hội thảo
sau đây để lại cho tôi nhiều ấn tượng tích cực nhất:
– Ngày Phạm Quỳnh:
Đối với tôi, Phạm Quỳnh gần như là một nhân vật huyền thoại. Tổ chức Ngày Phạm
Quỳnh (tháng 5, 1999) và làm số báo Thế Kỷ 21 về Phạm
Quỳnh là những việc tôi cho là cần thiết để chiếu rọi ánh sáng vào nhiều nơi
còn khuất lấp trong cuộc đời cũng như trong cái chết của ông.
Trước ngày hội thảo tôi có một
buổi gặp gỡ các người con của học giả Phạm Quỳnh là chị Phạm Thị Hảo (con gái
thứ năm của học giả, đến từ Maryland), chị Phạm Thị Hoàn (con gái thứ tám, đến
từ Paris), anh Phạm Tuân (con trai út, cũng đến từ Maryland). Buổi trò chuyện
này được công ty điện toán Kicon quay phim và đưa lên mạng lưới Internet toàn cầu.
Ngoài những kỷ niệm êm đềm trong gia đình do bà Hoàn và ông Tuân gợi lại, bà Phạm
Thị Hảo đã kể chuyến đi tìm hài cốt của cha vào năm 1956 do chính bà thực hiện.
Lần đầu tiên sự việc này được người trong gia đình thuật lại, khiến nhiều người
rất xúc động.
Tôi xin trích một đoạn thư của
anh Phạm Tuân gửi ban tổ chức sau khi Ngày Phạm Quỳnh kết thúc:
“Là người con của gia
đình, sau khi dự Ngày Phạm Quỳnh về lại Maryland, tôi còn cảm thấy bàng hoàng,
xúc động trước những sự việc xẩy ra, với những gì các anh chị bên ấy đã làm…
Ngày 8 tháng Năm 1999 là một ngày khó quên, ngày mà chúng tôi, những hậu duệ của
cố học giả Phạm Quỳnh mong mỏi, chờ đợi từ hơn một nửa thế kỷ! Với ‘Ngày Phạm
Quỳnh’ cha tôi đã sống lại trước lịch sử! (…)
Chẳng nói nhiều, các anh
chị cũng thừa hiểu chúng tôi cảm kích, tri ơn công việc của các anh chị sâu xa
đến chừng nào.” (Phạm Tuân – Silver Spring, MD).
Phạm Thị Hảo và Tôn Nữ
An (cháu ngoại Phạm Quỳnh)
trong buổi trao đổi tại Kicon, 5.1999.
– Triển lãm và Hội thảo
về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn: Đã diễn ra trong hai ngày
6 và 7 tháng 7 năm 2013 tại báo Người Việt, Nam
California. Từ mười năm trước tôi đã làm số báo Thế
Kỷ 21 đặc biệt và xuất bản một cuốn sách về Nhất Linh. Rồi đến năm
2011 cùng với một số anh chị em sưu tầm và số hóa xong báo Phong Hóa và Ngày Nay. Vào mùa hè năm 2012 anh
Nguyễn Tường Thiết cho tôi biết vào tháng 7 năm 2013 bà con Nguyễn Tường sẽ tề
tựu về Little Saigon để làm đám giỗ kỷ niệm 50 năm Nhất Linh qua đời (7/7/1963
– 7/7/2013), tôi bỗng nảy ra ý “phải làm một cái gì đó” nhân dịp này. Đây là lần
đầu tiên sáng kiến tổ chức do một mình tôi nghĩ ra, những lần khác là do gợi ý
và cùng bàn bạc với một số bạn bè.
Hậu duệ của thế hệ Tự Lực Văn Ðoàn trong ngày hội thảo tại Nhật Báo Người Việt.
Từ trái: Bác Sĩ Nguyễn Tường Giang
(con trai nhà văn Thạch Lam), nhà văn Doãn Quốc Sĩ (con rể nhà thơ Tú Mỡ), ông
Trần Khánh Triệu (con nuôi nhà văn Khái Hưng), nhà văn Phạm Thảo Nguyên (con
dâu nhà văn Thế Lữ), nhà văn Nguyễn Tường Thiết (con trai nhà văn Nhất Linh),
bà Minh Thu (con gái nhà văn Hoàng Ðạo).
(Hình: Triết Trần/Người Việt)
(Hình: Triết Trần/Người Việt)
Như mọi người đã thấy, đây là
một công cuộc sinh hoạt triển lãm và hội thảo về văn học có quy mô lớn nhất từ
trước đến nay tại hải ngoại. Cuốn Kỷ Yếu và bộ DVD về cuộc hội thảo đã ghi lại
diễn tiến suốt hai ngày. Tôi nghĩ tầm vóc cuộc triển lãm và hội thảo cùng số
người tham dự đông đảo một cách khác thường xứng đáng với tầm quan trọng của Tự
Lực Văn Đoàn và ảnh hưởng của nó đã tạo được trong xã hội.
Cuộc hội thảo Văn học Miền Nam do anh Nguyễn Hưng Quốc đứng ra tổ chức năm 2014 tôi cũng rất tâm đắc, vì cũng là mảng văn học bị cộng sản vùi dập, chúng ta cùng ngồi lại đặt để lại giá trị tự thân của nó.
TDN: Ngoài phần làm báo, tổ chức sinh hoạt văn học nghệ thuật, anh còn đứng ra xuất bản một số tác phẩm có tính chất đặc biệt, chẳng hạn như tuyển tập Võ Phiến, truyện của Nguyễn Bình Phương và một vài tác giả khác. Tập kỷ yếu Tự Lực Văn Đoàn cũng rất công phu, sẽ trở thành một tài liệu văn học quý giá sau này. Với riêng cá nhân tôi, tác phẩm gây nhiều ấn tượng nhất là Nghệ Thuật tạo hình Việt Nam của Huỳnh Hữu Ủy. Một, đó là công trình biên khảo hội họa duy nhất tính cho đến nay về hội họa Việt Nam; và hai, Ủy là bạn thân của tôi, chúng tôi đã sống qua cả một thời nhiễu nhương từ khi còn mài đũng quần trong lớp đệ thất cho đến nay khi ra hải ngoại và theo dõi rất sát, rất kỹ con đường viết lách của Ủy. Trong lời đề tựa cho cuốn sách, anh cho biết “chi phí in ấn khá cao” khiến cho việc in tác phẩm này mất nhiều thời gian và cần sự giúp đỡ của nhiều người có thiện chí với nghệ thuật. Cho nên, khi cầm cuốn sách trên tay, độc giả “cảm thấy được sức nặng của bao khó nhọc, bao quyết tâm và bao tấm lòng.”
Nhưng nói chung, dù là làm gì
và làm cho ai, tôi thấy trong đó có tấm lòng của anh đối với văn học nghệ thuật
Việt Nam, đúng không? Đó có phải là động lực thúc đẩy anh làm việc? Hay có yếu
tố nào khác?
PPM: Đang làm báo, sao
lại nhảy vào việc xuất bản?
Mọi chuyện tình cờ thôi.
Tháng 7 năm 2002 tôi thực hiện số đặc biệt về Nhất Linh, khá tốt, với sự yểm trợ
tài liệu của cô Kim Anh con ông Trương Bảo Sơn từ Canada, và Nguyễn Tường Thiết
từ Seattle mà tôi mới quen biết. Số báo đó bán chạy, một thời gian ngắn là tuyệt
bản, đó là một hiện tượng hiếm có trong làng báo. Nhiều người gửi thư về tòa soạn
hỏi mua, vì địa phương của họ không còn số nào. Đến một lúc tòa soạn cũng hết
luôn, tôi nghĩ phải làm một cuốn sách, chứ có ai đi “tái bản” một số báo bao giờ.
Thế là tôi bắt tay làm cuốn Nhất Linh Người Nghệ Sĩ Người Chiến Sĩ, với
bài vở lấy từ số báo cũ cộng thêm một số bài viết mới. Vì tài liệu về Nhất Linh
phong phú và thú vị quá nên tôi quyết định làm một cuốn sách thật đẹp, in màu
trên giấy láng. Được cái, tuy nhà xuất bản là Thế
Kỷ (do Điểu sáng lập, đã xuất bản một số sách), nhưng tất cả kinh
phí in ấn lần này đều do Người Việt đài thọ
hết.
Đến Tuyển Tập Võ Phiến cũng thế, tôi đứng ra chủ trương nhưng nhật báo Người Việt lo chuyện in ấn bên Đài Loan, theo chỉ dẫn của chị Trương Anh Thụy in tại nhà in quen, do một người Tàu Chợ Lớn quản lý. Tôi giới thiệu nhà in này cho một số bạn bè, từ đó Song Thao cho đến hôm nay vẫn còn in Phiếm với ông Tàu Chợ Lớn này.
Sau vụ này tôi “đỡ đầu” việc
xuất bản sách của một tác giả mới của Thế Kỷ 21, là
Nguyễn Văn Thực bên Na Uy, quyển Người Thích Nhìn Vú và Bên Giòng
Sông Hằng. Rồi đến sách của Nguyễn Đức Tường, Tà Áo Văn Quân.
Cuốn Nghệ thuật tạo hình
Việt Nam của Huỳnh Hữu Ủy thoạt đầu tôi cũng có ý định tự mình xuất bản,
nhưng sau thấy quy mô cuốn sách lớn quá so với sức của mình, tôi phải chia sẻ
công việc và trách nhiệm cho nhiều người mới thành được. Nhờ sự tháo vát của lớp
trẻ thuộc hội VAALA (Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ) mà Y Sa, con của Lê Đình
Điểu, là người đứng đầu, từ sắp xếp lại nội dung, tìm nhà in bên Đại Hàn, vận động
tài chánh cho đầy đủ sách mới xong (phải có số tiền 20 ngàn đô la mới bắt đầu
được, trong đó tôi kiếm được 10 ngàn). Hội VAALA cũng do anh em Người Việt
thành lập vào đầu thập niên 1990, sau khi Điểu lâm bệnh nặng và qua đời thì Hội
được chuyển lại cho lớp người trẻ.
Riêng cuốn Xe Lên Xe Xuống
của Nguyễn Bình Phương tôi in năm 2011 khi không còn tạp chí Thế Kỷ 21 nữa, mà đã bắt đầu thời kỳ
Diễn Đàn Thế Kỷ (một tờ báo mạng do
tôi phụ trách từ năm 2010). Một người quen với tôi ở Hà Nội trình bày với tôi
Nguyễn Bình Phương vừa viết một cuốn sách rất đặc biệt, có nhu cầu xuất bản ở hải
ngoại vì trong nước chắc chắn bị cấm. Thời gian này tôi không có ý định làm xuất
bản nữa, nhưng khi nghe như vậy, tôi bảo gửi bản thảo cho tôi, đọc xong tôi quyết
định xuất bản ngay. Cũng hơi liều, lần này in sách phải lấy tiền nhà mà trả chứ
Diễn Đàn Thế Kỷ không có đồng xu
nào. May mà cũng thu được vốn, và gửi sách thay nhuận bút cho tác giả đầy đủ.
Quyển cuối là Kỷ Yếu hội thảo
Tự Lực Văn Đoàn, lấy tiền bá tánh mà in (mượn, hoặc tặng), rồi cũng in được
đàng hoàng và trả hết nợ.
Tôi in một quyển sách khi nào
tôi thấy cuốn đó cần in hay đáng in, chỉ có hai tiêu chuẩn đó thôi. Khi lời khi
lỗ, khi vận động người khác yểm trợ chi phí, nhưng hình như không lúc nào tôi
có cảm giác được “lời” về tiền bạc. Ví dụ cuốn Kỷ
Yếu sau khi thu hồi được vốn, có ai hỏi, tôi tặng chứ không bán nữa
(trừ các nhà sách).
Nhân đây tôi xin nói thêm về
một sinh hoạt văn hóa khác do tôi sáng lập năm 2003 còn hoạt động tới ngày nay,
đó là cuộc Thi Vẽ Thiếu Nhi nhân dịp Tết Trung
Thu. Năm đó ngoài việc làm báo Thế Kỷ 21, tôi
còn lo đài phát thanh VNCR, có lẽ vì công việc hằng ngày nhộn nhịp mà tôi nảy
ra ý tổ chức cuộc thi vẽ này. Ngay lần tổ chức đầu tiên tại báo Người Việt vào dịp Tết Trung Thu
năm 2003, cuộc thi vẽ đã đạt quy mô lớn với khoảng 300 thí sinh thiếu nhi và
thiếu niên, và có tiếng vang rất tốt về phẩm chất cũng như là một sinh hoạt có
ý nghĩa trong cộng đồng. Các năm tiếp theo thì hội VAALA đều đặn phụ trách tổ
chức tổng cộng đã được 12 lần, chỉ có Trung Thu năm nay 2016 thì tạm nghỉ một
năm vì Hội bận quá nhiều việc khác.
TDN: Hà nội trong mắt tôi, một bút ký nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và thấm thía. Tôi cũng đã từng ra Hà Nội nhiều lần và viết về Hà Nội như anh, qua bài “Lô Sơn Yên Tỏa.” Tôi tìm thấy rất nhiều điều tương đắc. Mấy chục năm sau, tuy bây giờ Hà Nội đã thay đổi nhiều, nhưng những nét chính, sản phẩm của một chế độ chính trị hà khắc, dường như vẫn thế. Tôi ghi lại vài đoạn:
– “Chỉ tiếc khi nhìn ngôi
sao trên đỉnh tháp Rùa thì trí tưởng tượng của tôi về câu chuyện con rùa đòi
thanh gươm của Lê Lợi không thể nào hoạt động được, nó tê cứng như con chuột bị
con rắn thôi miên vậy. Tôi tự hỏi có phải trong trường hợp nào cũng cần phải
đem cái hiện tại đè lên trên cái cổ truyền như thế không. Thỏa mãn một nhu cầu
nhất thời có khi lại làm hại một sự thành tựu đã lâu đời.”
– “Công thức sống tại
thành phố này là: tôi là trung tâm, cái gì không phải tôi chỉ là phụ. Mọi cái
xoay chung quanh là để phục vụ cho tôi, tôi tìm mọi cách khai thác cho mình tất
cả những gì có thể khai thác được trong tầm tay. (…) Còn nếu cố tìm một chữ để
diễn tả chung lối sinh hoạt của dân Hà Nội thì tôi thấy không chữ nào hơn là chữ
“tùy tiện.” Từ việc lưu thông trên đường, đến mua bán, đến lấy nước, tắm giặt…
tất cả đều theo một nguyên tắc: làm theo cách nào tiện lợi cho mình nhất thì
làm.”
Một đoạn trong bài “Chùa
là cái Thiện của làng”:
– “Tức là người dân trong
xã hội miền Bắc không những bị ngăn chặn thông tin với thế giới bên ngoài mà
còn bị ngăn chận với thế giới bên trong của họ: họ thiếu tôn giáo, thiếu hẳn sự
thể nghiệm, sinh hoạt cái tâm thức vô cùng sâu thẳm và phong phú vốn con người
ai cũng có.”
PPM: Không ngờ Nho đọc lại “Hà Nội trong mắt tôi,” tôi rất cảm động…
TDN: Tôi đọc cuốn này
lâu lắm rồi, từ khi mới qua Mỹ, sách do Nguyễn Mộng Giác gửi tặng. Và mới đọc lại
đây.
PPM: Tôi viết bài Hà
Nội trong mắt tôi tại Sài Gòn sau khi đi Hà Nội chơi trong một tháng mùa hè
năm 1989. Một tháng ở nhà ông anh ruột, đảng viên, trung tá, nhưng thời anh tôi
còn đi học tại trường Lê Khiết, Quảng Ngãi (1948-52) vẫn còn chịu ảnh hưởng của
hai ông anh rể đều là Quốc Dân Đảng, nên cái nhìn của ông anh về mọi sự khá
quân bình và hiểu biết chứ không giáo điều như những kẻ ít học hoặc bị bưng
bít. Ngay cả bà chị dâu, tốt nghiệp kỹ sư dệt tại Liên Xô, cũng có cái nhìn
thoáng, và đặc biệt bà ấy ghét Tố Hữu thậm tệ.
Chính hai ông bà rủ tôi đi
xem vở kịch Trái Tim Chó tại nhà hát lớn Hà Nội,
xem xong bà có vẻ bị sốc có lẽ vì không hiểu hết ý nghĩa sâu xa của kịch bản,
cho mãi khi đọc bài Hà Nội trong mắt tôi thì thắc mắc của bà mới được giải
tỏa. Bây giờ cả hai ông bà đều đã quy tiên, và tôi thấy cảm tình của tôi đối với
ông anh tập kết và chị dâu rất sâu đậm.
Nhờ ở Hà Nội một thời gian
lâu và được gặp gỡ tương đối nhiều giới qua vợ chồng ông anh, tôi đã quan sát
được những điều như Nho mới trích dẫn. Hà Nội bây giờ thì chắc bề ngoài thay đổi
nhiều lắm rồi, những cái ngô nghê như ngôi sao trên đỉnh tháp Rùa hẳn là đã được
dẹp bỏ, nhưng lắm điều đã gắn chặt vào tâm tính, tâm hồn người dân miền Bắc của
thời xã hội chủ nghĩa khắc nghiệt bây giờ cũng không cách nào gột rửa một cách
nhanh chóng được. Những thứ mà tôi gọi là “gắn chặt” ấy không nằm trong ý thức
hệ cộng sản đâu, tôi nghĩ hầu hết dân miền Bắc giờ này, với nhiều mức độ khác
nhau tùy trình độ, đều đã ngộ ra lý thuyết cộng sản là thứ dỏm. Cái còn dính
mãi trong tâm trí họ là hậu quả của cuộc sống kinh tế chỉ huy, là một cuộc sống
vừa bị đè nén vừa nghèo đói của thời xã hội chủ nghĩa. Nó đã tạo nên trong con
người sống thời đó một loại bản tính thứ hai, và mãi đến ngày hôm nay vẫn còn
phảng phất nơi họ như một thứ bản năng. Nếu so sánh thì thấy người miền Nam
khác hẳn, không hề có những đặc tính như vậy, mà tôi nghĩ phải trải qua những
năm tháng cực khổ thiếu thốn và bị đè nén như thế nào những dấu vết như thế mới
hằn đậm nét lên tâm tính của con người. Dĩ nhiên đây chỉ là nhận định tổng quát
của tôi, nhưng có nguồn gốc từ những quan sát cụ thể từ nhiều cá nhân mà tôi tiếp
xúc. Ít nhiều ai trong xã hội đó đều bị vướng vào cái mà tôi tạm gọi là bản
tính thứ hai ấy.Dĩ nhiên không phải là lỗi ở họ, mà ở chỗ chế độ khắc nghiệt mà
họ đã sống.
Phần tâm linh cũng bị méo mó
sau thời gian sống trong xã hội miền Bắc: nó mang tính thực dụng rõ rệt. Chính
quyền sau mở cửa càng tiếp sức để làm hư hỏng tín ngưỡng bằng những “lễ hội” đầy
mê tín với mục tiêu rõ rệt là kiếm tiền. Trong Hà Nội trong mắt tôi, tôi
chỉ quan sát lớp người cũ chưa ra khỏi ảnh hưởng của những năm cấm đoán tôn
giáo nghiệt ngã, vừa nhân danh xã hội chủ nghĩa vừa lý do chiến tranh. Hồi đó
chưa có những hiện tượng lễ hội hoành tráng nhưng rỗng tuếch về ý nghĩa như sau
này.
TDN: Tôi ra miền Bắc
nhiều lần, bon chen kiếm sống, đi nhiều nơi, nhiều vùng khác nhau (anh có thể đọc
thấy qua những bài ký đăng trên Thế Kỷ 21 và in lại
trong Loanh quanh những nẻo đường) nên nhận thấy cái chế độ chính trị
“hà khắc” này thoát thai từ ý thức hệ Cộng Sản, khiến cho nó “hà khắc” còn hơn
cái hà khắc của một bạo chúa ngày xưa. Chính cái ý thức hệ này, khi mang ra áp
dụng, tạo ra những biến tướng, những dị bản trong tâm lý người dân, lắm khi người
ta không tìm thấy sự liên hệ. Hồi đó, khoảng năm 1983, có lần tôi đi tàu lửa,
xuống ga Vinh, chứng kiến cảnh hàng chục người vây quanh đánh đập liên tục và
không thương tiếc một cậu thiếu niên chỉ vì bắt gặp cậu ta ăn cắp một cái trứng
gà, trong lúc những người khác chứng kiến một cách khoái trá. Mới nhìn, ta thấy
có vẻ như chứng tỏ những người đó rất ghét cái ác, cái bất lương. Thực ra, tôi
nhìn thấy có vẻ như họ thiếu cái ‘thiện” thông thường, trả thù cái “hà khắc” bằng
sự hà khắc với nhau. Một cách giải tỏa tâm lý.
Nhưng thôi, hãy trở lại chuyện
văn chương. Hầu như tất cả các hoạt động của anh đều dính líu trực tiếp đến văn
chương. Và anh viết văn. Rất văn. Nhưng trông bộ anh không quan tâm đến chuyện
sáng tác mấy. Truyện không thấy viết. Thơ không hề thấy. Sau Hà Nội trong mắt
tôi, tập hợp những bài viết in rải rác đó đây, về sau này, anh viết khá nhiều:
giới thiệu sách, những bài bút ký, những bài điểm sách, giới thiệu sách hay những
bài tản mạn khác về văn học, văn hóa, chính trị…Nhiều bài đọc rất thấm, chẳng hạn
bài “Vang bóng một thời sắp qua”.
Anh quan niệm MÌNH như thế
nào? Và anh nhìn văn chương như thế nào?
PPM: Chuyện tôi không
viết văn thì rất rõ, nhưng Nho là người đầu tiên phát giác là tôi không hề sáng
tác. Tôi tự biết điều đó từ lâu. Truyện ngắn đầu tiên và cuối cùng tôi viết là
đăng trên báo xuân của trường Chu Văn An niên khóa 1959-60, khi tôi học Đệ Nhất
C ở đó. Tôi không bao giờ làm thơ. Nói chung, tôi không có năng khiếu sáng tạo.
Những gì tôi viết thiên về nhận xét, bình phẩm một cái gì đó, ngay cả ở các du
ký. Khuynh hướng ấy nếu đẩy cao một chút nữa thì có thể là nhà phê bình, nhưng
vì tôi không học cao về lý thuyết văn chương, nên chỉ làm người điểm sách. Mình
biết cái tầm của mình chỉ ngang đó.
Những bài có chút trình độ
“văn” của tôi chính là các tùy bút, vẫn chứa nhiều nhận xét, bình phẩm, ít khi
mang được tình cảm của mình vào. Thì cũng có lúc cảm khái, chẳng hạn khi thấy cả
một thế hệ của nhà văn miền Nam sắp đi qua, ghi xuống một chút tình cảm xúc động.
Chút ít như vậy thôi. Hình như ngòi bút của tôi lý trí nhiều hơn tình cảm, và
thiếu chất tài hoa. Trong các bài thi thời trung học không bao giờ tôi chọn luận
đề văn chương, mà chỉ viết về “nghị luận luân lý” hoặc cái gì tương tự. Cái
“tôi” viết lách tóm lại chỉ có bấy nhiêu.
TDN: Tôi chẳng “phát
giác” cái gì cả. Chưa hề đọc được sáng tác nào của anh thì bảo anh chưa hề sáng
tác, thế thôi. Một cách hỏi để được trả lời ấy mà.
Ngược lại với nhận xét của
anh về mình, tôi nhận thấy những bài viết của anh, chất văn rất nhiều, lại đậm
đà hơn nhờ những suy gẫm. Có thể nói là một loại văn-triết. Văn lai triết. Loại
văn lai lai này khiến nó trông có vẻ …nghị luận, nói theo kiểu của anh. Thì
tránh sao được. Bao năm lặn sâu vào những suy tư triết học làm sao không “méo
mó nghề nghiệp”. Chả thế mà nhìn sự vật bao giờ cũng nhìn qua lăng kính của những
cảm nhận của một người suy tư. (Tôi cũng học triết, nên có người chê tôi là
cách viết văn của tôi khi nào cũng mang tính lý sự.) Văn triết cũng là văn.
Nhưng nhất định không phải là nghị luận luân lý. Những bài viết của anh đậm đà
chất tùy bút. Nó lang bang, nhưng không lang bang …một cách vô định. Này nhé,
“Nhưng các đám mây tím ấy
mang một vẻ đẹp kỳ lạ. Cao mà không ngạo, tím mà thanh thoát, như một lời hẹn
hò mà không mong sự tương phùng. Nó là một nỗi bâng khuâng. Nó đưa người ta
trong một chốc lát vào một tâm cảnh huyền hoặc tựa hồ trong dáng vẻ và màu sắc ấy
có chất ma túy nhẹ và loãng nhưng đủ gây một ma lực khiến bâng khuâng, tưởng
như trong ấy cảnh và người của một kiếp xa xôi nào đấy, nhưng lâng lâng niềm
vui chờ mong của một cuộc hẹn hò mãi mãi.” (“Hoa tím bâng khuâng,” Phạm
Xuân Đài)
PPM: Cám ơn Nho…
TDN: Ngoài việc điều
hành trang mạng Diễn Đàn Thế Kỷ, anh còn dự tính gì
cho những hoạt động tương lai?
PPM: Ngoài chuyện làm
báo, hiện nay tôi đang viết hồi ký. Đó không phải là một “dự định” mà là một việc
tôi đã bắt đầu làm khá lâu rồi, có thể từ mươi năm nay, nhưng còn mịt mù không
biết bao giờ thì xong. Vì thế cuốn hồi ký ấy cũng có thể coi là một công việc của
tương lai.
Tôi viết không liên tục, thường
hay bỏ dở dang khi bận những việc khác. Có dạo Thơ Thơ khuyên tôi một ý rất
hay, là đừng viết hồi ký theo lối biên niên, mà theo từng sự việc nổi bật trong
đời. Theo lời khuyên ấy tôi đã viết cho Da Màu bài Tết năm Đinh Hợi-1947, là
cái tết cuối cùng ở làng trước khi gia đình tôi đi tản cư. Tính tôi hay bỏ dở
dang công việc lắm, khi qua cơn hào hứng ban đầu tôi xao lãng dần, có khi quên
phứt luôn. Một số bài du ký tôi đăng trên Thế Kỷ 21 trước
đây cũng ở trong tình trạng dở dang như vậy. Được cái báo một tháng mới ra một
lần nên độc giả cũng chẳng để ý, mà chính tôi cũng chẳng để ý, coi như quên
luôn, coi như bài ấy đã kết thúc rồi. Rồi cũng xong.
Vì thế “dự án lớn” hồi ký
đời tôi không biết có dấu chấm hết trước khi tôi chết không, dù là viết
theo biên niên hay theo sự kiện. Dù năm nay tôi đã 78 rồi tôi cũng không cảm thấy
cần phải nhanh với chứ vội vàng lên với chứ chút nào hết. Mọi việc vẫn
tà tà theo cái cách của tôi, tới đâu thì tới.
Việc viết hồi ký là thiết
thân với mình mà tôi còn cà rề như vậy, huống chi các việc khác liên quan đến
những vấn đề như văn học, chính trị, xã hội… thì tôi càng thấy “lỏng lẻo” lắm,
vì cảm nhận rất rõ lực bất tòng tâm rồi. Có lẽ chỉ còn một việc mà tôi
cho là rất đáng làm bây giờ, đó là nghiên cứu kinh Phật. Đôi khi tôi tự hỏi, đến
khi nào thì trí tuệ và tâm linh mới nhập được làm một đây ?!
TDN: Mừng anh! Hy vọng
điều này sẽ giúp anh luôn luôn tìm thấy bình an trong tâm hồn.
Nhưng trước khi chấm dứt câu
chuyện, xin hỏi anh một câu hỏi có hơi riêng tư một chút. Tên anh là Phạm Phú
Minh, “Phạm Phú” ở đây có liên hệ gì đến nhân vật Phạm Phú Thứ trong lịch sử?
PPM: Tôi là cháu cố trực
hệ (ba đời) của ông Phạm Phú Thứ, người làm phó sứ cho phái bộ Phan Thanh Giản
đi sứ qua Pháp năm 1863 dưới thời vua Tự Đức.
TDN: Thì ra thế! Là hậu
duệ của một nhân vật lịch sử, anh có cảm tưởng gì đặc biệt về ông cụ cố?
PPM: Làm cháu của một
danh nhân thì luôn luôn có một niềm vinh dự, nhưng nhiều khi cũng… bứt rứt. Tôi
có một bà cô ruột (chị của cha tôi), một lần trước 1975, khi ấy cô đã ngoài tám
mươi, đã hỏi tôi rằng: “Như anh Hiển của con, qua Pháp đi học đậu được bằng cấp
như thế, thì đã bằng ông cố ngày xưa chưa?” Cô của tôi, một bà già không biết
chữ suốt đời lo việc tằm tang, tại sao đã hỏi tôi một câu như thế? Rõ ràng là
trong tâm hồn cô tôi luôn luôn có sự theo dõi, so sánh và mong ước đám con cháu
được lừng lẫy. Nhưng một mảnh bằng tiến sĩ trên đất Pháp mà đem so sánh với sự
nghiệp của ông cố tôi, thì quả thật khó quá!
Theo tôi, ảnh hưởng quan trọng
nhất của tổ tiên đối với con cháu là việc tạo lập nên một nề nếp trong đời sống.
Nếu một nhân vật trong quá khứ đã đánh dấu được một thành công nổi bật nào đó về
nhân cách, về tài năng, về đức độ, về học vấn thì cả gia tộc được hưởng trực tiếp
nề nếp tinh thần của một cách sống, cách ứng xử cho hợp với đạo đức và danh dự
mà chúng ta gọi là gia phong. Một nhân vật sáng chói của một giòng họ lúc nào
cũng như hiện diện để nhắc nhở con cháu một điều gì đấy, luôn luôn khiến mình
phải cảnh giác không phạm phải những điều không xứng đáng. Đó là cái tôi cảm thấy
rõ rệt nhất trong đời tôi, với tư cách là cháu của cụ Phạm Phú Thứ, một nhân vật
lịch sử.
(Thực
hiện qua email, từ tháng 6/2016 đến tháng 9/2016)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Doc rat cam dong
Trả lờiXóa