Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016
Phê bình văn học thế kỷ XX: Chương 12: Phê bình văn học Pháp Gaston Bachelard (1884-1962): Phê bình phân tâm tưởng tượng vật chất
- Chương 1- Ý thức phê bình
- Chương 2 - Sơ lược tiến trình phê bình trong thế kỷ XX
- Chương 3- Thi học Aristote
- Chương 4: Phê bình cũ - Phê bình mới hay Marcel Proust chống Sainte-Beuve
- Chương 5: Phê bình phân tâm học (bài 1)
- Chương 5 Phê bình phân tâm học (bài 2)
- Chương 6: Ngôn ngữ học
- Thụy Khuê - Phê bình văn học thế kỷ XX Chương 6 Ngôn ngữ học
- Chương 7: Trường phái Hình Thức Nga (bài 1)
- Chương 7: Trường phái Hình thức Nga (bài 2)
- Chương 8 Những nhà cấu trúc Nga
- Chương 9: Bakhtin và xã hội học văn chương (Bài 1)
- Chương 9: Bakhtin và xã hội học văn chương (Bài 2)
- Chương 9 :Bakhtin và xã hội học văn chương (Bài 3)
- Chương 10: Phê bình bác ngữ học Đức (Bài 1)
- Chương 10: Trường phái Bác ngữ học Đức (Bài 2)
- Chương 10 Trường phái bác ngữ học Đức (Bài 3)
- Chương 11 : Phê bình ý thức (Bài 1)
- Chương 11: Phê bình ý thức (Bài 2)
- Chương 12: Phê bình văn học Pháp: Jean-Paul Sartre (1905-1980) (Bài 1)
- Chương 12: Phê bình văn học Pháp: Jean-Paul Sartre (1905-1980) (Bài 2)
- Chương 12: Jean- Paul Sartre (1905-1980) - (Bài 3)
- Chương 12: Phê bình văn học Pháp Gaston Bachelard (1884-1962)
Thực ra, chữ phân tâm (psychanalyse) có hai nghiã: nghiã thông
dụng thường để chỉ phân tâm học của Freud và nghiã từ nguyên, ít dùng hơn, đồng
nghiã với phân tích (analyse). Sartre và Bachelard dùng chữ psychanalyse
trong nghĩa phân tích sâu sắc; và để phân biệt cả hai ông đều gọi
phân tâm của Freud là phân tâm học cổ điển (la psychanalyse classique).
Chúng tôi đã trình bày phân tâm hiện sinh hay phân tích hiện sinh
của Sartre trong ba bài trước: Sartre bác bỏ hẳn khái niệm vô thức của Freud, ông
cho rằng phân tâm cổ điển (Freud) cốt yếu tìm ra cái mặc cảm của
người viết, còn phân tâm hiện sinh tìm đến sự lựa chọn tiên thiên
của mỗi tác giả. Bachelard không bác bỏ khái niệm vô thức của Freud và ông có dùng
khái niệm mặc cảm, nhưng trong nghiã khác hẳn với sự dồn nén libido của
Freud, và ông lập ra một lý thuyết văn học hoàn toàn mới lạ dựa trên bốn nguyên
tố căn bản của vũ trụ: nước, lửa, đất và không khí. Tóm lại, Bachelard và
Sartre cùng coi tưởng tượng là yếu tố nguyên khởi của sáng tạo, nhưng đi
trên hai đường khai phá hoàn toàn khác nhau.
Tuy không đạt tới sự thuyết phục cao độ trong biện chứng như Sartre, phong
cách phê bình của Bachelard cũng đã ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, đặc biệt đến một số cây bút phê bình ở miền Nam Việt Nam, trước 1975;
rất có thể vì triết học học của Bachelard uyển chuyển và thanh thoát, ngụ ẩn
tinh thần thi ca và hội họa Đông Phương, tựa như những bức Đầm sen (Nymphéas)
của Claude Monet. Bachelard chủ trương rằng óc tưởng tượng của con người
dựa trên bốn nguyên tố chính: Lửa, Nước, Đất, Không khí. Và ông
tìm mối tương quan của bốn yếu tố nguyên khởi ấy trong cấu trúc vật chất và cấu
trúc tưởng tượng.
Gaston Bachelard (1884-1962) là một triết gia tự học.
Sinh trong một gia đình nghèo, ông là nông dân, cha là thợ khâu giày, học xong
tiểu học, Bachelard vào làm nhân viên bưu điện (1903-1905) rồi được thăng thư ký
và lên làm việc ở Paris (1905-1913). Ông không ngừng tự học buổi tối và đỗ cử
nhân toán năm 1912. Sau thế chiến thứ nhất, ông được chuyển sang dạy lý hoá ở
một trường trung học. Vẫn vừa làm vừa học, năm 1922, đỗ thạc sĩ triết học
(agrégation de philosophie) và 1927, trình luận án tiến sĩ văn chương. Trở thành
giáo sư triết tại đại học văn khoa Dijon từ 1930 đến 1940, sau đó, được thăng chức
giáo sư có giảng đàn ở Sorbonne. Những tác phẩm đầu của
ông, thuộc địa hạt triết học và khoa học.
Từ 1931, Bachelard đã dùng triết học để phân tích một tác phẩm văn chương,
mở đầu với cuốn: Trực giác của khoảnh khắc. Nghiên cứu về "Siloë"
của Gaston Roupnel (L'Intuition de l'instant. Études sur la
""Siloë" de Gaston Roupnel), in năm 1932. Sau đó là cuốn Những trực giác nguyên tử luận, Tiểu luận về
phân loại) (Les intuitions atomistiques, Essais de classification), in năm 1933,
phân tích và khảo cổ tư tưởng khoa học theo đà tiến triển.
Bachelard thực sự nổi tiếng và có ảnh hưởng từ 1938, với những tác phẩm khai phá tưởng tượng và mộng mơ,
như một vùng đất lạ trong con người, như những yếu tố nguyên khởi của sáng tác,
in trong khoảng 1938-1948. Đó là phần cốt yếu
trong tư tưởng của Bachelard.
Nếu tâm lý học truyền thống cho rằng con người nhìn
thấy trước, rồi nhớ lại, và sau cùng mới tưởng tượng, thì Bachelard,
ngược lại, cho rằng: con người tưởng tượng trước, rồi mới nhìn thấy,
và sau cùng mới nhớ lại. Đó là điều cốt yếu đầu tiên trong lý thuyết văn
học của ông. Như vậy, Bachelard đặt vấn đề tưởng tượng lên hàng đầu
trong sinh hoạt tinh thần, và từ đó, ông xây dựng lý thuyết triết học về văn
học.
Những mộng mơ, những thần thoại hoang đường, những
tưởng tượng lạ lùng không thể mường tượng được trong đầu óc con người, được ông
mổ xẻ, phân tích, trong bối cảnh của bốn nguyên tố khởi sinh cuộc sống: nước,
lửa, đất và khí trời. Theo đó, Bachelard hình thành điều cốt yếu thứ nhì: mọi
giấc mơ, mọi thành tố của hình ảnh trong văn chương đều xây dựng trên bốn yếu
tố vật chất nguyên khởi ấy, tức là đều đi từ vật chất để dẫn về vật
chất. Tóm lại, mơ mộng sáng tạo bắt nguồn từ vật chất.
Tên những tác phẩm của Bachelard đã nói lên tư
tưởng đặc thù của nhà bác học này: Phân tâm lửa (La psychanalyse du feu),
1938; Nước và Mơ (L'eau et les Rêves), 1943; Không khí và Mộng mơ (L'air
et les Songes), 1943; Đất và mặc tưởng ý chí (La terre et les rêveries
de la volonté), 1948; Đất và mơ mộng im lìm (La terre et les rêveries du
repos), 1948 ; Thi học không gian (La poétique de l'espace),
1957 ; Thi học mộng mơ (La poétique de la rêverie), 1960, v.v... Trong
bài viết này, chúng tôi giới thiệu hai cuốn sách chủ yếu của ông: Phân tâm
lửa và Nước và mơ.
Phân tâm lửa (La Psychanalyse du feu)
Cuốn Phân tâm lửa (La psychanalyse du feu), xuất
hiện năm 1938, là tác phẩm đầu tiên của Bachelard trong khuynh hướng phân tâm tưởng
tượng vật chất. Bachelard đã xác định vị trí trung gian của triết học đối với
khoa học và thi ca như sau: "Trọng tâm của thi ca và khoa học đối
nghịch nhau. Nhưng triết học có thể làm cho hai ngành ấy trở nên bổ sung cho
nhau và liên kết chúng lại thành hai tương phản hữu ích"[1].
Tại sao Bachelard lại đem lửa ra làm đối
tượng hàng đầu để phân tâm? Bởi vì xưa nay lửa không những là một đối
tượng khảo sát khoa học, mà còn là đối tượng trong tình yêu, trong văn chương,
trong tất cả mọi trạng thái của đời sống như yêu thương, tranh đấu, giận hờn, ghen
ghét, và nhất là lửa là một trong bốn nguyên tố cơ bản: nước, lửa, đất và khí trời.
Lửa là khởi nguồn của đời sống ẩm thực, con người có lửa là có thức ăn chín, có
văn minh.
Bachelard quả quyết một khi đã phân tâm được lửa,
đã biết được về lửa, chúng ta có thể tiếp tục phân tâm những yếu tố khác như:
nước, khí trời, đất, muối, rượu, máu v.v...
Vậy mà lửa lại là một yếu tố mà chúng ta biết rất
ít, hoặc hầu như không biết gì về lửa. Về mặt khoa học, nếu hỏi những người có
thẩm quyền như những nhà bác học chẳng hạn, rằng: Lửa là gì? Thì họ thường trả
lời rất mơ hồ, hoặc lập đi lập lại một lối giải thích cũ rích, vô bằng chứng,
kiểu như: hai khúc củi khô cọ nhau thì ra lửa, sấm sét đánh vào cây thì ra lửa,
hoả diệm sơn phun lửa v.v... Đành rằng sấm sét đánh vào cây thì ra lửa, hoả
diệm sơn phun lửa, nhưng dù con người tiền sử có nhìn thấy những hiện tượng ấy,
nhưng từ việc nhìn thấy đến việc biết nó là cái gì, biết khả năng của nó, biết
lấy lửa mà dùng, rồi biết giữ được ngọn lửa ấy làm sao không tắt ngấm, là một
bước rất xa. Hay là những người thượng cổ trần truồng ấy, chỉ như những động
vật khác, thấy lửa cháy rừng là chạy? Và cũng lại đành rằng: hai hòn đá hay hai
khúc củi cọ sát nhau thì ra lửa, nhưng tại sao con người lại nghĩ ra rằng cứ
lấy hai khúc củi khô, cọ vào nhau thì sinh ra lửa? Sự trả lời của khoa học về
những câu hỏi này, không thoả đáng. Và Bachelard tìm một
cách trả lời khác bằng sự phân tâm vật chất.
Bachelard coi lửa như một thực thể sống
trong tiềm thức và vô thức của con người, và nó được bộc lộ ra ngoài dưới ba
hình thức mặc cảm, mà Bachelard lần lượt đặt tên là:
1- Mặc cảm Prométhée (complexe de Prométhée)
hay mặc cảm con muốn vượt cha.
2- Mặc cảm Empédocle (complexe d'Empédocle)
hay mặc cảm tự thiêu, là mặc cảm mơ mộng, muốn nhập mình trong ngọn lửa thiêu
huỷ, ngọn lửa tiêu biểu cho sự sống và sự chết.
3- Mặc cảm
Novalis (complexe de Novalis) hay sự tìm về nguồn gốc lửa: Lửa là sản phẩm
của tình yêu, sản phẩm của sự cọ sát thân thể, của dục tình.
Bachelard bắt đầu bằng sự nhận xét mối tiếp xúc của
con người với lửa, từ thủa nhỏ: Cha mẹ cấm không cho ta sờ tay vào lửa. Kỷ niệm
đầu tiên về lửa là một sự cấm kỵ. Nhưng lửa cũng là lửa ấm gia đình, là
cái gì thân thiết nhất, sâu xa nhất của con người. Ông viết:
"Lửa vừa ở trong nội tâm ta vừa là của chung. Lửa sống trong tim ta.
Lửa sống trong trời đất. Lửa bốc lên từ sâu thẳm của bản thể và cống hiến như
tình yêu. Lửa lên từ những chiều sâu của thể chất (substance) và tự hiến như một
tình yêu. Lửa xuống lại trong vật chất (matière) và lẩn trốn ở đó, âm ỷ, ngấm
ngầm như oán hận và phục thù. Lửa là hiện tượng duy nhất có thể nhận cả hai giá
trị tương phản nhau: tốt và xấu. Lửa sáng Thiên đàng, lửa thiêu Địa ngục. Lửa
êm ấm và lửa dày vò. Lửa trong bếp và lửa tận thế. Lửa gây thích thú cho đứa bé
ngoan ngoãn ngồi chơi bên lò sưởi, nhưng lửa trừng phạt ngay khi ta dám thò tay
vào lửa. Lửa là niềm an lạc và lửa được tôn trọng. Lửa là vị thần, hộ mệnh và khủng
khiếp, tốt và xấu. Lửa lập luận và phản bác, vì thế lửa là một trong những
nguyên tắc biện minh phổ quát"[2].
Và ông viết tiếp: "Và
như thế lửa là một thực thể xã hội hơn là một thực thể tự nhiên". Như
vậy: "Sự kính trọng lửa là sự kính trọng do giáo dục xã hội mà có.
Không phải tự nhiên mà có"[3]. Đứa bé định thò tay vào
lửa thì bị bố đánh ngay, trước khi nó kịp thò tay để biết lửa như thế nào. Vậy
lửa là đối tượng cấm tiệt, do đó, ta có thể kết luận rằng: Tuyệt đối cấm là cái
biết đầu tiên của chúng ta về lửa. Nhưng đứa nhỏ bị cấm sẽ tìm cách phạm cấm, bởi
nó cũng muốn làm giống bố, nó sẽ lấy trộm vài cái diêm để dóm lửa, nó trốn ra vườn,
thử bật diêm chơi, xem lửa thế nào.
Sự kiện đứa bé muốn làm giống bố, Bachelard gọi là mặc cảm Prométhée
của đứa nhỏ. Nó muốn biết bằng cha nó, nó muốn biết hơn cha, nó muốn biết bằng
thầy, nó muốn giỏi hơn thầy. Tóm lại, theo Bachelard, mặc cảm Prométhée nơi người
con trai muốn vượt bố là thứ mặc cảm Oedipe trong đời sống tinh thần. Prométhée là tên một vị thần trong thần thoại Hy Lạp, vì
thương loài người cho nên đã lấy cắp lửa của các vị thần linh trên thiên đình đem
xuống hạ giới cho loài người. Prométhée bị Zeus trừng trị, bắt xích trên núi
Caucase, và cho một con đại bàng đến rỉa gan, nhưng đại bàng rỉa đến đâu, gan
chàng lại mọc ra đến đấy. Sau Héraclès giết con đại bàng giải thoát cho
Prométhée. Truyền thuyết Prométhée ảnh hưởng sâu rộng trong văn học Tây phương.
Mặc cảm thứ nhì về lửa, được
Bachelard gọi là mặc cảm Empédocle. Empédocle là triết gia Hy Lạp có một bút pháp
đầy chất thơ, tương truyền ông đã lên miệng núi lửa Etna để gieo mình.
Bachelard cho rằng: sự mơ mộng của con người dưới ánh lửa là những mơ mộng nguyên
khai. Lửa mời gọi tĩnh lặng nghỉ ngơi, nhưng đồng thời lửa cũng có thể gợi đến
những khao khát thay đổi, đến phá vỡ thời gian, đến sự cắt đứt cuộc đời. Và khi
ấy, mơ mộng trở nên bi kịch, nó có thể làm thay đổi định mệnh, nó nối liền cái
nhỏ bé với cái vô cùng, nó bắc cầu bếp lửa với hoả diệm sơn, và kẻ mơ màng ngắm
lửa sẽ bị quyến rũ, sẽ rơi vào tiếng gọi của giàn thiêu đuốc lửa. Nơi một cá nhân
như thế, sự giải thoát trong lửa sẽ là một khởi đầu. Và cái mặc cảm tự hủy trên
giàn thiêu đuốc tuệ ấy, Bachelard gọi là mặc cảm Empédocle.
Mặc cảm thứ ba, Bachelard
gọi là mặc cảm Novalis, giải thích nguồn cội của lửa. Novalis là nhà thơ lớn người
Đức thế kỷ XVIII. Thơ ông diễn tả vũ trụ nguyên khai. Ông chủ trương tâm hồn và
vũ trụ hoà đồng là một. Trong phần phân tâm lửa thứ ba này, Bachelard xác định:
nguồn gốc lửa phát xuất từ con người. Lửa chính là sản phẩm của tình yêu, của
dục tình. Con người tìm thấy lửa qua kinh nghiệm bản thân trong sự cọ sát hai
thân thể.
Bachelard bác bỏ những cách
giải thích thông thường, cho rằng người tiền sử kiếm ra lửa nhờ dùng hai khúc củi
khô cọ sát nhau. Nhưng không ai chứng minh được rằng tại sao những người tiền sử
đó lại nghĩ đến sự cọ sát thì ra lửa? Một vài tác giả cho biết thêm: bởi vì cháy
rừng. Mà rừng cháy là do các thân cây khô cọ sát nhau trong mùa hè nóng bỏng.
Nhưng đó cũng chỉ là giả thiết, hiện tượng cháy rừng do cây cối cọ sát nhau chưa
từng được ai nhìn thấy, hoặc kiểm chứng. Người ta bèn bảo cháy rừng là tại sốc.
Về nguyên do phát sinh
ra lửa, không ai nghĩ đến đó là một hiện tượng đã được chuẩn bị lâu dài trong
thời gian, nó cũng từ từ như sự cọ sát hai khúc củi khô, rất lâu, rồi dần dần mới
sinh ra lửa. Và Bachelard đi đến kết luận sau đây: Không có một hiện tượng thiên
nhiên nào như sấm sét, cháy rừng, hay núi lửa, cho phép chúng ta nghĩ rằng người
tiền sử đã dựa vào những hiện tượng thiên nhiên đó để tìm ra lửa. Ông dẫn chứng
bằng lời sau đây của Schlegel:
"Chỉ mỗi sự phát
minh ra lửa (...) đã gặp những trở ngại không sao mường tượng được. Không có gì
tầm thường như lửa; nhưng con người có thể lang thang nhiều ngàn năm, trong sa
mạc, mà không bao giờ nhìn thấy lửa. Cứ thử cho con người tiền sử ấy một ngọn
núi lửa đang phun hay một khu rừng bị sấm sét đốt cháy: thì tấm thân trần
truồng dầy dạn gió mưa rét mướt bốn mùa ấy có chạy lại bên núi lửa hay đám cháy
rừng để sưởi ấm không? Hay là y sẽ chạy trốn. Lửa làm kinh hoàng động vật, trừ
loại gia súc đã quen với đời sống quanh bếp lửa. Mà cứ giả thử như người tiền sử
ấy lấy được lửa, thì y dùng cách gì để giữ cho khỏi tắt? Và sau khi lửa tắt thì
y làm sao để nhóm lại? Nhược bằng cứ cho rằng có hai thanh củi khô tự nhiên rơi
vào tay một người tiền sử, thì làm sao hắn biết rằng cứ cọ sát chúng với nhau
sẽ có lửa?"[4].
Đoạn văn trên đây của
Schlegel được Bachelard trích dẫn để chứng minh sự bế tắc toàn diện của cách giải
thích thuần lý về lửa. Và ông đề nghị: Nếu khoa học thuần lý bị bó tay thì sự phân
tâm, hay phân tích sâu sắc, có thể đưa ra một cách giải thích khác.
Tại sao con người biết rằng
sự cọ sát sẽ sinh ra lửa? Là bởi con người đã thấy một sự cọ sát khác, gây
sức ấm như lửa. Đó là kinh nghiệm bản thân: đó là sự cọ sát giữa hai thân thể, đó
là ngọn lửa dục tình. Tóm lại, người tiền sử quay về chính bản thân mình
để tìm kinh nghiệm về lửa, để sáng tạo ra lửa. Sự cọ sát để sinh ra lửa, con người
không học được ở thiên nhiên như núi lửa, cháy rừng, mà đã phát xuất từ kinh
nghiệm thể xác: hai thân thể cọ xát nhau, thì sinh ra hơi ấm, thì bốc cháy như
lửa. Và từ kinh nghiệm thân xác, con người áp dụng với hai khúc củi khô.
Bachelard luận tiếp: Nếu
chấp nhận như thế thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều rõ ràng sáng tỏ, từ ngôn ngữ đến
truyền thuyết: Tình yêu là nguồn cội sản sinh ra lửa, là một giải thích khoa học
đầu tiên, một giải thích phân tâm, phù hợp với thực tế. Và Prométhé là một tình
nhân cường tráng hơn là một triết gia quả cảm và sự trả thù của Zeus chỉ là cuộc
đánh ghen thuần túy, không hơn không kém. Bởi nếu việc tìm ra lửa khởi sinh từ
sự chinh phục thể xác, thì ta không còn ngạc nhiên khi thấy rằng: lửa đã mãnh
liệt đứng về phía dục tình từ muôn thuở trước. Ngôn ngữ loài người luôn luôn chứng
minh điều đó.
Trở lại văn học Việt
Nam, lửa trong những "lửa tâm càng dập càng nồng" của
Nguyễn Du, Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan, những cơn hoả mộng
của Nguyễn Tuân, lửa từ bi của Vũ Hoàng Chương, lửa Hà Nội của
Mai Thảo... đã đi vào cảm thức văn chương như một động lực sáng tạo sống động,
ngang ngửa với trời, đất.
Bachelard giải thích tiếng
sét ái tình (coup de foudre) như nguồn cội của những tia lửa mà ông gọi là những
hoả thể (être igné, hay hữu thể thoát thai từ lửa). Những hoả
thể sinh ra từ tiếng sét ái tình là những tia sáng li ti, những hạt mầm nở
ra những ngọn lửa tình mới.
Nước và Mơ (L'Eau et les Rêves)
Sau Phân tâm lửa, trong Nước và Mơ (L'eau
et les Rêves), viết năm 1941, in năm 1943, Bachelard bàn tới lý thuyết phân
tâm tưởng tượng vật chất.
Theo Bachelard, trí tưởng tượng của con người không
bắt nguồn từ một đồ vật cụ thể, như cái bàn, cái ghế, mà bao giờ cũng
bắt nguồn từ một vật chất: như nước, lửa, khí trời, đất, đá, máu,
v.v... Để độc giả tiếp nhận dễ dàng xác định này, ta có thể lấy ví dụ trong thi
ca Việt Nam: khi đọc câu thơ Nguyễn Du "Hương gây mùi nhớ trà khan
giọng tình" ta thấy ngay hương và trà là hai yếu tố
vật chất gây ra sự tưởng tượng về tình yêu và nỗi nhớ ở Kim Trọng. Hoặc
trong câu "Buồng văn hơi giá như đồng", yếu tố gây
tưởng tượng ở đây là hơi, và cả hơi lẫn đồng đều là vật
chất.
Bachelard không phân tâm nước, theo kiểu ông đã làm với lửa, ông xác định
mục đích của cuốn sách như sau: "Cuốn sách của chúng tôi còn là một
cuốn tiểu luận mỹ học văn chương. Nó có một mục đích kép: xác định bản chất
những hình ảnh trong thơ và xác định sự thích hợp những hình thức với những vật
chất cơ bản." (Notre livre reste donc un essai esthéthique littéraire. Il
a le double but de déterminer la substance des images poétiques et la
convenance des formes aux matières fondamentales)[5].
Nói khác đi, cuốn Nước và Mơ muốn trả lời hai câu hỏi:
1- Hình ảnh trong thơ được "làm" bằng gì?
2- Loại hình nào hợp với loại vật chất cơ bản nào.
Bachelard cho rằng bốn nguyên tố vật chất cơ bản:
nước, lửa, đất và khí trời là bốn nguyên tố chính mà óc tưởng tượng con người
dựa vào. Cho nên, khi muốn tìm hiểu cấu trúc thơ văn, đặc biệt những hình ảnh
trong thi ca, thì trước tiên phải xác định nguồn cội vật chất nào
đã khiến cho nhà thơ tưởng tượng ra những hình ảnh đó. Vì vậy tác phẩm Nước
và Mơ (L'Eau et les Rêves) của Bachelard còn có thêm tiểu tựa "Tiểu
luận về trí tưởng tượng vật chất (Essai sur l'imagination de la matière).
Nước và Mơ được viết với tâm hồn thi nhân nhiều hơn triết gia và khoa
học gia. Để bảo vệ lập thuyết của mình, về mối tương quan giữa nước và mơ,
Bachelard để ngòi bút buông theo cảm hứng, với những lời lẽ rất thơ mà nhận
định triết học, khoa học và tưởng tượng thi ca đan cài:
"Người ta không tắm hai lần trong cùng một
dòng sông, bởi vì, trong sâu thẳm con người đã có định mệnh một dòng nước chảy.
Nước
là yếu tố chuyển tiếp. Là sự biến đổi bản thể tất yếu giữa lửa và đất. Kẻ hiến
dâng cho nước là kẻ quay cuồng. Y chết dần trong mỗi phút giây, một cái gì đó trong
thể chất của y không ngừng trôi đi. Cái chết mỗi ngày không phải là cái chết
hoành tráng của lửa như những mũi tên chọc trời; cái chết mỗi ngày là cái chết
của nước. Nước luôn luôn chảy, luôn luôn ngã, luôn luôn tự kết liễu đời mình bằng
cái chết ngang. Qua hằng hà ví dụ mà chúng ta có thể tìm thấy trong tưởng tượng
vật chất: cái chết của nước mơ màng hơn cái chết của đất và niềm đau của nước là
vô tận"[6].
Ở đây, Bachelard xác định
lại một lần nữa lập thuyết: lửa phát sinh ra tình yêu và từ tình yêu. Con người,
sinh ra từ ngọn lửa (tình) và chết đi để về với đất. Người cũng như nước, chỉ là
một yếu tố trung gian -bởi sống là cõi tạm- của sự đổi thay bản thể giữa lửa và
đất. Còn nước, nước có vai trò gì trong cuộc sống này? Nước đem lại sự sống, nhưng
nước còn biểu hiện cái chết, cái chết hàng ngày, trong mỗi phút giây, bởi vì nước
"ngã", nước trôi, nước chảy đi, nước nằm ngang, nước cuốn về thuỷ
tận, là cõi chết. Vì thế cho nên, nước là yếu tố gây ra những tưởng tượng sâu
xa nhất trong con người về sự sống, cái chết, Bachelard viết:
"Tôi luôn luôn cảm thấy
cùng một nỗi sầu trước những dòng nước ngủ, một nỗi sầu đặc biệt như màu nước
ao trong rừng ẩm, nỗi sầu buông thả, mơ màng, chầm chậm, tĩnh lặng. Đối với tôi,
một chi tiết nhỏ li ti trong đời sống của nước cũng có thể trở nên một biểu
tượng tâm lý chính yếu. Cho nên, mùi cây bạc hà nước, gợi lại trong tôi một thứ
giao cảm bản thể, làm tôi tin rằng cuộc đời chỉ đơn thuần là một mùi hương,
rằng cuộc đời toả ra từ mỗi cá thể giống như mùi hương toả ra từ mỗi thể chất,
rằng cây cỏ mọc bên bờ suối toả ra tâm hồn của nước... Nếu tôi phải sống lại cho
tôi thần thoại triết học về bức tượng Condillac[7] thấy vũ trụ đầu tiên và ý thức đầu
tiên trong các mùi, thì thay vì nói như bức tượng: "Tôi là mùi hồng",
tôi phải nói "tôi trước tiên là mùi bạc hà, mùi bạc hà nước". Bởi vì con người trước hết là một thức tỉnh và con người
chỉ thức tỉnh khi ý thức thấy một cảm giác phi thường. Bản thân con người không
phải là tổng số những cảm giác chung chung, mà là tổng số những cảm giác lạ
thường mà y tiếp nhận. Như thế, những ấn tượng hiếm đã làm nẩy nở trong ta những
bí mật thân quen. Chính vì gần nước và gần hoa mọc dưới nước, tôi mới hiểu rằng
mộng mơ là một vũ trụ bốc mùi, và mùi hương toát ra từ sự vật là nhờ trung gian
của người đang mơ mộng. Nếu tôi muốn nghiên cứu đời sống những hình ảnh của nước,
thì tôi phải trả lại vai trò chủ yếu cho dòng sông, và cho những nguồn nước
trên quê hương tôi"[8].
Bachelard đã dùng kinh nghiệm bản thân,
từ nhỏ, khi ông tiếp xúc với mùi bạc hà nước, để dẫn con
người trở về nguồn cảm hứng tiên khởi, trở về vùng đất đã phát sinh ra những mơ
mộng đầu tiên của mình và đó là quê hương. Nhưng quê hương đối với ông, không
chỉ là một vùng địa lý, mà là vùng vật chất, và chính ở những vật chất ấy mà trí
tưởng tượng của con người phát sinh, nẩy nở và thành hình:
"Tôi sinh ở một
vùng nhiều sông và suối, hẻo lánh trong thung lũng Champagne, tên là Vallage vì
có nhiều lũng nhỏ. Đối với tôi, căn nhà đẹp nhất là căn nhà dưới trời sương
tháng mười, nằm trong lòng lũng, bên bờ nước chảy, dưới bóng thấp của thủy liễu
và miên liễu.
Cái thú của tôi là đi dọc
suối, ven bờ, theo chiều nước chảy, nước đem cuộc sống đến những nơi khác, làng
bên (...)
Nhưng quê hương là một vật
chất hơn là một diện tích, nó là đá, là đất, là gió mùa, là hạn hán, là nước, là
ánh mặt trời. Chính từ chốn ấy mà chúng ta đã vật chất hoá những mộng mơ của
ta, và cũng bởi quê hương mà những giấc mơ của ta trở thành thể chất, có được những
màu sắc cơ bản. Khi ngồi mơ mộng bên bờ sông, tôi hiến dâng tưởng tượng của tôi
cho nguồn nước, nước xanh trong vắt, nước làm ngát cánh đồng. Tôi không thể ngồi
cạnh một dòng suối mà không rơi vào những mộng mơ sâu lắng, không nhìn lại hạnh
phúc của mình... Mà cũng không nhất thiết cứ phải là dòng suối của quê tôi, cứ
phải là dòng nước của quê hương tôi. Dòng nước vô danh nào cũng có thể biết hết
bí mật của tôi. Vẫn một kỷ niệm ấy trở lại bên bất cứ dòng suối nào"[9].
Đất, đá, nước, khí trời...
ở Champagne đã tác động vào trí tưởng tượng đầu đời của Bachelard, nhưng không
hẳn thế, cả những dòng nước khác cũng có khả năng như thế, và như vậy,
quê hương chỉ là khởi thủy, là chỗ "dạy" cho ta bài học đầu tiên về tưởng
tượng, và sau đó óc tưởng tượng của ta "tiến" xa hơn, tức là nó có thể
"hội nhập" với bất cứ dòng nước nào, để tạo ra một hình ảnh. Từ một vùng trời khác, một quê hương
khác, ở chợ Chua Me, Động Kỳ Thức, Sa Kỳ, Hàn
Mặc Tử viết:
"Trăng là ánh sáng? Nhất là
trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm ảo kỳ, thơm thơm, và nếu nhà thơ lắng
nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả
tả...
Sông? Là một giải luạ bạch, không,
là một đường trăng trải chiếu vàng, hai bên bờ là động cát và rừng xanh và
hoang vu và thanh tịnh...
Thuyền đi êm ái quá, chúng tôi cứ ngỡ
là đi trong những vũng chiêm bao, và say sưa và ngây ngất vì ánh sáng."[10]
Hàn không có chủ đích chứng minh điều
gì, Hàn chỉ ghi lại những cảm giác, những hình ảnh hiện ra trước mắt, và những
biến đối bản thể của vật chất từ nước sang trăng, từ sông sang ngân hà, rừng
xanh, động cát... Nhưng những điều Hàn ghi đã cấp cho Bachelard một thực chứng
hiển nhiên về tưởng tượng vật chất, một thực chứng không thể chối cãi được.
Nhưng vì chưa đọc Hàn, chưa biết Hàn
đã chứng minh cho lập luận của mình, nên Bachelard vẫn tiếp tục chủ đích tìm cho
ra sức mạnh ngầm nào đã tạo nên hình thức và nội dung những hình ảnh, ông cho
rằng:
"Chỉ khi nào ta khảo sát những dạng
thức (formes) và tìm ra được vật chất nào đã tạo ra một dạng thức như thế, thì
ta mới có thể nói đến một học thuyết toàn diện về óc tưởng tượng của con người.
Khi đó ta mới thấy rằng hình ảnh là một thứ cỏ cây cần trời, cần đất, cần chất
liệu và dạng thức. Phải mất nhiều thời gian, nhiều khó khăn mới tạo được một
hình ảnh, đúng như nhận xét sau đây của Jacques Bousquet: "Để tạo ra một
hình ảnh, nhân loại cũng tốn công như để tìm ra một tính chất mới của cỏ
cây" (...)
Vậy chúng tôi tin rằng một triết thuyết về
tưởng tượng, trước hết phải tìm hiểu mối liên hệ giữa tương quan nhân quả vật
chất với tương quan nhân quả hình ảnh. Vấn đề này đặt ra cho nhà thơ cũng như
cho nhà điêu khắc. Hình ảnh trong thơ, cũng có, một vật chất"[11].
Như vậy, Bachelard chắc
chắn và quả quyết rằng: Vật chất "đẻ" ra hình ảnh. Lập luận của ông rất
đơn giản: nhờ vật chất
(như dòng suối, như cây bạc hà nước) mà ta có tưởng tượng, vì vậy nên ông gọi
tên tưởng tượng này là tưởng tượng vật chất. Tưởng tượng vật chất cấu
tạo nên hình ảnh, do đó hình ảnh nào cũng "có" vật chất ở trong.
Và ông viết tiếp những dòng
sau đây, có thể coi là lập thuyết đầy đủ của ông về tưởng tượng vật chất:
"Chúng tôi đã từng khảo
sát vấn đề [tưởng tượng] này. Trong cuốn Phân tâm lửa, chúng tôi đã đề nghị phân
định những loại tưởng tượng khác nhau qua dấu ấn của những nguyên tố vật chất đã
gây cảm hứng cho triết học truyền thống và vũ trụ luận cổ xưa. Thực vậy, chúng
tôi tin rằng có thể xác định trong thế giới tưởng tượng, một luật tứ nguyên
(loi des quatre éléments) xếp loại những tưởng tượng vật chất khác nhau, tùy
theo chúng dính với: lửa, nước, đất hay không khí (...) Muốn cho sự mơ mộng được
tiếp tục khá lâu bền và không chỉ lấp trống một giờ thoảng qua, để có thể viết
thành một tác phẩm, thì sự mơ mộng này phải tìm thấy cái vật chất của nó, [tức
là] phải có một nguyên tố vật chất nào cấp cho nó cái chất liệu, cái luật tắc,
cái chất thơ riêng của mình (...)
Lessius một tác giả xưa
đã viết trong cuốn "Nghệ thuật sống lâu" (L'art de vivre longtemps) như
sau: "Những cơn mộng của người hay nóng giận thất thường nghiêng về lửa,
về hoả hoạn, về chiến tranh, về giết người. Những cơn mộng của kẻ sầu não là
đám tang, là mộ phần, là yêu ma, là chạy trốn, là hố sâu, là tất cả những gì
buồn bã. Những cơn mộng của những kẻ nhiều mũi dãi thiên về sông hồ, lụt lội,
chết đuối. Những cơn mộng của kẻ nóng máu, là chim bay, là những cuộc đua, yến
tiệc, nhạc hội, cả về những điều mà người ta không dám gọi tên". Vì vậy, mơ
của những người buồn giận thất thường, về lửa. Mơ của những người sầu não về
đất. Mơ của những người nhiều mũi rãi, về nước, và những người nóng máu mơ bay
bổng như chim. Những cơn mơ của họ được tôi luyện trong một nguyên tố vật chất,
nguyên tố này xác định tính chất của giấc mơ. Nếu ta chấp nhận rằng, mỗi chứng
tật chung hiện rõ trên con người có thể liên đới với một sự chân thực mơ mộng sâu
sắc thì ta sẽ sẵn sàng đoán mộng một cách vật chất. Vậy bên cạnh sự phân tâm mơ
mộng, cần phải có một thứ phân tâm vật lý và phân tâm hoá học những giấc mơ. Sự
phân tâm rất vật chất này nối lại với những quy tắc xa xưa cho rằng những bệnh cơ
bản được chữa bằng những thuốc cơ bản. Yếu tố vật chất xác định bệnh và cũng chữa
bệnh. Ta đau vì mộng và ta cũng khỏi vì mộng. Trong vũ trụ luận của giấc mơ, những
yếu tố vật chất vẫn là những yếu tố cơ bản."[12]
Tóm lại, qua kinh nghiệm
bản thân, Bachelard nhận thấy mộng mơ được hình thành trên những yếu tố vật
chất; qua sách vở, ông tiến tới lập luận chúng ta có thể giải thích mộng mơ bằng
con đường vật chất và trong sự luận giải những mộng mơ, yếu tố vật chất là yếu
tố cơ bản. Trở về với nguyên tố nước, Bachelard nghiệm thấy rằng:
"Những nhà thơ vui,
sống như dòng nước chảy quanh năm, từ xuân sang đông: phản ảnh một cách dễ
dàng, thụ động, nhẹ nhàng tất cả bốn mùa. Những nhà thơ sâu sắc, thấy nước sống
động, nước tái sinh trong mình, nước bất biến, nước ghi bằng dấu hiệu không thể
xoá được, những hình ảnh của nó, nước là một bộ phận của thế giới, là chất dinh
dưỡng những hiện tượng chảy xuôi, là yếu tố thực vật, là đài gương, là xác thân
của những hạt lệ...
Nhưng, xin lập lại rằng:
Phải đứng rất lâu trước bề mặt ngũ sắc thì chúng ta mới hiểu được giá trị của
chiều sâu. Thử xác định một số nguyên tắc kết hợp những hình ảnh bề mặt, thì ta
sẽ thấy trường hợp cá nhân tự ngắm, tự yêu mình (narcissisme) nằm trong nguyên
tắc chung của vũ trụ tự ngắm" [13].
Và ông đi đến kết luận:
nếu nhận xét kỹ, chúng ta sẽ thấy tính cách nhất quán của nước. Và những hình ảnh
về nước thường được xắp xếp theo một trật tự có tổ chức. Vì vậy, đi từ sự tìm
hiểu nguồn thơ từ nước, ta có thể bước sang một thứ siêu thi học (métapoétique) về nước.
Tác phẩm Nước và Mơ,
từ đấy, đi sâu vào sự phân tâm nước, như một nguyên tố phát sinh mơ mộng trong nhiều
tác giả của văn học cổ kim Tây phương, Bachelard đi từ những dòng nước trong,
khởi sinh những hình ảnh thơ mộng thoáng qua, đến những dòng nước đục, nước nặng,
đưa ta vào khổ đau, cõi chết.
Chúng ta có thể thấy trong
thi ca và âm nhạc Việt: từ nước trong như Suối mơ, Bến xuân
của Văn Cao, Trăng mờ bên suối của Lê Mộng Nguyên, để tiến dần đến những
dòng nước sâu hơn, như Đêm tàn bến Ngự của Dương Thiệu Tước và
sau cùng đạt tới những dòng nước nặng, chở nỗi đau tuyệt vọng của con
nguời, kết tinh thành vật chất, như Lệ là những viên đá xanh, tim rũ rượi
của Thanh Tâm Tuyền.
Hoặc trong cùng một tác
giả như Nguyễn Du, vẫn là nước, nhưng mỗi thứ nước chuyên chở một tình huống khác:
nước trong gần gụi với những gặp gỡ mơ mộng ban đầu, tình yêu chớm nở:
Dưới dòng nước chảy
trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng
chiều thướt tha.
Vẫn làn nước ấy, vẫn Kim
Trọng ấy, mấy hôm sau, sâu hơn, nhớ thương đã chuyển sang màu khác, đã đạt
tới mức khổ đau, khuất biệt:
Nước ngâm trong vắt thấy
gì nữa đâu.
Và như thế, nước sẽ không
chỉ gồm thâu một nhóm hình ảnh quen thuộc, phát xuất từ sự ngắm nước thoáng qua
trong mộng mơ vơ vẩn, một chuỗi mơ màng vụn vặt chốc lát, mà nước đã trở thành
cột trụ nâng đỡ hình ảnh, nước trở thành kho tàng của hình ảnh, thành nguyên tắc
xây dựng hình ảnh. Ở những câu thơ đớn đau trác tuyệt, nước đã trở thành vật
chất, như trong thơ Hàn Mặc Tử:
Tôi dìm hồn xuống một
vũng trăng êm,
Cho trăng ngập trăng dồn
lên tới ngực.
Tưởng tượng vật chất của
Hàn đi từ trăng và nước, là hai nguyên tố chính trong thơ của
Hàn. Vũng trăng của Hàn vừa ghê vừa lạ. Câu thơ không đả động gì tới nước,
nhưng nước vẫn có mặt: giấc mộng của Hàn, trong cơn bệnh hoạn, vừa có trăng, vừa
có nước, Hàn phải quay về với nước. Ở đây, trăng chính là nước và
nước là trăng (vũng trăng, trăng ngập), và hồn là xác và xác
là hồn (dìm hồn). Như vậy, cả hai yếu tố trăng lẫn hồn đều
có khả năng vật chất hoá, tức là có thể lỏng ra hay đặc lại.
Lập thuyết của Bachelard giúp ta tìm ra được nguồn cội vật chất của những câu
thơ tuyệt vời, đồng thời xác định được bản lai chân diện mục của một nhà thơ: Một
nhà thơ tài năng phải có khả năng biến đổi thể chất, từ lỏng sang đặc hoặc ngược
lại.
Bachelard khảo sát thi
ca của Edgar Poe mà ông coi như là một thứ siêu thi (métapoésie)
đã đạt được nguyên tố nước là vật chất, nước mơ trong vật chất,
ông tìm đến định mệnh của nước trong thơ Edgar Poe, và thấy đó là định mệnh làm
cho vật chất sâu xa thêm, nước làm tăng giá trị của vật chất bằng cách cho nó
chở thêm nỗi đau của con người[14]. Khi ấy, đêm cũng trở
thành thể chất (subtance), nước cũng là thể chất. Chất đêm thầm kín hoà tan
trong chất lỏng, như thể trời đem bóng tối tặng cho nước[15] và trong sự lộn đảo đó:
nước sẽ không còn là chất lỏng để uống nữa mà chính nó sẽ uống bóng đêm.
Tất cả những biến đổi trạng
thái từ lỏng sang đặc, đặc sang lỏng của vật chất mà Bachelard tìm thấy trong
thơ Edgar Poe, chúng ta có thể tìm thấy trong những câu thơ hay nhất của Hàn Mạc
Tử và cũng đau thương nhất của thi ca Việt Nam, đó là những giọt lệ của
Hàn: Bao giờ mặt nhật tan thành máu.
Hoặc trong phút giây Hàn
trút linh hồn: Máu đã khô rồi thơ cũng khô.
Thụy Khuê
(Còn
tiếp)
[1] La
psychanalyse du feu,
Folio Essais, 1994, t. 12.
2 La psychanalyse du feu, t. 23-24.
3 La psychanalyse du feu, t. 27 và 28.
4 La
psychanalyse du feu,
t. 50.
5 L'Eau et les Rêves, Biblio Essais, 1998, t. 18.
6 L'Eau et les Rêves, t. 13.
7 Etienne Bonnot de Condillac (1714-1780), triết gia Pháp, tưởng tượng
ra một bức tượng có kiến trúc như người, nhưng với một tâm hồn mới, chưa bị cảm
giác nào xâm nhập. Bức tượng này được đánh thức bằng khứu giác (biết ngửi mùi)
trước tiên.
8 L'Eau et les Rêves, t. 14-15.
9 L'Eau et les Rêves, t. 15.
10 Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ,
không đề năm, t. 9,10, 11.
11 L'Eau et les Rêves, t. 9.
12 L'Eau et les Rêves, t.10-11.
13 L'Eau et les Rêves, t. 19.
14 L'Eau et les Rêves, t. 66.
15 L'Eau et les Rêves, t. 67.