Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Trúc Chi: Võ Phiến, chút kỷ niệm

Trúc Chi và Võ Phiến 2013

Anh Võ Phiến bấm chuông. Chủ nhà mở cửa nhận ra anh chị. Vồn vã mời vào. Tôi theo sau . Anh dừng lại ở phòng khách, đảo mắt nhìn quanh rồi xin phép chủ nhà mở cửa ra vườn sau. Tôi nhìn ra vườn. Cây hồng mà tôi biết năm nào cũng sây, vẫn còn đấy. Anh đứng dưới mái hiên, bịn rịn trước cảnh cũ, cái nhìn của anh có lẽ đã thu hết những gì anh thấy và ghi nhận hết mọi đổi thay, anh tần ngần trước cảnh cũ một hồi rồi ra về, sau khi đã lễ phép cám ơn chủ nhà. Tôi đề xe. Anh ngoái cổ nhìn mãi ngôi nhà. Tôi liếc nhìn anh: thoáng một vẻ quyến luyến.

Tôi không nhớ năm tháng đích xác. Chỉ biết hôm ấy nhân cùng đi chơi với anh chị Võ Phiến ở Glendale, khi xe chạy qua khu có ngôi nhà anh cư ngụ ở Highland Park trước khi dọn xuống Santa Ana, tôi quay sang hỏi anh có muốn tạt qua cái địa chỉ quen thuộc ấy hay không.


Dĩ nhiên Highland Park không phải là Gò Bồi ở Bình Định. Cũng không phải nơi mà anh đã  một lần trở về thăm sau nhiều năm khói lửa, cái chốn đã đem lại cho anh chất liệu để viết ra thiên  đoản văn Về Một Xóm Quê  gây buồn khó dứt.

Nhưng mà một người giàu tình cảm như anh  - vâng Võ Phiến rất giàu tình cảm – tạt vào chốn cũ,  sao cho khỏi chút rung động, chút nhớ nhung gửi về những vui buồn trong chốn trọ trên một giải đất cũng là trọ sau khi đã tránh được nạn cọng sản trong nước.
         
Cái vương vấn hầu như khắc khoải, cái nghĩ và nhớ ray rứt vọng những nơi mà anh đã sống  cứ theo sát  cảm tính trong người anh mà trôi rào rạt trong nhiều tác phẩm như Giã Từ, Mưa Đêm Cuối Năm cùng nhiều truyện khác nữa. Và chính cái thiết tha của anh đối với người với cảnh trong văn đã khiến cho người đọc “trung bình” phải buông ra một tiếng “hay” thành thật, không tính toán, không do dự khi xem xong một thiên truyện ngắn hay một bài tùy bút. Truyện anh viết hấp dẫn ra sao, “hay” thế nào là cái thú  của những người hâm mộ văn tài anh những lúc kháo nhau về một nét đặc sắc nào đó trong một bài viết. Còn “hay” như thế nào mà muốn bàn một cách có hệ thống, có phương pháp, chắc phải tìm đến phần nặn óc của các nhà phê bình văn học trên các tạp chí, nguyệt san , tuần báo trong và ngoài nước suốt mấy chục năm qua… nhiều lắm!

Trên, tôi nói đến con người tình cảm trong anh Võ Phiến.
Ngót bốn mươi năm quen biết nhau, kỷ niệm nhiều. Tôi chỉ xin đơn cử buổi ghé thăm nhà cũ, và sự xúc động của anh mà tôi nghĩ có thể kể lại để xem như như điển hình, tiêu biểu cho tình cảm nói trên . Thường, những hôm đi chơi chung tôi vẫn  làm tài xế, anh ngồi cạnh. Chúng tôi nói chuyện huyên thuyên lung tung. Ấy vậy mà ra về  sau cái hôm ghé vào nhà cũ, ngồi trong xe, tôi thấy anh im lặng , trầm ngâm  e cũng đến mươi mười lăm phút.

Phải rồi. Trong căn nhà xinh xắn ấy, ngăn nắp sạch sẽ nhờ bàn tay của chị Võ Phiến, bao nhiêu là bạn văn thơ năm châu đã ghé thăm anh… nhiều người đã dành bước của anh mà đi trước… Thái Tuấn, Lê Trọng Nguyễn, Phạm Đình Chương, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng. Bản thân tôi, vẫn còn nấn ná ở chốn này, đã may mắn có mặt trong nhiều bữa cơm thân mật dành cho bạn bè của anh và tuy chỉ là một người bạn thường lui tới nếp nhà khiêm tốn ấy, mà tôi cũng không khỏi bùi ngùi sực nhớ hình ảnh của những bạn văn và thơ đã gặp và trò chuyện tại đó. Huống hồ anh Võ Phiến. Nhìn cảnh cũ, hẳn anh không khỏi xao xuyến nhưng mà bản tính ít để cho tình cảm bộc lộ, anh chỉ lặng lẽ sống với xúc cảm của anh vào phút ấy. Có chai sạn lắm mới thờ ơ lãnh đạm trước chốn xưa!

Đã nói đến tình cảm thì dăm hàng về lý trí trong bộ óc thông minh ấy ắt phải có. Mà cũng không cần phải đi đâu xa: lý tính hiện rõ trong tác phẩm của anh qua những đoạn nhận định sắc bén, suy luận phải phép, diễn đạt minh bạch về thời cuộc, phong tục, nhân tình, ngôn ngữ, văn chương và nhiều lĩnh vực khác nữa.

Đã đành, bộ óc nào cũng có sự kết hợp của lý và tình. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là: làm chủ hai phần ấy, mà phần nào cũng nhạy trong anh võ Phiến, là cái tâm của một người tốt. Chính cái tâm tốt ấy đã giúp tạo ra một nét đặc sắc nơi người Bình Định này: cái dí dỏm tinh quái, châm chọc đấy mà không độc ác, thâm mà vô hại.

Còn nhớ, hồi anh Võ Phiến mới sáng lập nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật khoảng năm 1978-79 , thỉnh thoảng anh có đưa tôi xem một vài bài mà anh nhận được. Tôi để ý anh chỉ đưa tôi xem thôi, không hỏi ý kiến. Cũng phải, vì lúc bấy giờ tôi không có chân trong ban biên tập. Dĩ nhiên, tôi cũng chỉ đọc. Xong, trao lại cho anh. Một hôm, tại nhà anh Lê Tất Điều, lúc ấy làm chủ bút, ở tận quận San Diego, California, nơi mà thỉnh thoảng chúng tôi có ngồi chung để “bỏ dấu”  vì dạo ấy chưa có computer như bây giờ, anh Võ Phiến trao tôi một bài của một tác giả nào đó gửi đến. Bài khá dài đối với một nguyệt san, một xấp dày có đến hai chục tờ. Tôi đọc kỹ  bài viết về chính trị quốc tế, đầy những danh từ, động từ và tính từ Hán-Việt nghe thật “kêu”, nhưng không biết tác giả muốn nói điều chi. Đại loại nó cũng na ná như “xã hội chủ nghĩa có định hướng” ở Việt Nam gần đây. Nghe mới mẻ và quan trọng, vì trước đây chỉ có “xã hội chủ nghĩa”, nay thêm “định hướng”, không thấy nói rõ hướng nào. Mong rằng không phải hướng Đông, bởi vì ít lâu nay ra biển cứ gặp toàn hải tặc đỏ con cháu của Mã Viện và Tô Định, cũng hơi kẹt! Bài viết mà anh Võ Phiến trao cho tôi xem gồm nhiều chữ thuộc loại mập mờ  lù mù này. Tôi chịu thua và trao lại cho anh. Anh tủm tỉm: “chữ to mà nghĩa nhỏ.”

Cũng trong cái mạch cười đời chơi cho vui vậy thôi, không ác ý, một hôm, anh trao cho tôi xem một bài viết khá rắc rối, khó hiểu vì quá nhiều những danh từ trừu tượng trong triết học, hình như một thiên khảo luận về luận lý học của Kant. Sau khi tôi tuyên bố đầu hàng, Võ Phiến nói: “Ông này có khả năng dùng những chữ thật khó để nói về những điều rất giản dị.”

Ấy, cậu học trò quần trắng, áo dài đen, đội mũ cối trắng  ngày ngày mang guốc gỗ đến trường trung học Thuận Hóa, Huế vào những năm đầu thập niên 40 thế kỷ trước, đã vỡ lòng với Quốc Văn Giáo Khoa Thư,  rồi lớn lên nghiền ngẫm Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, sáng tác của Tự Lực Văn Đoàn, hấp thụ tinh thần học hỏi của học giả Đào Duy Anh, kề cận với Quách Tấn,  mê Marcel Proust, ghiền Alphonse Daudet, say Propos của Alain, đọc kỹ Lâm Ngữ Đường  và về sau này, còn thêm biết bao tác giả Việt và ngoại quốc khác, đặc biệt là  Tolstoi…. cậu học trò này, với cái hành trang ấy, đi song hành với cái tâm mà tôi vừa nói đến trên đây, đã có đủ yếu tố để trở thành một nhà văn hàng đầu đầy tính nhân bản của miền nam Việt Nam.

Mà nhân bản và cọng sản  (cọng sản như chúng ta thấy được đem ra thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay) thì lại khác và khắc nhau như nước với lửa, khỏi nói. Cho nên, trước hiệp định Genève năm 1954, anh đã lãnh một cái án tù của cọng sản. Tội danh?  Có lẽ không cần phải tìm cho ra biên bản của bản án ấy: những người như anh Võ Phiến và nhóm của anh lúc bấy giờ ở Bình Định chắc chắn là đã có tội TRƯỚC khi ra tòa.
         
Kinh nghiệm sống mười năm với cọng sản đã giúp anh có một thái độ, một lập trường dứt khoát khi bỏ nước ra đi. Xin trích lời anh  trong một bức thư  anh gửi cho anh Nguyễn Tường Thiết, con út ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: “Anh Thiết ơi, cụ Nhất Linh không chấp nhận chế độ cọng sản ngay từ đầu. Phải thôi. Dưới chế độ ấy, con người khó sống cho đàng hoàng…”*

Tôi trích lời anh Võ Phiến là vì  trong mấy chục năm quen biết nhau, có lần anh tỏ vẻ buồn nản khi nghe nói có một nhóm lăm le bắt tay với giới cầm quyền bên nhà để làm việc này việc kia, tuy họ đã từng có kinh nghiệm sống với “hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Tôi nói anh khỏi lo vì sau môt thời gian thế nào họ cũng sáng mắt ra. Anh cười mà nói hy vọng vậy, miễn là đừng có quá trễ. Thôi thì đành vậy, kinh nghiệm là một chuyện, rút tỉa cho được bài học từ kinh nghiệm là chuyện khác.
         
Nhưng không phải cứ mỗi lần chúng tôi gặp nhau hoặc riêng anh và tôi hoặc có thêm nhiều bạn thơ văn khác tại nhà anh là phải nói chuyện thời thế,  chuyện văn chương thơ phú. Không phải vậy. Là vì nói mãi chuyện tình hình quốc tế cũng nhức đầu. Chính trị thì  đổi thay cho lắm thì rồi hắn cũng cứ rứa**. Còn trong bữa cơm, phải xáo trộn văn chương với chả cá, nói như Nguyễn Vỹ,  thì lại khó đào sâu vào bất cứ một tác phẩm nào, nhận định tất nhiên là phiến diện mà lắm lúc lại hời hợt nữa. Tội cho chữ nghĩa của người viết, cho người viết.

Chỉ có chuyện ăn là luôn luôn hợp thời, không bao giờ mất thời gian tính, mới mẻ, luôn luôn a-la-mốt. Gặp nhau ở nhà anh Võ Phiến lại là bằng hữu gốc gác từ nhiều nơi trong nước, nên thức ăn, cách ăn, lối ăn của nhiều món địa phương, ai chế ra hồi nào không biết, tất cả đều được “soạn lại” kỹ lưỡng, mỗi bạn soạn một món: phải thêm thứ rau thơm này, loại tôm kia, tai nấm nọ, chút muối mè ấy v.v… mới đúng diệu. Thành thử các món vắng mặt ấy được chăm chút chu đáo mà món nào “nghe” cũng tuyệt vời. Địa phương nào trên đất Việt cũng có món ngon nhứt nước cả. Con Rồng cháu Tiên mình quả có ghê thiệt!

Đã nói chuyện ăn của người Việt thì tất nhiên không thể thiếu nước mắm. Và chính qua những lần nói về các thức ăn Việt Nam mà tôi dần dà biết được rằng anh Võ Phiến nghiện và hết sức trung thành với món quốc hồn quốc túy này. Dĩ nhiên, thức ăn, nhất là các món nhậu, mỗi món có nước chấm riêng của nó, dùng nước mắm, tương hoặc xì-dầu thêm gia vị. Với anh Võ Phiến thì nước mắm trong cái chén nhỏ kia trong bữa cơm  hàng ngày phải là nước mắm nguyên chất, phải có cái ngọt, cái dịu “nội tại”, cái hương vị mang theo từ những nơi danh tiếng như Phú Quốc, Phan Thiết, Nam Ô, không pha trộn, không thêm thắt chi hết. Anh thường nhắc đến những người gánh nước mắm đựng trong ghè – một loại chum, vại nhỏ -  đến bán tận các làng mạc xa xôi, trong đó có quê anh.

Phải nghe  cái giọng thiết tha khi anh kể lại những buổi người thân trong gia đình anh dùng cái vá (ngoài Bắc gọi là “môi”)  nhỏ, đẽo ra từ một đốt tre dài, để múc nước mắm từ trong cái ghè ra mà nếm  mà phẩm bình, mà tấm tắc, mà xuýt xoa, mà trầm trồ… phải thấy cái nhìn  nửa buồn  nửa vui  của anh khi vừa nói chuyện vừa hướng về hình ảnh những buổi mua bán mà chắc chắn là nay không còn nữa, mới thấm được cái tình của anh đối với nước mắm.

Mà người hiểu cái thủy chung rất Việt Nam này hơn ai hết chính là người bạn đời của anh, chị Võ Phiến. Tôi có dịp ăn cơm tại nhà anh nhiều lần, sáng có, trưa có, tối có và… vô luận chị Võ Phiến cho chúng tôi ăn món chi vào buổi nào, bao giờ trước mặt anh Võ Phiến cũng có sẵn cái dĩa cạn nho nhỏ để đựng nước mắm nguyên chất. Mấy năm trước khi anh qua đời năm ngoái, sức khỏe có kém đi, do đó ăn uống cũng có phần kiêng khem nhiều, nhưng mà tôi để ý chén nước mắm của anh luôn có đó trên bàn ăn, tuy có khi anh không động đến nó.

 Vậy mà cũng một năm tròn rồi anh Võ Phiến ơi!  Trên bàn tôi bây giờ là quyển Tuyển Tập Võ Phiến mà tôi soạn sẵn khi viết bài này để tiện trích dẫn, nếu cần. Ở trang đầu, khi tặng tôi, anh có đề:

Trăm năm bia đá cũng mòn
Mong manh bia giấy liệu “còn” bao lâu !

Dấu ngoặc kép ở chữ “còn” và cái chấm than (!) ở cuối câu tám là của anh Võ Phiến.


Đây là một câu hỏi thuộc loại… băn khoăn. Câu hỏi  vu vơ hỏi chính mình, hỏi cuộc đời. Cũng giống như ngày xưa, Nguyễn Du đã từng băn khoăn không biết rồi đây, ba trăm năm sau, có ai đoái thương cho thân phận của ông hay không? Nguyễn Du xót xa cho số phận của người con gái trong Tiểu Thanh Ký rồi liên tưởng mà ngậm ngùi cho thân thế của mình để thốt ra câu hỏi lừng danh và sâu sắc ấy.


Cái băn khoăn của anh Võ Phiến lại khác. Nó rất gần chúng ta. Tôi nghĩ đến một lúc nào đó trong cuộc đời, ai cũng có khi tự hỏi: không biết con cái mình rồi đây sẽ ra sao? Hỏi là hỏi vu vơ vậy thôi. Không có câu trả lời.
  Và cũng vậy, Võ Phiến cũng hỏi vu vơ như vậy về tác phẩm của chính mình. Nhưng anh đã có nhã ý viết hai câu đó trong ấn bản tặng cho tôi, thì tôi cứ chủ quan mà nghĩ rằng anh hỏi tôi.  Và ngay hôm trong bữa cơm Tết mà anh trao quyển sách cho tôi, tôi đã mạn phép trả lời. Xin nhắc lại câu hỏi:

Trăm năm bia đá cũng mòn
Mong manh bia giấy liệu “còn” bao lâu!

Đó là cái khiêm nhượng của anh khi anh tự hỏi không biết sau này còn có ai đọc sách của mình nữa hay không. Tôi đọc đùa hai câu:

Trăm năm bia đá cũng mòn
Nghìn năm bia giấy vẫn còn người in

Đùa, nhưng mà đó cũng là niềm tin của tôi khi nhìn vào toàn bộ tác phẩm Võ Phiến.

Anh Võ Phiến ơi!  “…Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương…” 

Trúc Chi
9/16








*Nhất Linh Cha Tôi,tr.312, Nguyễn Tường Thiết, nxb Văn Mới (2006)
** Plus ça change, plus c’est la même chose