Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2016
Thụy Khuê: Phê bình văn học thế kỷ XX - Chương 11: Phê bình ý thức (Bài 2)
- Chương 1- Ý thức phê bình
- Chương 2 - Sơ lược tiến trình phê bình trong thế kỷ XX
- Chương 3- Thi học Aristote
- Chương 4: Phê bình cũ - Phê bình mới hay Marcel Proust chống Sainte-Beuve
- Chương 5: Phê bình phân tâm học (bài 1)
- Chương 5 Phê bình phân tâm học (bài 2)
- Chương 6: Ngôn ngữ học
- Thụy Khuê - Phê bình văn học thế kỷ XX Chương 6 Ngôn ngữ học
- Chương 7: Trường phái Hình Thức Nga (bài 1)
- Chương 7: Trường phái Hình thức Nga (bài 2)
- Chương 8 Những nhà cấu trúc Nga
- Chương 9: Bakhtin và xã hội học văn chương (Bài 1)
- Chương 9: Bakhtin và xã hội học văn chương (Bài 2)
- Chương 9 :Bakhtin và xã hội học văn chương (Bài 3)
- Chương 10: Phê bình bác ngữ học Đức (Bài 1)
- Chương 10: Trường phái Bác ngữ học Đức (Bài 2)
- Chương 10 Trường phái bác ngữ học Đức (Bài 3)
- Chương 11 : Phê bình ý thức (Bài 1)
- Chương 11: Phê bình ý thức (Bài 2)
Georges Poulet sinh tại Chênée (Liège), Bỉ, ngày 29/11/1902, và mất tại
Bruxelles ngày 31/12/1991. Sau khi tốt nghiệp đại học Liège, ông giảng dạy tại
nhiều đại học trên thế giới: Edimbourg, Baltimore (1952), Zurich (1956), Nice
(1968). Georges Poulet coi Marcel Raymond như một người bạn, một người cha của
trường phái ý thức. Khi được nhận chức giáo sư danh dự tại đại học Genève,
trong thư gửi Marcel Raymond, Poulet viết:
"Đúng là tôi thấy mình có liên hệ chặt chẽ với đại học Genève, vì
đó là trường của anh, nhờ anh (...) mà một trường phái phê bình đã phát sinh tại
đây, và có thể nói, mỗi ngày tôi đều cảm thấy mình hân hạnh và sung sướng đã có
phần đóng góp".[1]
Từ bộ Nghiên cứu thời gian của con người (Études sur le temps
humain) (1949-1968) 4 tập, đến bộ Tư tưởng trung gian (La pensée
intermédiaire) (1985-1989) 3 tập, Poulet đã viết trên 20 tác phẩm, bao quát
các lãnh vực rộng lớn của văn chương, ông viết về nhiều tác giả không kém gì
Sainte-Beuve trong thế kỷ XIX, và đã có ảnh hưởng lớn đến phê bình mới của Pháp.
Tác phẩm tổng quát và đúc kết tư tưởng và phương pháp phê bình ý thức là
cuốn Ý thức phê bình (La conscience critique), in năm 1971.
Bài này giới thiệu hai khía cạnh: lý thuyết về phê bình ý thức của
Poulet và cách phê bình của ông.
Lý thuyết phê
bình ý thức của Georges Poulet
Georges Poulet kết luận cuốn Ý thức phê bình bằng một xác
định: "Phê bình nào cũng khởi thuỷ và cốt yếu dựng trên phê bình của ý
thức" (Toute critique est initialement et fondamentalement une
critique de la conscience)[2]. Xác định rất chủ quan, bởi theo Sartre, ta không thể "xuyên vào"
ý thức của người khác, vì ý thức không phải một thể chất (substance) để có thể
xâm nhập vào.
Vậy phê bình ý thức mà Poulet nói đến ở đây là gì?
Trong cuốn Ý thức phê bình (La conscience critique), Georges
Poulet làm hai việc: trình bày danh sách những nhà phê bình được ông xếp vào "khuynh
hướng ý thức" đồng thời định nghiã phương pháp ý thức bằng cách xây dựng
chân dung của họ. Tác phẩm chia làm hai phần:
Phần thứ nhất, viết về những nhà phê bình: Madame de Staël, Baudelaire,
Proust, nhóm N.R.F[3], Charles Du Bos, Marcel Raymond, Albert Béguin, Jean Rousset và Gaëtan
Picon, Georges Blin, Gaston Bachelard, Jean-Pierre Richard, Maurice Blanchot,
Jean Starobinski, Jean-Paul Sartre và Roland Barthes.
Phần thứ nhì, Poulet đúc kết phương pháp luận của ông.
Dòng đầu tiên trong bài tựa cuốn Ý thức phê bình Georges Poulet
xác định ý nghĩa việc đọc: "Hành động đọc (mà mọi tư tưởng phê bình
đích thực quy tụ vào) tiềm ẩn sự trùng hợp giữa hai ý thức: ý thức của người
viết và ý thức của người đọc"[4].
Tiếp đó, Poulet nhắc đến mối tương quan giữa phê bình mới và tiểu thuyết
mới:
"Người ta nói đến "phê bình mới" cũng như người nói đến
"tiểu thuyết mới". Có tiểu thuyết mới của Michel Butor, Alain
Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Claude Simon thì cũng có phê bình mới của
Gaston Bachelard, Marcel Raymond, Maurice Blanchot, Jean Rousset, Jean-Pierre
Richard và Jean Starobinski. Hai phong trào này quy tụ những cá tính khác nhau
nhưng cùng quan tâm đến một số vấn đề tương đồng. Riêng về phía những nhà phê
bình mới, họ gặp nhau vì cùng khai thác những hiện tượng của ý thức: Mỗi người
(phê bình) cố gắng sống lại và nghĩ lại những kinh nghiệm và những tư tưởng mà
người khác (nhà văn) đã sống và đã nghĩ."[5]
Như vậy, ngoài những tên tuổi "chính thức" trong nhóm, Poulet
còn xếp vào "loại" phê bình ý thức hay phê bình mới cả
những triết gia như Bachelard, Blanchot, bởi vì ở họ, theo ông, ý thức phê
bình được xây dựng trên ý thức hiện hữu. Nói khác đi, khởi điểm phê
bình của họ là sự nhận thức chính mình, trước khi nhận thức người khác. Và một định
nghiã rộng như vậy, dẫn đến rất nhiều ngòi bút phê bình khác nhau. Nhưng điểm đáng
chú ý đầu tiên của nhóm phê bình ý thức, dưới ngòi bút của Poulet, là triệt để
bác bỏ các quan điểm phê bình cũ, xuất hiện trong thế kỷ XIX, đặc biệt của
Sainte-Beuve.
Sự chống đối này, chúng tôi đã trình bày trong chương 4, chống
Saint-Beuve, chủ yếu là quan điểm của Marcel Proust. Ở đây chỉ xin tóm tắt lại
như sau:
Marcel Proust phản bác Sainte-Beuve ở điểm đã đồng hoá tác phẩm với tác
giả. Proust cho rằng chẳng có mối liên hệ nào giữa cái tôi bên trong (le
moi intérieur) của kẻ ngồi viết tác phẩm với cái tôi bề ngoài (le moi
extérieur) của nhà văn, mà xã hội trông thấy. Theo Proust, cái tôi bên trong
của nhà văn, "cái tôi đó, nếu muốn hiểu
nó, ta phải thử tái tạo lại nó trong sâu thẳm của tâm hồn ta". Proust
phê bình Baudelaire, de Nerval, Balzac,... bằng cách nhập vào tác phẩm
của họ và ông tìm thấy ở Baudelaire sự pha trộn hai yếu tố nhậy cảm và bạo
tàn, rất gần gụi với ông. Marcel Proust là nhà văn Pháp đầu tiên nói đến
cách phê bình sống với tác phẩm từ bên trong. Marcel Raymond, Georges
Poulet và nhóm phê bình ý thức đã lấy lại tư tưởng này, và trình bày dưới dạng
hơi khác. Vì vậy, Proust đã được coi là một trong những ngòi bút "phê bình
mới" tiên phong của Pháp trong thế kỷ XX.
Để phê bình Sainte-Beuve, Georges Poulet chọn ra một câu của Sainte-Beuve
"Tôi cố gắng nhập vào những nhân vật mà tôi phản ảnh", (Proust
cũng nói tương tự) nhưng Sainte-Beuve còn nói thêm: "Tôi cố gắng đưa
tâm hồn mình vào tâm hồn người khác; tôi lìa mình; tôi kề má họ, tôi trang phục
cho họ, tôi cố gắng ngang hàng với họ" v.v. Những lời [quá lố] này,
theo Poulet, chứng tỏ lối "hoà đồng"
của Sainte-Beuve là "trơ trẽn quá, lộ liễu quá, không thật. Nếu có một
mối giao cảm thật sự bên trong giữa người phê bình và tác phẩm thì hay biết
mấy, nhưng Sainte-Beuve chỉ nói miệng mà không làm, không có gì cho ta thấy đã
có một mối giao cảm thực thụ ở bên trong (tâm hồn) giữa Sainte-Beuve và người
viết"[6].
Để phê phán lối phê bình ấn tượng của Jules Lemaitre khi đọc Pierre
Lotti, Poulet trích câu Lemaitre: "Khi lật xong trang chót, tôi cảm thấy
lòng mình ngây ngất, tràn đầy hồi tưởng dịu dàng buồn bã về muôn vàn tình cảm
sâu xa, lòng nặng một mối xúc động mơ hồ, toàn diện." Và ông chỉ trích:
"Cái say sưa mà ông [Lamaitre] nói đến ở đây, không phải là cái
say sưa từ tác giả (qua tác phẩm) truyền sang ông mà là cái say sưa tự ông cảm
thấy. Một thứ tình cảm chủ quan, nửa thật, nửa giả, không phải là sự giao cảm
đích thực giữa tác phẩm và người đọc"[7].
Những yếu tố chính trong phê bình ý thức
1- Cogito
Sau đã khi "bài trừ" cái cũ, Georges Poulet mới nói đến cái mới
trong phê bình ý thức, và điểm đầu tiên được ông đề cập đến cũng là điểm cơ bản
của phương pháp này, là sự đồng quy của hai ý thức: ý thức người viết và
ý thức người đọc. Sau đó, ông khoanh tròn địa hạt phê bình ý thức: Phê
bình ý thức, hiểu theo nghiã rộng, bao gồm tất cả những hướng phê bình tìm cách
khảo sát thực thể viết và thực thể đọc như hai hiện tượng, hoặc dính chùm, hoặc
tách rời. Tất cả những cách tìm tòi đi sâu vào khía cạnh viết và đọc, trở
thành đối tượng của phê bình ý thức. Như vậy, theo Poulet, phê bình ý thức, hiểu
theo nghiã rộng, là phê bình hiện tượng luận, tức là nhà phê bình khảo sát hiện
tượng viết và hiện tượng đọc bằng phương pháp của triết học hiện tượng. Ở đây, đã
thấy xuất hiện mầm mống triết học Husserl (1859-1938).
Phê bình ý thức, vẫn theo Poulet, không phải bây giờ mới có mà đã xuất
hiện từ thời lãng mạn: ở Đức trong phê bình lãng mạn và tiền lãng mạn của
Bodmer và anh em Schelgel. Ở Anh với Coleridge, Hazlitt. Tại Pháp với Mme de
Staël (1766-1817). Theo ông, ý thức phê bình của bà de Staël, bắt nguồn từ ý
thức thán phục (admiration), tức là một tình cảm rất riêng tư kết nối người
viết với người đọc: đặc biệt là sự thán phục J.J. Rousseau. Những thán phục, ca
ngợi của bà về tác giả này hay tác giả kia, đối với chúng ta ngày nay, có thể là
ngây thơ, lỗi thời, nhưng điểm cốt yếu là sự thán phục ấy đã dẫn bà đắm mình
trong tác phẩm. Bà thán phục và ca tụng cái mà bà đã khám phá ra ở người khác,
cái ấy đã thấm sâu vào tâm hồn bà và nó trở thành một nhận thức, một
hiện hữu.
Đến đây, Georges Poulet đưa ra khái niệm Cogito, khái niệm đầu
tiên và cũng là nòng cốt của ông về phê bình, ông viết:
"Như thế, điểm đầu tiên hiện ra, ngay trang nhất, trong tác phẩm
của de Staël, có thể gọi là cái Cogito phê bình. Không phải: "Tôi phán
đoán, vậy tôi hiện hữu (non pas je juge, donc je suis), bởi đây không phải là
sự phán đoán thuần lý, mà là "tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu"
(j'admire, donc je suis) nghĩa là tôi tự khám phá ra tôi trong tình cảm thán
phục (người khác) mà tôi cảm nhận được"[8].
Từ nay Cogito trở thành yếu tố chính trong phê bình của Georges
Poulet.
Xin nhắc lại: chữ Cogito lấy từ công thức nổi tiếng của
Descartes: cogito, ergo sum (je pense, donc je suis - tôi suy tư, vậy tôi
hiện hữu), ngụ ý: tôi không chắc điều gì hết, nhưng tôi biết chắc là có tôi bởi
vì tôi đang suy nghĩ. Hành động suy nghĩ xác định sự có mặt của tôi.
Poulet thay mệnh đề "je pense, donc je suis" của
Descartes bằng mệnh đề: "j'admire, donc je suis" (tôi thán phục,
vậy tôi hiện hữu) để áp dụng cho bà de Staël: Tôi thán phục tác phẩm mà tôi đang
đọc, điều đó chứng tỏ tôi đang sống, tôi đang có mặt ở đây, vậy tôi hiện hữu. Hành
động đọc, hành động phê bình của bà de Staël, theo Poulet, là hành động tiên khởi,
là kinh nghiệm đầu tiên về ý thức phê bình như một ý thức về sự hiện hữu.
Ông viết tiếp: "Đó là phê bình của de Staël, một lối phê bình
ích kỷ nhất và vô vụ lợi nhất, đưa đến sự tìm biết sâu xa chính mình, trong say
đắm, đem cái tôi của mình hoà nhập với cái tôi của người khác. Phê bình của bà
de Staël chính là sự tác hợp giữa thiên tài phê bình và thiên tài nhà văn. Nó
đặt nền móng cho một tư thế tương đồng giữa bản thể của mình và bản thể của kẻ
mà mình thán phục"[9].
2- Sự thấu minh
Khái niệm thứ nhì trong phê bình của Poulet là sự thấu minh (transparence),
tức là sự thông suốt, giữa người viết và người đọc.
Ông viết: "Theo đuổi huyền thoại Rousseau (và Julie), Mme de
Staël mơ đến một tình trạng thấu minh lẫn nhau (transparence réciproque) giữa
những thực thể: chồng vợ, bạn bè, người yêu, tác giả, độc giả, cùng có với nhau
sự giao hưởng tâm hồn trong động tác yêu thương. Và đó là hạnh phúc (...) Sự
hoà hợp giữa những tâm hồn qua văn chương cũng giống như một cuộc hôn nhân hạnh
phúc"[10].
Ông cho rằng bà de Staël là một trong những tâm hồn đầu tiên ở Âu Châu đã
cảm thấu và làm cho người khác thấu cảm nỗi buồn trong thơ; và nếu bà là người đã
thấu cảm được nỗi buồn trong thơ người khác thì bà cũng sẽ là người đầu tiên thấu
cảm được nỗi đau của chính mình. Poulet viết tiếp: "Thực thể nào ý thức
được nỗi đau của mình -những nỗi đau- thì cũng ý thức được chiều sâu của mỗi
hạn kỳ đau đớn, ý thức được chúng nối tiếp nhau, hết khúc đoạn này đến khúc
đoạn khác, tạo thành dây xích dài nối hiện hữu với định mệnh"[11].
Và ông nhấn mạnh thêm một lần nữa về sự thấu minh tương cảm: "Hiểu
một tư tưởng mà mình yêu thích, một tác phẩm mà mình đã tha thiết khâm phục,
không chỉ là gắn bó vào những nổi trôi biến động mà tác phẩm mang lại, mà còn
phải làm hiện ra trong tư tưởng của mình, sự bội phân những nổi trôi biến động
đó như một toàn bộ nhất quán. Một cái nhất quán có hai nghiã, bởi vì nó vừa là
cái nhất quán trong ý thức của người viết mở ra cho mình khi mình cầm cuốn sách
lên đọc, vừa là cái nhất quán trong ý thức của mình với những cảm thức khác
nhau, khi mình lặn vào tác phẩm của người khác"[12].
3- Trí nhớ, quá khứ và kỷ niệm
Vấn đề thứ ba trong phê bình ý thức, theo Poulet là vai trò của trí
nhớ, quá khứ và kỷ niệm: "Hiểu một tiểu thuyết gia, một nhà
thơ, một nghệ sĩ, một triết gia, có nghiã là nối vào cái tôi hôm nay của mình,
để nó ghi lại trong trí nhớ, trước tiên những kinh nghiệm sống của một người
khác được chuyển tải đến mình, và thứ đến là những kinh nghiệm mà sự chuyển tải
này sinh ra hoặc gợi lại trong ta"[13].
Như vậy, trí nhớ là một trong những yếu tố chủ chốt: Trí nhớ khắc
ghi những gì xẩy ra khi ta đang đọc và trí nhớ còn tồn ghi những gì ta đã đọc
trong quá khứ, và quá khứ đi đôi với kỷ niệm. Ông viết:
"Tóm lại, để thấu triệt một tác giả, chỉ biết tác giả thôi thì
chưa đủ, mà còn phải tự biết mình, biết soi mình trong tác giả đó, phải lần đi
lần lại, từng giai đoạn, tìm thấy toàn bộ những cảm thức mà tác giả đem lại cho
ta. Việc biết một tác giả không chỉ ngừng lại ở sự thán phục riêng tư tác giả
đó, mà còn phải nhờ kỷ niệm, dẫn ta tìm lại những chuỗi cảm thức khác nhau đã
đến với mình suốt hành trình đọc trong quá khứ"[14].
Theo Poulet, bà de Staël đã nhìn thấy mối tương quan này khi bà viết: "Người
Hy Lạp sống với tương lai, người La Mã, giống chúng ta, có cái nhìn về quá
khứ". Bà còn viết: "Tuy người Hy Lạp vinh danh người chết...
nhưng sự u uẩn, những nuối tiếc mẫn cảm lâu dài không có trong bản chất của họ,
mà "những chuỗi dài kỷ niệm" lại được tàng trữ trong trong tim người
phụ nữ"[15].
Poulet nhận định tiếp: "Một cách đọc mới vừa xuất hiện. Người
phê bình không còn đứng ngoài để phê phán một tác phẩm, như một đối tượng khách
quan nữa, mà nhà phê bình sẽ phải hoà mình vào tác phẩm, góp phần vào chuyển
động chủ quan mà tác phẩm biểu lộ và chuyển tải". Rồi trở lại vai trò
tiên phong của bà de Staël, Poulet viết tiếp: "Bà de Staël có thể là
nhà phê bình đầu tiên đã có cái ý tưởng lớn và mới này trong văn học, là phát
lộ con người bên trong, làm nó hiện lại trong ý thức phê bình với những nét đặc
trưng của nó trong chiều dầy quá khứ. Một nền văn chương không có quá khứ,
không có kỷ niệm, theo bà de Staël, không phải là văn chương đích thực"[16].
4- Thời gian và khoảnh khắc
Vấn đề thứ tư trong phê bình Poulet là vai trò quan trọng của thời
gian và khoảnh khắc. Ông viết: "Nhờ ký ức qua những khoảnh khắc
khác nhau của một đoạn đời, mà tôi phân biệt được tình cảm khâm phục của tôi
đối với một tác giả. Tôi ý thức được tôi, trong dòng lịch sử, trên cái nền kính
bái những điều đáng khâm phục. (...) Tôi không chỉ là một kẻ, qua dòng thời
gian, thấy mình đã ý thức được tác phẩm này hay tác phẩm khác. Mà tôi còn là
kẻ, đã nắm bắt được tác phẩm như sự biểu hiện ý thức của một kẻ khác, cũng đang
đi như tôi trong dòng thời gian"[17].
Tóm lại: cogito, thấu minh, ký ức, và khoảnh khắc là những
yếu tố chính trong phê bình Georges Poulet.
Trong bài viết về Baudelaire (1821-1867) mà ông coi là người kế nghiệp
de Staël trong dòng phê bình ý thức, Poulet nhận định:
"Baudelaire là một người bị ý thức bản thân ám ảnh. Đối với
Baudelaire, trò chiếu gương, tức là đem hình ảnh chính bản thân mình ra trình
bày với mình, được nhân lên đến độ chóng mặt, như một thể nghiệm chết chóc ma
quái. Cái ý thức về mình ở Baudelaire là "ý thức tội lỗi". Vì vậy sự
hoà mình trong tư tưởng người khác đối với ông, phải được hiểu như một sự cắt
đứt cái vòng địa ngục ấy, như một hành động giải thoát. Cho nên, nếu nhà thơ
dạo trong công chúng, tiếp xúc với ý thức phát tán của công chúng cũng chỉ là
để gỡ bỏ cái ý thức bản thân, luôn luôn ám ảnh mình. Sự quên mình đối với
Baudelaire có một giá trị vừa đạo đức vừa trị liệu"[18].
Với Marcel Proust, người thứ ba mà Poulet xếp vào hàng tiên phong trong
phê bình ý thức, Poulet viết:
"Qua cuốn Chống Sainte-Beuve (Contre Sainte-Beuve) chúng ta
được biết tiểu thuyết của Proust bắt nguồn từ một dự trình nghiên cứu văn học.
Sự tìm kiếm không ngừng khoảng thời gian đã mất, với những nhân vật, những luận
đề, những cảnh sắc, với vô vàn biến thiên tâm lý, tất cả những thứ đó, bây giờ
chúng ta mới biết là chúng khởi đi -như Combray trong chén trà- từ một suy nghĩ
về phê bình. Cũng như câu chuyện của nhân vật chính, một người trẻ tuổi cảm
thấy mình có thiên bẩm nhà văn, tự hỏi phải làm sao để hoàn thành tác phẩm mà
anh mơ ước, như thế cuốn "Chống Sainte-Beuve" là ý thức của một nhà
phê bình tương lai, về những gì mà anh ta cho là phương pháp phê bình hay nhất.
(...) Nói cách khác, Proust, trước khi có hành động sáng tạo, đã có một suy
nghĩ về sáng tạo, về cái gì hình thành nên sáng tạo, về nguồn gốc, về bản chất,
và cứu cánh của sáng tạo"[19].
Câu chót trong đoạn Poulet nhận xét trên đây về Proust, rất đáng cho những
người sáng tác lưu ý. Bởi nó đưa người viết trở về khởi điểm của sáng tạo: phải
khám phá ra hành động viết, trước khi bắt tay vào việc viết. Nói gọn, phải hiểu
viết là gì trước khi viết văn. Chưa hết, Poulet viết tiếp: "Hành động
viết đòi hỏi một sự khám phá văn chương trước và sự khám phá này dựa trên một
hành động khác, đó là hành động đọc (...) Marcel Proust là một người đọc, một
người phê bình, trước khi sáng tác (...) Hành động phê bình, ở Proust, không
phải là thứ nhì mà là thứ nhất, nó là bước đầu tiên của tư tưởng, trước khi
phiêu lưu trong một lãnh vực lớn, phải vượt qua bước đầu quyết định (...) Cùng
thời điểm với Mallarmé, và trước Du Bos, trước Sartre, Marcel Proust là một
trong những người đã đặt câu hỏi chủ yếu: Văn chương là gì?"[20].
Nhưng theo Poulet: "Người thầy đích thực của phê bình hiện đại
là Montaigne (...) Montaigne là người đầu tiên có ý tìm trong tư tưởng người
khác một vật thể mà ông có thể nhắm tới và đạt được. Có thể nói phê bình ngày
nay bắt chước đường lối ấy. Nó tìm cách "soi gương đời mình trong đời
người khác", nó "lẻn vào" những cuộc đời xa lạ bằng trí tưởng
tượng"[21].
Phải đến những dòng gần cuối sách, mới thấy được cái Cogito của
Georges Poulet:
"Tôi đã đọc các triết gia, nhất là những tác giả suy nghĩ đến ý
nghĩa của chữ Cogito. Hầu hết các triết gia hiện đại, từ Montaigne đến Husserl
đều xây dựng một nền suy tưởng dựa trên ý thức (...) Họ luôn luôn mô tả điểm
khởi đầu của lý luận, bằng một động tác bất di bất dịch: tâm trí nổi lên từ
khoảng trống để có ngay trực giác tức khắc về mình. Như vậy, mỗi suy nghĩ triết
học đối với tôi hình như đều xuất phát từ giây phút ấy, giây phút đầu tiên của
ý thức, tức là lúc mà cái tôi -và qua cái tôi, thế giới- hiện ra.
Sự vận hành, mà tư tưởng mô tả như thế, dường như mỗi lần, đều có một
điểm đi và một điểm đến, và tư tưởng -trong khi di chuyển giữa hai điểm đó- được
thành hình. Nhưng điều đáng chú ý là sự vận hành tinh thần này, không chỉ dành
riêng cho triết học. Mà tất cả mọi loại văn bản: tiểu luận, tiểu thuyết, thơ,
đều có điểm khởi hành như thế; tất cả mọi phát ngôn có tổ chức đều nẩy sinh từ
cái ý thức ban đầu để tiến đến những điểm tới. Như vậy, không có sự khác biệt
sâu xa giữa một văn bản văn chương và văn bản triết học. Văn chương có thể là
triết học và triết học có thể là văn chương; và bất cứ ở trang nào tôi đang đọc,
tôi cũng thấy ở mỗi dòng cái hành trình tư tưởng ấy, ngay từ đầu.
Làm sao mà tôi đã bỏ qua điểm tối quan trọng này? Tác phẩm luôn luôn bắt
đầu bằng một sự Cogito hoá (cogitation), và phê bình lấy tác phẩm làm đối tượng
nghiên cứu, cũng phải có một khởi điểm như thế. Trước đây, tôi cứ tưởng nhà văn
thả mình trong dòng hỗn loạn của đời sống tâm linh. Bây giờ tôi mới hiểu rằng, phẩm
chất cơ bản của nhà văn là trong mỗi khoảnh khắc phải đi đến tận cùng nhiệm vụ
của mình, tức là đi lại từ đầu, từ con số không, và phía nhà phê bình cũng vậy,
cũng phải đi từ con số không, tức là phải biết xoá mình đi, ngay từ đầu.
Vậy có thể nói mà không sợ sai rằng: nhà văn bắt đầu bằng sự xây dựng
cái Cogito của mình và nhà phê bình tìm thấy điểm khởi hành trên cái Cogito của
người khác (...) Tất cả bắt đầu từ: Tôi suy tư, tôi hiện hữu (Je pense, je suis).
Với tôi, sự khám phá này quan trọng vô cùng: Phê bình là sự nhái lại
hai lần một hành động tư tưởng. Nó không tùy thuộc vào cái cao hứng thất thường.
Việc bắt đầu lại từ trong sâu thẳm của mình, cái Cogito của một nhà văn hay một
triết gia, tức là phải tìm lại cách cảm giác và cách suy nghĩ của họ, tìm hiểu
cách ấy đã phát sinh và hình thành như thế nào, đã gặp những trở ngại gì, việc
ấy cũng là khám phá lại ý nghĩa một cuộc đời đã được xây dựng nên từ ý thức rút
ra ở chính cuộc đời đó" [22].
Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng, trong cuốn La conscience
critique, Georges Poulet đã lấy ý thức phê bình của mình chiếu vào ý thức
phê bình của người khác để tạo ra tác phẩm, một tác phẩm có chủ đích phê bình các
nhà phê bình. Văn bản phê bình, dưới ngòi bút của Poulet, trở thành tấm gương hội
tụ và phản ảnh văn chương, và nó có thể bội phân nhiều lần, mỗi lần nẩy sinh một
tác phẩm mới. Ông trình bày gần 20 quan điểm phê bình khác nhau, từ bà De
Staël, Baudelaire, Marcel Proust, Marcel Raymond, Gaston Bachelard... đến
Jean-Paul Sartre, Roland Barthes, mỗi người có một ý thức phê bình khác nhau, đôi
khi hoàn toàn đối lập nhau: Phê bình Bachelard dựa trên tưởng tượng, không màng
đến ý thức. Sartre chối bỏ hoàn toàn lập luận: phê bình là nhập vào bên trong ý
thức của người khác, bởi theo ông ý thức chẳng có bên trong bên ngoài, và có muốn
nhập vào cũng bị đẩy ra. Với tác giả nào, Poulet cũng gắng tìm cho được cái Cogito
của họ. Poulet tìm ra cái Cogito của người khác đồng thời xác định cái Cogito của
chính mình. Như thế phê bình ý thức là sự hoà tan giữa triết học và văn chương,
trên con đường truy tìm Cogito, hay tư tưởng chủ yếu dựa trên ý thức của người
viết. Một định nghiã như thế có thể bao trùm lên hầu hết các nhà phê bình đi
theo hướng mới trong nửa sau thế kỷ XX.
Ý thức phê bình là một thành công của Poulet,
bởi vì không những lột được hết những tư tưởng chủ yếu của ông về phê bình mà ông
còn tìm ra được cái sườn chính trong tư tưởng phê bình của mỗi tác giả, mà ông gọi
là cái Cogito của họ. Bây giờ chúng ta thử xem Cogito phê bình của Goerges
Poulet là gì, khi ông phê bình một nhà văn, trong bộ sách đồ sộ Nghiên cứu
thời gian của con người (Etudes sur le temps humain) của ông.
Nghiên cứu thời gian của con người
Cuốn Nghiên cứu thời gian của con người (Etudes sur le temps
humain) tập 1, in năm 1949, khởi hành sự nghiệp của Poulet, được giới phê bình
nồng nhiệt đón nhận như một biến cố mới lạ. Người ta để ý đến khía cạnh thời
gian trong văn chương, được đưa ra lần đầu tiên. Thời gian ở đây được
hiểu theo nghiã hiện sinh, tức là hoàn toàn mới lạ đối với thời đó. Thời
gian của Poulet chính là thời gian tính (temporalité) theo nghiã Heidegger,
tức là cơ cấu của Dasein, khác với thời gian của sự vật trong
triết học cổ điển hay thời gian theo nghiã thông thường. Nói vắn tắt: Da
là hiện diện, sein là hiện hữu, theo Heidegger: bản chất
của con người là tự "ném mình" về phía trước: nó đang ở hiện tại mà
đã ném mình về tương lai, và cả về phía sau lưng nó nữa. Khả năng này được
Heidegger gọi là Thời gian tính (Temporalité). Vậy chính con người tạo nên
thời gian.
Poulet dùng chữ thời gian, khi thì theo nghiã hiện sinh của
Heidegger, khi thì theo nghiã cổ điển, để đo lường sự dồn dập (hay mật độ) các
biến cố xẩy ra trong một khoảnh khắc, và coi đó như nguồn ánh sáng mới, dùng để
chiếu vào Racine, Diderot, Rousseau, Flaubert, ... Ở đây, cá thể (phê bình) đã
lần từng khoảnh khắc để khám phá một cá thể khác (nhà văn), cha đẻ của tác
phẩm.
Curtius, một trong những nhà phê bình chủ chốt của nhóm Bác ngữ học
Đức, đã từng xác định: trong văn chương quá khứ luôn luôn hiện diện, mặc thời
gian chia cắt, quá khứ vẫn giao thoa với hiện tại: L'Odyssée sống lại
trong các tác phẩm của Eschyle, Dante, Joyce... Sự huyền bí Tây Ban Nha nhập
vào T.S. Eliot. Ngay cả những cách diễn đạt, như thể loại, vần, đoạn, hình
thức, chủ đề, phương pháp, nhân vật cũng "sống lại trong nhau" như
vậy. Thế giới xưa không ngừng xâm nhập vào thế giới nay, vậy cần gì phải chia
cắt hai thế giới này. Dưới bề mặt chia cách sâu xa giữa hai thế giới, là sự
tiếp nối liên tục.
Từ ảnh hưởng Curtius, Poulet chứng minh rằng quá khứ không hề cắt đứt
với hiện tại mà nằm trong hiện tại: qua André Gide, người đọc thấy lại
Montaigne, Diderot báo trước Bergson[23]... Poulet khám phá ra đằng sau cái
khách quan của tác phẩm, tác giả luôn luôn tìm đến cái bên trong của con người
và thấy nó trong hành động sáng tạo.
Trong cuốn Nghiên cứu thời gian của con người, tập 2, hay Khoảng
cách nội tại (La distance intérieure) in năm 1952, Poulet tiếp tục khảo sát
các nhà văn từ một chiều kích khác mà ông gọi là khoảng cách nội tại. Đây
là một thứ không gian vừa là trung tâm vừa là dìa ngoài của tư tưởng. Một
loại khoảng cách từ ta tới ta. Poulet giải thích: tư tưởng của tôi là một không
gian có những ý tưởng của tôi; những ý tưởng này đến rồi đi, có cái biến mất. Vậy
tư tưởng của tôi không chỉ là tổng cộng những ý tưởng mà còn bao gồm toàn thể các
khoảng cách nội tại chia rẽ các ý tưởng ấy hoặc nối liền chúng lại với
nhau. Áp dụng vào nhà văn, cái mà Poulet gọi là "khoảng cách nội tại"
chính là khoảng cách giữa tư duy sáng tạo với cuộc đời thoát thai từ sáng tạo.
Trong cuốn Nghiên cứu thời gian của con người, tập 3, 1964, hay Điểm
xuất phát (Le point de départ) Poulet tìm điểm xuất phát, trách nhiệm
văn cách của 9 tác gia hiện đại: Whitman, Bernanos, Char, Supervielle, Éluard,
Perse, Reverdy, Ungaretty, Sartre. Điểm xuất phát này sẽ được ông xác định là cái
Cogito của nhà văn.
Trong cuốn Nghiên cứu thời gian của con người, tập 4, hay Đo
khoảnh khắc (Mesure de l'instant) in năm 1968, Poulet đề nghị: "Phải
sáng chế ra một "đơn vị khoảnh khắc" vì chiều kích của khoảnh khắc
luôn luôn thay đổi". Theo ông, khoảnh khắc đu đưa giữa cái không
và cái có, nó có thể co lại thành một điểm hay dãn ra đến vô cùng. Khoảnh
khắc sẽ trở thành yếu tố thứ nhì sau cogito, trong hành trình của nhà
văn. Poulet viết:
"Đơn vị khoảnh khắc đi từ cái không đến cái toàn thể, từ cực co
đến cực dãn. Giống như trong dạng thức sinh vật học của sự phân liệt, khoảnh
khắc có thể tự đơm đầy và cũng có thể, vì mật độ quá lớn, tự bùng vỡ, sinh ra
một quần thể đồng loại; trong một lúc nó vừa là nó, lại vừa là cái khác; đang
là hiện tại, mà đã tương lai. Phải chăng đó là khoảnh khắc của Proust -trái
ngược với những gì mà ta tưởng- phân chia cái bây giờ và cái mai sau, trong một
khoảnh khắc đang bắt đầu và đã chấm dứt. Proust gọi đó là một khoảnh khắc nhân
đôi, ở giữa thời gian. Và phải chăng đó cũng là trường hợp của khoảnh khắc hạnh
phúc (và bất hạnh) ở Julien Green, luôn luôn đặt ở đầu một thời đoạn và chấm
dứt ở ngưỡng cửa một thời đoạn vừa mới bắt đầu? Khoảng khắc biểu dương cái hữu
hạn và cái vô hạn. Ai biết làm sao sáng chế ra được một đơn vị khoảnh
khắc?"[24]
Có thể xác định lối phê bình của Poulet là phê bình theo chủ đề, và chủ
đề ở đây là khoảnh khắc (instant). Mặc dù thời gian không phải là chủ đề
của mỗi tác phẩm được phân tích, nhưng thời gian, hay đúng hơn, khoảnh
khắc được coi là nền tảng mà nhà văn dựa vào, và nhà phê bình "cắt"
nó ra để tìm hiểu nhà văn; tương tự như Spitzer "cắt" ra một chữ hay Auerbach
"cắt" một đoạn văn để phân tích toàn bộ tác phẩm. Nhưng Poulet chỉ giống
những bậc thày này ở chỗ "cắt" thời gian ra từng khoảnh khắc mà thôi.
Sau đó, cách phê bình của Poulet là như thế nào? Chúng ta thử xem ông phân
tích Mme de Staël trong Etudes sur le temps humain, tập 4.
Trước tiên, Poulet xác định: vinh quang và hạnh phúc, lúc đầu không phân
biệt rõ ràng trong óc người con gái tên Germaine, sau này sẽ trở thành nhà văn
Mme de Staël, bằng cách ông trích dẫn hai câu
của de Staël, trong hai bối cảnh khác nhau:
"Chỉ có vinh quang mới giúp ta thoát được thời gian" (La gloire seule nous affranchit du temps) (trong vở kịch Sapho), và "Em
đặt ở anh tất cả kỳ vọng, tất cả tương lai của em" (J'ai placé sur
vous toutes mes espérences, tout mon avenir) (Germaine de Staël nói với người yêu).
Hai câu này dẫn Poulet đến kết luận về Germaine de Staël: "Nàng
ném trí tưởng tượng, ném sức sống nhiệt tình, lòng tham vọng, khả năng yêu đương
vào một thời gian chưa đến và gọi nó với tất cả mong ước của nàng"[25]. Tiếp đó ông tìm thêm những câu khác của de Staël, vẫn rút
trong những bối cảnh khác nhau, nhưng có chữ thời gian hay khoảnh khắc,
như: "[Sự đam mê bỏng cháy] coi thường tất cả những gì thuộc về tương
lai và chạy theo mỗi khoảnh khắc như duy nhất có", "Không
có gì đau đớn cho bằng giây phút sau khi xúc động", "Sự hưởng thụ [khoái
lạc] chỉ tồn tại trong khoảnh khắc..." Để đưa ông đến những nhận định
về de Staël như sau:
"Trước nhất, ta phải hình dung ra diện mạo một con
người chưa sống, gần như chưa có quá khứ, mở mắt tỉnh dậy giữa một hiện hữu hãy
còn trong tương lai, và chờ đợi cái gì sẽ đến. (...)
Hiện hữu ở ngoài mình, đó là điều mà Germaine de Staël ước muốn, tức là hiện
hữu ở bên ngoài hiện tại để xô đẩy dòng chảy, buộc nó phải nhượng chỗ sớm hơn cho tương lai. Tư tưởng ở đây
không chỉ hướng về tương lai, tương lai không phải là giới hạn thời gian đã
định cho tất cả mọi sinh hoạt tâm thần, là mục đích nhắm tới, là "lúc"
thành đạt mong mỏi. Mà "cái lúc" ấy, còn phải khả dĩ cận kề và cần một quyết định đặc biệt, tư tưởng bực bội, thúc
nó hiện ra. Sự vội vã sống này là dấu ghi sớm nhất tính khí của Mme de Staël."[26]
Câu văn này khá tiêu biểu cho lối bình văn của Poulet, và ta thấy nhiều
cách viết như vậy trong phê bình mới: lời văn hàm súc, cô đọng gần như khó hiểu,
ý tưởng cao siêu, khiến người đọc bình thường dễ bị lạc trong khối tư duy trừu
tượng.
Lối phê bình trên đưa đến những nhận xét:
1- Trước hết nhà phê bình chọn một chủ đề, ở đây là thời gian, đúng
hơn là khoảnh khắc, hiểu theo nghiã triết học Heidegger, nghiã là con người
tự phóng mình về phiá trước và cũng tự quay lại phía sau. (Nói nôm na: khi ta đang
ngồi (hiện tại) rồi ta đứng dậy, tức là ta đã "phóng mình" về phiá trước
(tương lai). Mọi chuyển động của ta đều là "phóng mình" về "tương
lai", mọi suy nghĩ của ta đều là phóng mình về trước, hoặc về sau (tương
lai hay quá khứ), vì vậy Heidegger cho rằng con người "làm nên" thời
gian).
2- Sau đó Poulet tìm những câu trong thư từ hay tác phẩm của de Staël, ở
những hoàn cảnh khác nhau, câu nào có những chữ liên quan đến thời gian,
khoảnh khắc, quá khứ, kỷ niệm... và ông hội tụ lại, để chứng minh rằng: de
Staël là một con người "như vậy" tức là một người luôn luôn "phóng
mình về phiá trước", đợi những gì "sắp tới" và ông nói một cách
triết học hơn: de Staël chọn sự hiện hữu ở ngoài mình, bà đứng ra ngoài cuộc
hiện sinh để "giật dây" cho cuộc sống của bà chạy mau hơn, cho tương
lai đến sớm hơn dự định, để đưa ông đến nhận định: đó chính là tính khí "sống
vội" của de Staël từ thời trẻ. De Staël "tôn thờ tương lai",
sống vì tương lai, nhưng lại "phá hoại tương lai", vì sự "sống
vội" của mình. Và cuối cùng ông kết luận: De Staël có khiếu đớn đau
(le don de souffrir), cái khiếu của đàn bà hơn là đàn ông; và tác phẩm của
bà toát ra một sự nuối tiếc (le regret) khôn nguôi[27].
Đối với chúng ta, những nhận xét có tính cách triết lý trên đây của
Poulet, có thể cao siêu thật đấy, nhưng không giúp gì cho việc đọc và hiểu de Staël.
Bởi vì, nếu nhà phê bình chỉ đưa ra những nhận xét đại loại như: de Staël là
người, nên bà có "tính khí" phóng mình ra ngoài, như định nghiã
con người của Heidegger, thì thực là vô bổ, tuy đọc thấy lạ. Cùng phương pháp này,
Poulet cũng nhìn thấy ở thơ Lamartine: "thơ ông trở thành thơ của kỷ
niệm và nuối tiếc. Sự nuối tiếc này..."[28].
Vì làm việc và suy luận như vậy: lấy một số chữ trong tác phẩm liên
quan với chủ đề mà nhà phê bình định sẵn, để chứng minh cho chủ đề hay cho quan
niệm nhân sinh của mình, cho nên nhà phê bình dễ bị dẫn đến những ngõ cụt: hoặc
chỉ viết nên những chân dung văn học na ná giống nhau vì đồng nhất với quan niệm
của nhà phê bình, mà không đưa ra được những nét đặc thù thực sự của nhà văn đang
khảo sat. Phê bình mới, thường mắc phải lối viết như vậy, tức là nhà phê bình tạo
ra một văn bản "rất hay", có tính triết lý, nhưng đôi khi không ăn nhằm
gì tới cấu trúc văn phong và tư tưởng của tác giả.
Tuy nhiên, trường phái phê bình ý thức đã làm được hai việc cơ bản: Thứ
nhất, đẩy lùi ảnh hưởng của nền phê bình thực nghiệm, dựa trên triết học thực
nghiệm của Auguste Comte (1798-1857) đã chi phối đời sống văn học trong thế kỷ
XIX, mà đại diện tầm vóc nhất là Sainte-Beuve. Điểm thứ nhì: Trở về với triết học
Descartes (1586-1650), tìm lại "sự thực" đầu tiên: Cogito, Je
pense, donc je suis - Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu. Việc khám phá sự hiện hữu của
tôi là biểu hiệu đúng nhất của sự "biết chắc", nó mang tính cách tuyệt
đối hiển nhiên, và cho phép ta, đi đến một hiện hữu hiển nhiên khác, hiện hữu
phê bình: tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu. Và từ đó, mở rộng con đường ý thức
trong địa hạt phê bình. Georges Poulet đã đặt cái cogito đó, làm nền cho
phương pháp phê bình của mình cũng là điều dể hiểu. Tuy nhiên từ lý thuyết đến
thực hành không phải là dễ, và dường như Poulet chưa thực sụ thành công trong
việc này. Phải chăng khi Sartre nói: anh không thể xâm nhập được vào ý thức của
người khác, là ông đã "báo trước", từ năm 1939, cho Poulet biết sự thực
hiển nhiên này?
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
(Còn tiếp)
[1] Marcel Raymond - Georges Poulet, Trao đổi (Correspondance)
(1950-1977), Corti, 1981.
2 La conscience critique, t. 314.
3 NRF tức là La
Nouvelle Revue Française, tuyển tập văn chương Pháp, nguyệt san xuất hiện
trong khoảng 1920-1935, về phê bình có những ngòi bút chính: Albert Thibaudet,
Jacques Rivière, Du Bos, Raymond Fernandez.
4 La conscience critique, t. 9.
5 La conscience critique, t. 9.
6 La conscience critique,
t. 11-12.
7 La conscience critique, t. 12.
8 La conscience critique, t. 16.
9 La conscience critique,
t. 16.
10 La conscience critique, t. 17-18.
11 La conscience critique, t. 20.
12 La conscience critique, t. 21.
13 La conscience critique, t. 21.
14 La conscience critique, t. 21.
15 La conscience critique,
t. 23-24.
16 La conscience critique, t. 23.
17 La conscience critique, t. 22.
18 La conscience critique, t. 29.
19 La conscience critique,
t. 49.
20 La conscience critique, t. 50.
21 La conscience critique, t. 301.
22 La conscience critique,
t. 307.
23 Henri Bergson (1859-1941), triết gia Pháp, chủ trương trực giác là phương
tiện duy nhất để nhận biết thời gian và cuộc đời.
24 Etudes sur le temps
humain, tập 4, Plon, 1964,
Pocket, 1990, Avant-propos, t. 12-13.
25 Etudes sur le temps humain, tập 4, t. 193.
26 "En premier lieu
donc, il faut nous figurer un être qui n'a pas encore vécu, qui n'a presque pas
de passé, et qui, ouvrant les yeux, s'éveillant à une existence encore future,
attend ce qui va venir (...)
Exister
au-delà de soi, voilà donc ce à quoi Germaine de Staël aspire, c'est-à-dire
exister au-delà du présent pour en précipiter le cours, pour l'amener à céder
plus tôt sa place à l'avenir. La pensée ici n'est pas seulement dirigée vers le
futur; celui ci n'est pas simplement le terme assigné à toute activité mentale,
le but visé, le moment d'accomplissement rêvé. Il faut encore que ce moment
soit aussi imminent que possible, et que par un acte spécial la pensée impatiente
en accélère l'apparition. Cettte hâte de vivre est ce qui marque le plus
précocement le caractère de Mme de Staël", Etudes
sur le temps humain, tập 4, t. 194.
27 Etudes sur le temps
humain, tập 4, t. 195, 207.
28 Etudes sur le temps
humain, tập 4, t. 214.