Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2016
Nhã Ca: Nhớ Anh Như Phong
Nhã Ca Trần Thị Thu Vân
Tên thật Trần
thị Thu Vân, sinh năm 1939 tại Huế. Đã viết trên 40 tác phẩm. Trong đó có cuốn
""Đêm Nghe Tiếng Đại Bác" được dịch giả Trương Thị Liễu dịch ra
tiếng Pháp do Philippe Picquier ấn hành xuất bản và " Giải Khăn Sô Cho
Huế" do tiến sĩ Olga Dro dịch ra Anh ngữ "Mourning Headband for
Huế", nhà xuất bản Đại Học Indiana xuất bản. Sách đã được nhận giải Indief
Book of the Year Awards Winner 2015 và trở thành đề tài thảo luận tại một số
đại học lớn ở Hoa Kỳ.
Mặt bàn và cả
ngôi nhà đều nám bụi. Không sao. Thân thong thả lôi trong túi đồ nghề thầy
thuốc ra từng món. Sau ống nghe, dụng cụ đo huyết áp, là một chai cognac.
"Để lau
bụi đi đã. Các cô, các chú."
"Đừng
lau, chị cứ để nguyên vậy. Chị kệ bọn em. Để bác Sĩ Thân coi mạch anh lại cho
chắc ăn cái đã rồi chị em mình nhậu."
Anh Lê cười
cười, nói với cụ bà Nguyễn.
Vợ chồng
Giao- Thủy mang tới nồi càri. Đôi bạn Thân- Hằng góp thêm món phá lấu. Tôi lo
bánh mì, trái cây. Tất cả đã được dọn trên bàn, kể cả chai cognac của Thân, thứ
rượu hiếm có ở Sài Gòn 1988.
Khỏi cần phủi
bụi. Anh Lê nói đúng. Chúng tôi họp mặt nhau ở đây, chính là với lòng trân
trọng dành cho từng hạt bụi trong ngôi nhà hiu quạnh này. Chủ nhân ngôi nhà là
họa sĩ lão thành Nguyễn Gia Trí.
Từ thời tiền
chiến, Nguyễn Gia Trí là người tạo ra các nhân vật Lý Toét, Xã Xệ nổi tiếng
trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay. Ông là người đầu tiên đã đưa kỹ thuật tranh
sơn mài, vốn chỉ là một ngành thủ công nghệ, lên hàng tranh nghệ thuật có tầm
vóc quốc tế, và trở thành bậc thầy của loại tranh này, không chỉ riêng với Việt
Nam mà với cả thế giới. Nhiều màu sắc sơn mài, do ông khám phá ra, được ghi
trong tự điển mỹ thuật phương đông là "màu Nguyễn Gia Trí." Tranh của
ông, từ lâu, đã trở thành bảo vật.
Chỉ ít lâu
sau 1975, chính nhà nước Cộng Sản cũng hiểu ra điều này. Một sắc lệnh đặc biệt
đã được ban hành, coi tranh Nguyễn Gia Trí là tài sản quốc gia, cấm mang ra
nước ngoài.
Nhớ có lần
vui chuyện, nhắc tới cái sắc luật đặc biệt này, anh bạn họa sĩ Hiếu Đệ, nguyên
Giám Đốc Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật trước 1975, thấy tôi tỏ ý không quan tâm, đã
trợn mắt bảo:
"Bà coi
chừng. Mất mạng như chơi à. Tụi này chút xíu nữa mục xương vì nó."
"Xạo
vừa, cha. Cái gì mà mục xương?"
"Thiệt
mà, bà. Chuyện vầy nè: Dạo mới đi tù về, đang đói, tự nhiên có bọn đến đặt vẽ
một cái chân dung bác Hồ bự tổ chảng. Nhân dịp lễ Quốc Khánh mà. Vẽ thì vẽ. Sợ
gì. Bác Hồ mà. Vẽ xong, lấy tiền bỏ túi trốn bà xã đi nhậu. Ít lâu sau, một
bữa, bỗng thấy công an súng ống cùng mình, tới vây nhà, bắt thằng bé nhốt vô sở
công an thành. Ghê chưa?"
Nhớ Hiếu Đệ
kể tới đây còn ngừng lại làm duyên.
"Vớ vẩn.
Ông vẽ Bác Hồ của chúng xí trai thì chúng nhốt, ăn thua gì." Tôi nói.
Bấy giờ anh
mới đủng đỉnh giải thích:
"Không
phải vậy. Ông nội tui biểu tui cũng không dám vẽ ẩu. Chỉ tại vầy nè: Trong hội
trường trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tức là trường Quốc Gia Nghĩa Tử cũ của mình,
có treo một cái tranh Nguyễn Gia Trí lớn lắm. Quốc Khánh, Iàm lễ lớn, cha con nhà nó mang cái tranh Bác Hồ tui vẽ treo trùm
lên tranh Nguyễn Gia Trí rồi để luôn đó. Mấy tháng sau, khi giở bác Hồ ra, cái
tranh Nguyễn Gia Trí bên trong đã không cánh mà bay. Vậy là bọn chúng đi bắt
cái thằng vẽ Bác Hồ. Oan ôi ông Địa. Mình có biết mô tê gì đâu, chỉ thấy tiền
là vẽ. Phúc đức ông bà, may sao chúng chỉ nhốt ít lâu rồì thả. Đó, bà coi mà dè
chừng, đừng dại mà đụng tới tranh Nguyễn Gia Trí."
Mỗi lần có
dịp trở lại ngôi nhà này, tôi thường nhớ câu chuyện anh bạn Hiếu Đệ kể, nhưng
đã không kể lại với cụ Trí. Ngôi nhà yên tĩnh quá. Tôi biết từ sau 1975, nhiều
nhân vật chóp bu của ngành Văn hóa Hà Nội đã tìm tới đây, nhưng nhà danh họa
quyết định không cầm cọ vẽ nữa. Họa thất của ông, mười bốn năm qua tự nguyện
cho bụi phủ, không mở cửa tiếp khách. Từng hạt bụi trong căn nhà lặng lẽ này,
như vậy, tự nó có sức nặng, làm sao phủi đi được.
"Mạch
khá hơn rồi. Cụ bà vẫn ép cụ ông ăn uống đều như con dặn đấy chứ?"
"Ui dào.
Ông ấy có chịu ăn gì đâu. Hôm kia tôi mới làm bún chả, ép mãi mới ăn được ba
miếng." Cụ bà nói.
"Được
mà. Khá rồi. Ăn thấy ngon miệng." Cụ ông nhìn cụ bà cười cười.
Họa Sĩ Nguyễn
đã tám mươi tuổi, xương da khô đét như thiền sư, râu tóc bạc lởm chởm, mắt
sáng, lông mày cước lấp lánh như cặp đao tuốt trần, nhưng nụ cười lại hiền lành
ngây thơ như con trẻ.
Đóng cửa, tạ
khách mười bốn năm, cụ Nguyễn gần như không ra đường. Thường lui tới với cụ,
chỉ còn anh bạn Đằng Giao, người họa sĩ được coi là truyền nhân của Nguyễn Gia
Trí về sơn mài. Vậy mà hai năm trước đây, ngày nghe tin anh Hiếu Chân chết trong
tù, tôi nhớ cụ Trí còn một mình đi tới tận nhà thắp cho bạn nén nhang. Năm nay,
vào tuổi tám mươi, sức cụ đã yếu hẳn.
"Ấy, cô
đừng rót cho ông cụ!"
Cụ Trí đang
nhìn ly cognac vừa được Hằng đưa tới bằng ánh mắt thích thú, nghe tiếng cụ bà
kêu, vội quay sang nhìn Thân cầu cứu.
"Không
sao đâu, thưa cụ. Huyết áp thấp như cụ ông, uống chút rượu rất tốt, miễn là
uống đúng liều Iượng và đúng thứ rượu cognac này."
"Bác sĩ
nói là chắc ăn rồi. Chị để anh uống chút rượu mừng bọn Từ- Nhã chúng sắp lên
đường. Nào, nâng ly. Chúc sức khỏe anh chị." Anh Lê nói.
Mới mấy tuấn
lễ trước, cụ Trí bị hôn mê, liệt nửa người, cả bọn hè nhau đưa cụ vào bệnh
viện. Bệnh tuổi già. Một động mạch nào đó bị nghẹt. Chính Thân lo cấp cứu, xếp
phòng, điều trị. Trưởng khoa tim mạch cho một bệnh viện cũ đang được chọn làm
thí điểm quản trị thu tiền bệnh nhân theo kiểu bệnh viện tư thời trước, Thân
vừa là y sĩ, cũng vừa là họa sĩ, từ lâu đã tự nguyện chăm sóc cho cụ Trí. Lời
bác sĩ cổ võ cho cognac được cụ bà nể nang. Hớp rượu làm cụ ông khỏe ra, chuyện
trò coi phấn chấn thấy rõ.
Bàn tay thiên
tài của họa sĩ lớn hơn tay người thường, đặt ly rượu xuống. Những ngón tay dài,
cứng, vươn ra, nắm vào.
"Em thấy
anh còn khỏe lắm. Có thể còn lái mô tô được. Anh nhớ cái mô tô hồi ngoài Bắc
chứ nhỉ?"
Anh Lê nói và
cụ Trí cười vui:
"Nhớ.
Hồi ông Hoàng Đạo bị nhốt ở Cao Bằng, tôi lái cái xe mô tô ấy lên thăm, dọc
đường, ngã xuống hố tưởng chết. Vậy mà không hề gì. Hồi đó khỏe thật."
Hoàng Đạo,
tác giả cuốn Con Đường Sáng, là lý thuyết gia của nhóm Tự Lực Văn Đoàn thời
tiền chiến. Ông vừa là nhà văn, nhà báo, lại là nhà hoạt động cách mạng Việt
Nam Quốc Dân Đảng, từng bị Tây bắt đi an trí trên vùng rừng núi thượng du Bắc
Việt, về sau phải sống lưu vong rồi mất ở Quảng Châu, bên Tầu.
Cùng hoạt
động với Hoàng Đạo và các bạn, thời trẻ Nguyễn Gia Trí cũng đã từng bị người
Pháp bắt và chỉ định cư trú một nơi trong nhiều năm. Chính nhờ những năm bị an
trí, ông đã dành hết thời giờ, sức lực cho sơn mài và trở thành bậc thầy của
loại nghệ thuật này.
Thêm một hớp
rượu nữa, cụ Trí kết luận:
"Có lần
tôi đã bảo Đằng Giao rằng sơn mài là thứ nghệ thuật chỉ những anh từng bị cầm
tù mới có thể thành công được. Sự thật là vậy. Đây là thứ nghề rờ mò tỉ mỉ, tối
công phu. Nếu không bị Tây cầm chân một nơi chắc tôi đã không đủ kiên nhẫn ngồi
một chỗ để mà làm việc này."
Tôi nhìn Thủy
cười. Anh bạn bố thằng cu Red này, sơ sơ cũng tù Cộng Sản bảy tám năm. Có lẽ
nhờ vậy mà Đằng Giao là người duy nhất đã được cụ Trí chọn.
"Thời bị Tây an trí, cụ còn vẽ lại
được. Lần này khỏe cụ vẽ lại nghe." Thân nói.
"Vẽ đi, anh ạ. Chị à, chị phải bắt
anh vẽ lại. Phần việc nào nặng nhọc, sẽ có Đằng Giao với bọn em phụ giúp."
Anh Lê hưởng ứng lời của Thân. Cụ bà bắt
đầu nhai thêm miếng trầu mới:
"Thì tôi
vẫn bảo ông ấy vẽ đấy chứ. Mà bảo đâu có được."
Có vẽ không
được thật. Khi lấy ly cognac, cụ ông lấm lét nhìn cụ bà. Nhưng lúc này thì
không. Vẫn nụ cười ngây thơ giống con trẻ, cụ Trí từ tốn nói:
"Vẽ nữa
cũng chẳng để làm gì. Già rồi. Có việc, lúc trẻ mình làm coi được mà già thì
không được."
Có tia nắng
từ khoảnh sân nhỏ phía ngoài song cửa sổ rọi vào. Như thơ Phan Khôi, nắng chiều
đấy. Nắng đẹp, nhưng lặng lẽ. Trong tia nắng, lại thấy những vạt bụi lung linh,
làm tôi nhớ nhiều thứ. Nhớ nhà văn họ Nguyễn nay đã không còn nữa. Nhớ bông hoa
súng bị bẻ cọng cột vô túi nylon sau lưng ông trong buổi họp mặt văn nghệ vui
vẻ hôm nào. Rồi nhớ đến chính mình. Nhớ là chúng tôi đang từ giã bạn hữu để rời
bỏ đất nước thân yêu, như cọng hoa sắp bị bứt khỏi gốc. Vậy mà mọi người và
ngay cả chính mình lại thấy Ià đáng mừng, hệt như cọng hoa bứt gốc được khen
đẹp.
Ngồi: Ông bà
Nguyễn Gia Trí; Đứng, từ
trái: Nhã Ca,
cháu cụ Nguyễn Gia Trí, Chu Vị Thủy, Trần Dạ Từ,
Như Phong Lê Văn Tiến và Đằng Giao
Không chỉ từ
biệt. Nhiều phần là vĩnh biệt.
Người họa sĩ
già bẻ bút vào cuối đời đã qua tuổi tám mươi. Ngày chúng tôi có thể trở lại đất
nước, nếu quả có ngày ấy, không chắc gì còn được gặp lại ông. Cũng không chắc
gì ngôi nhà cũ kỹ này còn đứng vững. "Đó. Đó. Nó sập tới nơi rồi!" Cụ
bà Trí thường kêu lên với chúng tôi vậy khi nghe tiếng chuột rúc. Nhà chỉ có
hai ông bà già, chuột cống từng đàn suốt ngày đục khoét, đùa rỡn.
Phước cho
tôi, còn được thấy những hạt bụi lung linh trong căn nhà cũ kỹ này. Nhờ đó mà
lòng thư thái hơn, tin tưởng hơn vào phẩm giá nghệ sĩ và con người.
*
Trên đây là
trích đoạn từ Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng. Sách viết tại Thụy Điển năm
1989, in tại Hoa Kỳ năm 1990. Người được gọi là "anh Lê" trong đoạn
hồi ký chính là Như Phong Lê Văn Tiến. Tên anh bị rút ngắn. Nhiều chi tiết về
anh bị lược bỏ. Chỉ vì khi đoạn hồi ký ấy được viết và in ra, anh còn ở Việt
Nam, trong vòng quản chế của công an Cộng Sản.
Như Phong là
ông anh lớn của làng văn, làng báo. Nghe danh anh, biết anh từ lâu, nhưng phải
chờ mãi tới sau tháng Tư 1975, khi Cộng Sản lùa hết bọn nhà văn, nhà báo Sài
Gòn vào tù, tôi mới có vinh dự làm...
hàng xóm của anh.
Trong trại
giam T 20 thuộc sở Công An Nội Chính Sài Gòn, ngoài các phòng giam tập thể --
mỗi phòng nhốt 40, 50 người -- còn có khu biệt giam gồm nhiều
"cachot" nối tiếp nhau. Đây là những cái hộp bê tông cửa sắt kiên cố,
trên cửa có ô thông hơi bằng bàn tay mở đóng từ phía ngoài để cai tù kiểm soát.
Cuối năm 1976, tôi ở cachot số 8. Một lần nửa đêm, bỗng nghe phía ngoài tiếng
sắt thép rổn rảng, rồi có tiếng hô "Lê Văn Tiến, thu dọn đồ cá nhân. Khẩn
trương."
"Thu dọn
đồ cá nhân" có nghĩa là người tù được chuyển phòng giam hoặc chuyển trại.
Tôi chờ tới phiên mình được kêu tên, nhưng chỉ nghe tiếng cửa sắt mở đóng một
lát rồi im. Thì ra người hàng xóm của tôi, tiếng gõ đêm đêm từ bên kia bức
tường, chính là anh Như Phong. Không biết chúng đưa anh đi đâu.
Năm 1988 --
hình như khoảng tháng sáu, tháng bẩy, tôi không nhớ chính xác -- nghe tin Như
Phong vừa ra tù, Từ cùng anh Mặc Thu đi đón anh về nhà.
"Như
Phong đây rồi. Cô lo bữa nhậu đi, cô Nhã." Anh Mặc Thu bảo tôi.
"Cô gọi
tôi là Gió. Ông Gió." Anh Như Phong nói.
Phải rồi, Như
Phong diễn nôm là như gió. Nhớ truyện ngắn "Nhốt Gió" của anh Bình
Nguyên Lộc, tôi phì cười:
"Gió mà
cũng tù?"
"Ơ hay,
cái cô này. Gió vào rồi gió ra. Làm sao chúng bỏ tù được gió?"
"Sơ sơ
mới 13 năm thôi."
"Hơ
hơ... Bộ cô tưởng tôi ở tù thiệt hả? Chính chúng mới là bọn ở tù. Đầu óc chúng
bị xiềng vào cái nhà tù do chúng tạo ra. Còn mình, chỉ cần nhắm mắt lại là mình
muốn đi đâu thì đi. Gió mà."
"Còn cái
lần anh nhịn ăn mấy tuần lễ rồi nằm thẳng cẳng trên băng ca cho chúng khiêng
đi, anh muốn đi đâu? Tính thăm Bác của chúng nó hả?"
"Còn
lâu," anh phản ứng nhanh, rồi ngạc nhiên, "Ủa, hôm ấy cô thấy tôi
hả?"
Không phải
tôi thấy. Chỉ là chuyện tôi nghe từ một bạn tù khác. Vào lúc anh Như Phong
tuyệt thực phải đưa đi cứu cấp, tôi đang ở trong một phòng giam tập thể. Nghe
tôi kể vậy, anh Như Phong cười hì hì, nói lảng:
"Sau vụ
ấy, lúc từ bệnh xá ra, chúng cũng cho tôi ra tập thể luôn. Vui đáo để."
Chuyện như
mới hôm qua, vậy mà đã là 12 năm sau.
Chiều tối,
thành phố cúp điện, Căn nhà số 142 như cái ống tối thui, nóng như lò nung. Bữa
nhậu mừng anh Như Phong ra tù được dọn ngay trên hè đường Tự Do, bên gốc cây me
già trước nhà.
Anh Mặc Thu
nâng ly đế, cười khà:
"Thấy
bọn mình đấu láo ngoài trời, mấy anh công an chìm chắc cũng yên tâm hơn."
"Ừ, mình
ăn ngon mà để họ lo lắng, tội nghiệp." Anh Như Phong nói.
Mấy anh em ăn
uống vui vẻ, chuyện nhà tù lớn, nhà tù nhỏ rôm rả. Có lúc anh Như Phong thình
lình bảo tôi:
"Tôi nợ
cô một việc."
"Gì mà
ghê vậy anh?"
"Trước khi bọn chúng mang anh em ông
này lên rừng, lẽ ra cô với Từ được gặp nhau một lần. Chẳng hiểu sao hắn để tôi
dành mất chỗ của cô. Hắn kể cô nghe chưa?"
Tôi nói với
anh tôi nghe rồi và hiểu. Cũng lại là chuyện T 20. Năm 1978, có lần Từ thình
lình được anh "cán bộ chấp pháp" gọi lên phòng làm việc, ra vẻ tử tế
nói, "Hôm nay anh muốn xin gặp bất cứ ai cũng được." Thay vì xin gặp
vợ con, Từ nói muốn họ cho gặp anh Như Phong. Đó là lần duy nhất hai anh em gặp
nhau trước sự giám sát của công an Cộng Sản. Ít ngày sau đó, Từ và các anh Mặc
Thu, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Hồ Văn Đồng, Nguyễn Viết Khánh... bị đưa lên
Gia Trung đi đầy. Phần anh Như Phong không biết ra sao. Ra tù sớm hơn anh mấy
tháng, Từ có kể lại lần gặp anh trong tù. Chuyện chỉ có vậy.
Với chúng
tôi, các anh Như Phong, Mặc Thu là lớp đàn anh. Thời bọn tôi còn là mấy cô cậu
nhóc tì tập sự viết lách, cả hai anh đều đã là nhà văn, nhà báo cỡ lớn. Sau đợt
di cư từ Bắc vào Nam, nhật báo Tự Do do các anh chủ trương là tờ báo Bắc kỳ dẫn
đầu làng báo Sài Gòn. Thêm mấy chục năm, đủ thứ đổi đời. Quản nhiệm Mặc Thu,
tổng thư ký Như Phong của báo Tự Do ngày nào ngồi đó, nhưng nhiều anh em khác
không còn nữa.
"Cháu
Vĩnh đã lên thăm anh chưa?" Tôi hỏi.
"Rồi. Tôi
đã hẹn Vĩnh mai lên nhà thắp nhang cho ông ấy."
Cháu Vĩnh là
con gái anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, một kiện tướng khác của tờ Tự Do. Vậy là anh
Như Phong đã nghe cháu Vĩnh kể về những ngày cuối cùng của ông bố nhà văn. Có
thể anh cũng đã biết sau khi hỏa thiêu, tro cốt anh Hiếu Chân đã được mang rải
trên sông Sài Gòn. Tôi kể thêm chuyện người chồng cháu Vĩnh trên đường đưa tro
cốt ra sông đã ghé qua đây. Chính trên vỉa hè này, cũng ngay dưới gốc cây me
này, tôi đã được đứng với tro cốt anh Hiếu Chân lần cuối.
Nghe kể, anh
Như Phong nhìn anh Mặc Thu.
"Hèn gì
bọn mình kéo nhau ra đây ngồi. Ông Hoạt đang nhậu với mình đấy, ông ạ."
"Chứ
sao. Tay này ranh lắm. Hắn biết cậu vừa ra tù mà." Anh Mặc Thu nói.
Đến phiên anh
Như Phong nâng ly, rồi không rủ ai, anh một mình đứng dậy, bước thêm một bước.
"Nào,
ông Hoạt, mình uống."
Anh nghiêng
ly, chậm rãi rưới rượu cho gốc cây.
Đó là hình
ảnh anh Như Phong một đêm Sài Gòn mà tôi còn nhớ mãi.