Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2016
Ðàm Trung Pháp MỘT THOÁNG HƯƠNG-VỊ THI-CA TRỮ-TÌNH ĐỨC-NGỮ
Thành kiến
cho rằng Đức ngữ chói tai, vụng về và nặng nề đã bị thi ca trữ tình Đức ngữ
phản bác bằng bản chất uyển chuyển, linh động, và đầy nhạc tính của nó. Chính
bản chất này đã giúp thơ trữ tình Đức ngữ đi sâu vào di sản văn học nhân loại,
qua một cơ duyên hy hữu: sự thăng hoa của loại thơ chan chứa tình cảm này xảy
ra cùng lúc mà âm nhạc đang đi đến tột đỉnh tại Đức Quốc. Mối liên kết diệu kỳ
giữa chữ nghĩa và âm điệu trong thế kỷ 18 và 19 đã tạo nên những bài ca bất hủ
cho các danh tài âm nhạc Brahms, Schubert, và Schumann. Trong bài viết này, bút giả mời quý bạn đọc
một vài bài hoặc đoạn thơ chan chứa tình người, trong đó --theo lời Hermann
Hesse (giải Nobel văn chương 1946)-- các thi sĩ sẵn sàng “gọi tên từng con thú
từng phiến đá với tất cả yêu thương.”
Du bist wie eine Blume (Em như là một đóa hoa) là một tuyệt
tác của Heinrich Heine (1797-1856).
Bài thơ này đã được Robert Schumann phổ nhạc nên lại càng thêm lừng danh hoàn
vũ. Nó phản ánh mối tình tuyệt vọng giữa thi nhân và một người bà con trong họ
mang tên Amalie, xinh đẹp nhưng rất thực tế. Nàng làm ngơ Heinrich để đi lấy
chồng giàu sang, gây ra một vết thương lòng dai dẳng cho nhà thơ. Trong đoạn mở đầu bài thơ, người đọc đã thấy
ngay mức xót xa khôn tả của Heinrich – Amalie yêu kiều bao nhiêu thì chàng đau
lòng bấy nhiêu:
Em trông
như một đóa hoa [Du bist wie eine Blume]
Bao nhiêuduyên dáng mặn mà băng trinh [So hold und schoen und rein]
Bao nhiêuduyên dáng mặn mà băng trinh [So hold und schoen und rein]
Ngắm em anh thấy khổ đau [Ich schau’ dich an und Wehmut]
Lẻn vô tâm thất thảm sầu lòng anh [Schleicht mir ins Herz hinein]
Tuyệt vọng
nhưng lại là một người thua cuộc cao thượng, trong phần còn lại của bài thơ ấy
Heinrich đã nguyện cầu Ơn Trên ban phước lành cho Amalie được mãi mãi là một
đóa hoa rực rỡ làm đẹp cho đời. Người ta thường coi Heine là nhà thơ lớn sau
cùng của trào lưu lãng mạn Đức đã có thể viết lên những bài thơ tráng lệ tiêu
biểu nhất của thời điểm ấy. Chẳng hạn, bài thơ Im wunderschoenen Monat Mai
(Trong tháng năm rực rỡ) của Heine cho người đọc thấy con người và thiên nhiên,
vốn đã sẵn có những liên hệ mật thiết, cùng chợt bừng tỉnh khi mùa xuân trở
lại:
Trong tháng Năm rực rỡ [Im wunderschoenen Monat Mai]
khi muôn hoa đua nở [Als alle Knospen sprangen]
là lúc trong tim tôi [Da ist in meinem Herzen]
tình yêu bừng thức dậy [Die Liebe aufgegangen]
Trong tháng Năm rực rỡ [Im wunderschoen Monat Mai]
khi chim chóc líu lo [Als alle Voegel sangen]
tôi cùng nàng thú thật [Da hab’ ich ihr gestanden]
lòng ham muốn của tôi [Mein Sehnen und Verlangen]
Chủ đề “carpe
diem” hoặc “xuân bất tái lai” không thể thiếu trong thi ca trữ tình, và thi sĩ Ludwig Heinrich Christoph Hoelty
(1748-1776) tài hoa mệnh yểu viết về chủ đề này như có linh tính về cuộc đời
ngắn ngủi của chính mình. Giỏi thần học và bi quan về cuộc sống phù du, Hoelty
mê say thiên nhiên, ái mộ tuổi trẻ, và ngợi ca tình ái. Nhưng cạnh niềm vui
trong thơ Hoelty, người ta thấy lẩn quất đâu đây một thiên tai đang đợi, một Tử
Thần đang chờ. Trong bài Lebenspflichten (Trách nhiệm cuộc đời),
giữa khung cảnh tráng lệ của mùa xuân Hoelty đưa ra cái chết bất ngờ của một
chàng trai đang dồi dào sinh lực:
Hôm nay trong điệu xuân vũ [Heute huepft, im Fruelingstanz]
chàng thanh niên còn vui thú nhảy cao
[Noch der frohe
Knabe]
Mai đây vòng hoa thương nhớ [Morgen weht der Todtenkranz]
trên mộ chàng đã theo gió phất phơ [Schon auf seinem Grabe]
Nhưng từ cái
nhìn thực tế đến cõi đời ngắn ngủi, Hoelty không buồn mà chỉ muốn xác định mục
đích cuộc đời một cách giản dị và hợp lý: vì cái chết không thể tránh được,
chúng ta hãy tận hưởng cuộc sống phù du ấy trong niềm vui cùng thiên nhiên,
tình ái, và say sưa:
Chớ để chim họa mi nào [Lasset keine Nachtigall]
líu lo nhưng không ai biết [Unbehorcht verstummen]
con ong nào lúc xuân về [Keine Bien’, im Fruehlingsthal]
rầm rì mà chẳng ai nghe [Unbelauschet summen]
o
o o o o
Hãy
tận hưởng khi Trời ưng thuận [Fuehlt, so lang es Gott erlaubt]
nụ
hôn cùng những trái nho ngon [Kuss und suesse Trauben]
cho
đến khi Thần Chết tham ô/[Bis der Tod, der alles raubt’]
cướp
đi hết những gì anh có [Kommt, sie euch zu rauben]
Thi nhân trữ tình lẫy lừng nhất trong văn học Đức phải
là Johann Wolfgang von Goethe
(1749-1832). Bậc thiên tài hy hữu trong lịch sử loài người đã thành công trong
đủ mọi loại văn chương. Trong cõi thơ trữ tình của ông, nổi bật nhất là ngôn
ngữ bình dị và cấu trúc ngữ pháp đơn sơ theo truyền thống dân ca. Trọn bài thơ Gefunden
(Tìm thấy) chuyển ngữ dưới đây phản ánh vẹn toàn các đặc trưng đó:
Tôi đi trong rừng [Ich ging im Walde]
Một mình cô quạnh [So fuer mich hin]
Chẳng tìm kiếm chi [Und nichts zu sehen]
Đó là chủ ý [Das war mein Sinn]
o
o o o o
Bỗng trong bóng mát [Im Schatten sah ich]
Ló rạng nụ hoa [Ein Bluemenchen stehn]
Long lanh tựa sao [Wie Sterne leuchtend]
Đẹp đôi mắt hiền [Wie Aeuglein schoen]
o
o o o o
Tôi muốn bẻ hoa [Ich wollt’ es brechen]
Nhưng
hoa khẽ bảo [Da
sagt’ es fein]
Hoa sao khỏi héo [Soll ich zum Welken]
Nếu phải
lìa cành [Gebrochen sein]
o o o o
o
Tôi đào
tất cả [Ich grub’s mit
allen]
Rễ nhỏ
cây hoa [Den Wuerzlein
aus]
Đem về vườn
cây [Zum Garten trug
ich’s]
Bên nhà lộng lẫy [Am huebschen Haus]
o
o o o o
Tôi
trồng lại hoa [Und
pflanzt’ es wieder]
Trong góc vườn vắng [Am stillen Ort]
Giờ đây cây lớn [Nun zweigt es immer]
Mãi mãi trổ bông [Und blueht so fort]
Cần nói thêm
rằng cái cây hoa tươi tốt mà lại biết nói tiếng Đức rất có duyên trong bài thơ
hiền hòa chan chứa ân tình nêu trên chính là cô Christiane Vulpius. Cô là một
thanh nữ đẹp cả người lẫn nết mà thi nhân đã bất ngờ “tìm thấy” trong một công
viên tại La Mã và mang ngay về nhà làm bạn đời đấy!
Một nhà thơ
rất ái mộ Goethe là Jakob Michael
Reinhold Lenz (1751-1792). Lenz bắt chước cả lối sống lẫn phong cách làm
thơ của Goethe. Nhiều bài của Lenz giống thơ Goethe đến nỗi người đương thời
không thể phân biệt nổi. Bài thơ thống thiết Wo bist du itzt? (Em ở
đâu bây giờ?) mà hai đoạn được trích dẫn dưới đây cho thấy thêm vài chi tiết
thú vị. Lenz làm bài này để tặng Friedericke Brion, một phụ nữ mà thi nhân đang
choáng váng say mê. Friedericke cũng đã là nguồn cảm hứng dạt dào một năm trước
đó cho các bài thơ tình nồng nàn nhất của Goethe! Chắc hẳn Lenz đã làm bài thơ đó trong lúc
thương nhớ người trong cuộc đến tái tê, viết ra những câu không gò bó, chất
ngất đắm say riêng tư, rập theo khuôn mẫu những bài thơ trữ tình ban đầu của
Goethe. Có lẽ chỉ những ai đã có kinh nghiệm với sự kiện người yêu mình tự nhiên biệt tích tăm hơi mới
có thể hiểu thấu nỗi đau lòng của Lenz lúc đó:
Từ buổi em đi, mặt trời hết sáng [Seit du entfern will keine Sonne
scheinen]
và
có mối tâm đồng [und es vereint]
giữa
trời xanh và người bạn em đây [das Himmel sich, dir zartlich
nachzuweinen]
nhớ thương em than khóc vơi đầy [mit deinem Freund]
Mọi lạc thú cùng em xa vắng [All unsre Lust ist fort mit dir
gezogen]
lặng tanh thành phố lẫn đồng hoang [still ueberall]
theo em đã vụt bay đi khỏi [ist Wald und Feld. Dir nach ist sie
geflogen]
cả
chú chim nhỏ bé họa mi [die Nachtigall]
Bài thơ trữ
tình tiếng Đức mà bút giả cho là thấm thía nhất mang tên Der Wirtin Toechterlein (Con
gái nhỏ bà chủ quán) của Ludwig Uhland
(1787-1862) sẽ kết thúc bài viết này. Nhiều
thơ của Uhland đã nghiễm nhiên trở thành dân ca thực sự của dân tộc Đức.
Bài dân ca nổi tiếng dưới đây của Uhland có nhiều yếu tố bất ngờ độc đáo trong
nội dung. Xin ngừng tại đây với bài dân ca mà không ít người nghe hoặc đọc đã phải
hoe con mắt:
Ba chàng trai trẻ vượt sông Rhein [Es zogen drei Bursche wohl ueber den Rhein]
đến ghé thăm một bà chủ quán [Bei einer Frau Wirtin, da kehrten sie ein]
“Bà chủ còn rượu ngon đấy chứ [“Frau Wirtin, hat Sie gut Bier und Wein]
ái nữ yêu kiều của bà đâu?” [Wo hat Sie Ihr schoenes Toechterlein?”]
o o o o o
Và khi họ bước vô phòng khách [Und als sie traten zur Kammer hinein]
thấy cô nằm trong chiếc hòm đen [Da lag sie in einem schwarzen Schrein]
o o o o o
Chàng thứ nhất lật tấm khăn che mặt [Der erste, der schlug den Schleier zurueck]
và ngắm nàng qua tia mắt khổ đau [Und schaute sie an mit traurigen Blick]
“Em đẹp xinh ơi, nếu em còn sống [“Ach! Lebtest du noch, du
schoene Maid]
anh sẽ
yêu em mãi mãi chẳng ngừng” [Ich wuerde dich lieben von dieser Zeit”]
o o o o
o
Chàng thứ
hai lật tấm khăn che mặt [Der
zweite deckte den Schleier zu]
rồi quay
lưng, cho lã chã lệ rơi [Und
kehrte sich ab und weinte dazu]
“Hỡi em
yêu nằm trong quan tài tối [“Ach!
Dass du liegst auf den Totenbahr]
anh chót yêu em đã mấy năm rồi [Ich hab’ dich geliebt so manches Jahr”]
o o o o o
Chàng thứ ba bước tới lật khăn lên [Der dritte hub ihn wieder sogleich]
hôn miệng nàng đã ngả mầu trắng bệch [Und kuesste sie an den Mund so bleich]
“Anh đã yêu em, yêu em hôm nay [“Dich
liebt’ ich immer, dich lieb’ ich noch heut]
và sẽ còn yêu em tận muôn đời” [und werde ich lieben in Ewigkeit”]