Thứ Hai, 25 tháng 7, 2016
Nguyễn Thị Từ Huy - Cái khóa của Bộ Ngoại giao (phỏng vấn Đặng Xương Hùng (phần 2 &3)
Nguyễn Thị Từ Huy: Các chính sách đối ngoại đã được xây dựng như thế nào ở Bộ Ngoại giao, thưa ông?
Đặng Xương Hùng: Cũng như các cơ quan nhà nước khác, Bộ
Ngoại giao cũng chỉ đơn thuần là cơ quan làm minh họa cho một chính sách đối
ngoại đã có sẵn mà các kỳ đại hội đảng vạch ra. Các hoạt động đối ngoại hầu như
chỉ có tính chất tô vẽ minh họa hoặc phân bua, ngụy biện bào chữa, đối phó. Những
người phát ngôn Bộ Ngoại giao như Nguyễn Phương Nga, Lê Dũng, Lê Hải Bình, họ đều
là những người khá giỏi. Nếu để họ được nói theo cách của họ, chắc rằng họ sẽ
không bị mang tiếng là những "quan ngại". Như vậy, công việc phân
tích độc lập để đề ra những thay đổi chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình
không phải là nhiệm vụ chính của Bộ Ngoại giao.
Đảng và Nhà nước chưa dành cho Bộ ngoại
giao một cơ chế nghiên cứu, phân tích thật sự độc lập để có thể đề ra một chính
sách đối ngoại phù hợp với đất nước và phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân
dân.
Bộ ngoại giao Việt Nam khác với Bộ
ngoại giao các nước văn minh khác. Bộ Ngoại giao các nước phụ trách
toàn bộ công việc đối ngoại của một quốc gia, từ những hoạt động đối ngoại cụ
thể, cho đến việc họ là cơ quan chính nghiên cứu tình hình, nghiên cứu, phân
tích các đối tượng, để đề ra một chính sách đối ngoại.
Trong khi đó, Bộ ngoại giao Việt Nam
nặng về phần làm công việc minh họa cho chính sách đối ngoại của đảng đã định sẵn.
Họ làm công tác nghiên cứu, nhưng mới dừng ở mức đưa ra những kiến nghị nằm
trong một khuôn khổ đã được định hình từ trước trong chính sách đối ngoại. Phần
lớn những kiến nghị của Bộ ngoại giao chỉ mang tính chất sách lược, nằm ở khâu
đề ra giải pháp chứ chưa mang tầm một thay đổi chiến lược.
Những thay đổi chiến lược trong lịch
sử ngoại giao Việt Nam thường gắn với việc thay đổi xác định bạn và thù. Thường
xảy ra sau một tranh cãi nội bộ của đảng gay gắt. Ví dụ, như những thay đổi thời
hội nghị Thành Đô 1990, mà chính trong các sự kiện liên quan đến việc thay đổi
chiến lược với Trung Quốc trong thời gian này, tiếng nói của Bộ Ngoại giao đã bị
gạt ra ngoài, để các tiếng nói của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng và của Bộ Quốc
phòng trùm lên. Những phân tích tình hình thế giới và những bước đi cần thiết của
đất nước trong bối cảnh đối ngoại lúc đó đã được các ông Nguyễn Cơ Thạch, Trần
Quang Cơ phân tích đều không được lắng nghe. Thậm chí, người ta còn gạt ông Thạch
đi để thực thi một đường lối đối ngoại mới.
Như vậy có thể nói chính sách đối ngoại
của Việt Nam còn phụ thuộc rất nhiều về yếu tố ý thức hệ là chính, tức vẫn còn
chịu tác động bởi sự phục vụ cho lợi ích của đảng nhiều hơn là phục vụ lợi ích
dân tộc, lợi ích của người dân. Nếu để Bộ được quyền nghiên cứu tình hình một
cách độc lập, ít nhiều đất nước ta đã không rơi vào tình trạng lệ thuộc hoàn
toàn vào Trung Quốc như hiện nay. Các mối quan hệ với Mỹ và Phương Tây cũng sẽ
được tăng cường thực chất hơn, nền kinh tế của Việt Nam cũng được phát triển cởi
mở hơn.
Nguyễn Thị Từ Huy: Như vậy là tương đối
rõ ràng: Bộ Ngoại giao thực hiện chính sách đối ngoại do đảng đề ra
và đặt lợi ích của đảng lên trên hết. Điều này hẳn là một trong
những lý do khiến ông rời khỏi Bộ?
Đặng Xương Hùng: Ngay từ đầu khi mới vào ngành tôi đã
được dạy: Bộ Ngoại giao là Bộ cộng sản. Câu "Bộ Ngoại giao là Bộ cộng sản"
là câu mà các lãnh đạo Bộ Ngoại giao thường xuyên nhắc tới trong giai đoạn những
năm 1980. Câu nói này lúc đó mang tính tự hào, đề cao vị thế của Bộ Ngoại giao,
là Bộ quan trọng của đảng. Ngày đó yếu tố đảng hết sức quan trọng trong mọi
lĩnh vực. Bộ trưởng Ngoại giao thường là một trong những người đứng đầu trong Bộ
Chính trị của đảng cộng sản Việt Nam, thí dụ như ông Nguyễn Duy Trinh, ông Nguyễn
Cơ Thạch. Những năm đó, cán bộ ngoại giao phải là đảng viên. Muốn nắm một chức
vụ phải là đảng viên. Việc vào đảng lúc đó cũng khá chặt chẽ và khắt khe.
Sau này, câu nói trên ít được nhắc đến
nữa. Cũng có thể là do yếu tố cộng sản không còn là một khái niệm mang đến tự
hào nữa, nhất là khi khối cộng sản sụp đổ ở Đông Âu, và sự mất điểm của đảng cộng
sản Việt Nam đối với chính dân chúng của mình. Tuy nhiên, yếu tố đảng vẫn nặng
trong các hoạt động đối ngoại. Các báo cáo, đề án quan trọng của Bộ đều phải
qua Bộ Chính trị và Ban Bí thư là chính chứ không phải báo cáo Thủ tướng chính
phủ là chính. Trong những buổi kiểm điểm định kỳ, chúng tôi luôn phải tuyên bố
tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản. Việc này, trong những năm gần đây,
cùng với hình ảnh đã thay đổi tệ hại của đảng cộng sản thì nó đã giảm dần ý
nghĩa của nó, nhưng nó vẫn là câu tuyên thệ bắt buộc và vô hình chung nó nhưng
một cái khóa, khóa chúng tôi lại với vòng luẩn quẩn đó.
Khi tôi lựa chọn từ bỏ, bạn tôi có
vài người đã cho tôi là dại. Vì rằng tôi còn một lựa chọn khác, chờ đến khi trọn
vẹn về hưu rồi thì hãy muốn làm gì thì làm, muốn lên tiếng gì thì lúc đó mới
lên tiếng, như lựa chọn của một số công chức nhà nước hiện nay. Làm như vậy
mình được cả đôi đường. Nghe ra, đây là lựa chọn số đông và bao giờ cũng có phần
có lý của họ. Ông Trần Quang Cơ, ông Nguyễn Trung cũng lựa chọn như vậy. Mà làm
như vậy cũng đã để chúng ta rất đáng kính trọng rồi. Ít ai dám như ông Trần
Xuân Bách, ông Nguyễn Cơ Thạch. Các ông đã lựa chọn được cả, không thì thôi
không còn ý nghĩa gì hết, trả về cho gió cuốn đi và chỉ cần thế là đủ làm các
ông mãn nguyện.
Là người trong cuộc và thuộc giới hưởng
lợi, tôi luôn hằng mong rằng đảng cộng sản sẽ thay đổi, để lựa chọn đi với thế
giới văn minh, từ bỏ ảo tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhưng không, những diễn biến xảy
ra trước mắt mình cho thấy, cho tôi tự rút ra kết luận rằng, cộng sản sẽ không
bao giờ thay đổi. Vì vậy, nếu cộng sản đã khăng khăng quyết tâm như vậy, tôi đã
bắt đầu nghĩ đến việc sẽ từ bỏ nó. Như một bài học ta thường được nghe thấy, nếu
ta không tự cải tạo được điều gì thì ta nên rời bỏ nó hoặc tránh xa nó ra. Câu
chuyện đối với tôi, chỉ còn là thời điểm nào tôi sẽ quyết định. Một số bạn bè của
tôi đã từng được nghe tôi bày tỏ dự định này của tôi. Cuối cùng tôi đã đi đến
quyết định rằng, khi các anh chị của tôi đã hoàn toàn về hưu, tôi sẽ thực hiện
dự định này, vì rằng trong chế độ cộng sản, họ thường sử dụng chiêu dùng người
nhà làm nhụt chí những ai có ý đồ chống đối. Tháng 10/2013, khi Quốc hội bỏ phiếu
thông qua giữ điều 4 trong Hiến pháp sửa đổi, và khi ông Nguyễn Phú Trọng thản
nhiên tuyên bố chủ nghĩa xã hội một trăm năm nữa không biết nước ta đã có chưa,
thì tôi đã thất vọng hoàn toàn. Tôi đã quyết định không chần chừ được nữa. Tôi
đã tự nhủ với mình rằng, cũng như một quyết định đi tự tử, nếu bỏ qua giây phút
quyết định, mình sẽ không bao giờ quay lại được nữa. Tôi đã chọn đây là thời điểm
hành động. Cũng nên thành thật rằng, tôi có một sự thuận lợi hơn so với người
khác là vợ con tôi lúc đó đã ở Châu Âu được hơn chục năm rồi.
Bộ Ngoại giao và Ban Đối
ngoại Trung ương Đảng (phỏng vấn Đặng Xương
Hùng, phần 3)
Nguyễn Thị Từ Huy : Có một điều đáng ngạc
nhiên khi quan sát bộ máy quyền lực của Việt Nam, đó là điều mà ông
Lê Đăng Doanh tóm gọn trong nhận xét : « Chính
phủ có bộ nào, cục ban nào, Đảng có hết tất cả thứ ấy ». Quả
thật là bên cạnh Bộ Ngoại giao ta thấy có thêm một Ban Đối ngoại Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao (BNG)
và Ban Đối ngoại (BĐN) của Đảng gần như tương tự, BNG có Vụ nào thì
BĐN cũng có Vụ đó.
Thưa ông, điều mà tôi
muốn hỏi là : vậy thì công việc của hai bên có chồng chéo lẫn nhau
không ? Tại sao đã có BNG rồi, mà lại còn phải thêm BĐN ? Chức năng,
nhiệm vụ của hai bên có gì khác nhau ? Và liệu có phải là BNG phải
chịu sự giám sát của BĐN ? Và nếu quả thực BNG làm việc dưới sự
giám sát của BĐN thì phải chăng quyền lực của Bộ trưởng BNG sẽ ít
hơn quyền lực của Trưởng BĐN ? Hay là BNG và BĐN là hai tổ chức độc
lập, hoạt động song song, không liên quan gì đến nhau ?
Đặng Xương Hùng : Cơ cấu hành chính của Việt Nam mang đủ
những đặc điểm của một nước cộng sản. Đó là sự chồng chéo nhau giữa bên đảng,
bên chính phủ. Điều ông Lê Đăng Doanh tóm gọn hoàn toàn đúng với sự thật.
Ban Đối ngoại trung ương của đảng và Bộ Ngoại giao của chính phủ cùng tồn tại
là nằm trong sự chồng chéo vô lý và tốn kém này.
Điều vô lý với thế giới bên ngoài, lại
là phần « có lý » của một cơ chế độc đảng như ở Việt Nam hiện nay.
Đây là cách mà đảng cộng sản thiết lập sự khống chế toàn diện lên toàn bộ
xã hội. Ví dụ, Ban Tuyên giáo trung ương quan trọng hơn là Bộ thông tin tuyên
truyền. Ông Trương Minh Tuấn là Bộ trưởng Bộ bốn T này, nhưng chỉ là Phó Ban
Tuyên giáo. Rõ ràng chúng ta thấy là Ban Tuyên giáo đang vẫn bao trùm lên Bộ
TTTT.
Bộ ngoại giao và Ban đối ngoại trung
ương cũng thuộc loại chồng chéo chung này. Người ta cũng đã từng tính đến việc
sáp nhập hai cơ quan này làm một. Nhưng có thể vì những mắc mớ về quyền lợi, cơ
quan nào bao trùm lên cơ quan nào và nhiều khó khăn khác như vấn đề biên chế,
người ta đã bỏ qua kế hoạch này.
Ban đối ngoại có từ thời trên thế giới
còn tồn tại nhiều đảng cộng sản, và công việc chủ yếu BĐN là phụ trách quan hệ
giữa đảng cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản quốc tế. Nay khi còn rất ít đảng
cộng sản, thì nó vẫn còn giữ nhiệm vụ theo dõi và giữ quan hệ với các
phong trào « tiến bộ » ở các nước trên thế giới. Do vậy, trên thực tế công việc
BĐN không bao trùm lên Bộ Ngoại giao, không giữ vai trò giám sát BNG trong công
việc đối ngoại của nhà nước, như trường hợp Ban Tuyên giáo và Bộ TTTT như đã
nói ở trên. Trừ thời gian, trước và sau Hội nghị Thành Đô. Do Ngoại trưởng Nguyễn
Cơ Thạch, ra mặt chống lại sự bình thường hóa quan hệ bất bình thường với Trung
Quốc, nên giai đoạn đó, Bộ ngoại giao có lép vế với BĐN, vai trò của ông Hồng
Hà, trưởng BĐN, được đề cao hơn Bộ trưởng Ngoại giao.
Nhưng dù sao BĐN và BNG vẫn là việc tồn
tại sự chồng chéo nhau về mặt tổ chức giữa bên đảng và chính phủ. Nó cho thấy bộ
máy hành chính của VN rất cồng kềnh, đã thành căn bệnh, nên tạo thêm những gánh
nặng cho nền kinh tế VN. Nhưng do nội dung công việc có phần khác biệt như đã
nói ở trên, BĐN và BNG là hai tổ chức có tính chất hoạt động tương đối độc lập
với nhau. Các đề án, báo cáo của Bộ Ngoại giao được gửi thẳng lên cấp trên, gửi
kèm cho BĐN để tham khảo, chứ không có câu chuyện BNG phải báo cáo BĐN.
Cũng chính từ cơ chế này mà thời gian
qua, thời gian giữa đại hội 11 và đại hội 12, là một cuộc tranh giành quyền lực
giữa hai nhóm đảng và chính phủ do Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu.
Để thiết lập lại sự khống chế của đảng với nhóm chính phủ do ba Dũng đứng đầu,
ông Trọng đã kéo Nguyễn Bá Thanh từ Đà Nẵng ra, kéo Vương Đình Huệ, từ Bộ Tài
chính sang để thành lập Ban Nội chính trung ương và Ban Kinh tế trung ương, với
ý định nhằm làm đối trọng và rút dần vai trò của chính phủ về hai Ban này, phần
nào muốn vô hiệu hóa vai trò của Ba Dũng. Sau đại hội 12, để giảm vai trò của vị
trí thủ tướng, ông Trọng đưa ông Phúc, một thủ tướng kém cỏi hẳn về mọi mặt, để
dễ bề quản lý, thao túng. Nhắc lại những câu chuyện này để thấy cơ cấu hành
chính của Việt Nam có sự lẫn lộn khá phức tạp.
Cơ cấu hành chính Việt Nam hỗn độn và
phức tạp đến mức, việc giảng dạy về cơ cấu này không dành cho người dân bình
thường để họ có thể nắm được cơ cấu nhà nước để hiểu được cơ chế hoạt động của
chính quyền. Quyển sách hướng dẫn về cơ cấu hành chính là một tài liệu mật -lưu
hành nội bộ của Học viện Hành chính quốc gia, chỉ dành cho những chương trình
giảng dạy cho cán bộ chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp từ các bộ cử đến
học.
Nguyễn Thị Từ Huy : Dư luận đồn đại rằng
trong các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, có một bộ
phận không nhỏ là an ninh và an ninh mật. Đồn đại này có đúng không,
thưa ông ? Nếu đúng thì những an ninh này đến từ đâu : họ là an ninh
của quân đội, của công an, hay của Trung ương Đảng ; hay là tất cả các
bộ phận an ninh này đều có ở Sứ quán Việt Nam tại các nước ? Và
nếu đúng như vậy thì điều đó hẳn phải ảnh hưởng rất lớn đến công
việc của các nhà ngoại giao, và ông có thể trình bày những kinh
nghiệm cá nhân khi phải làm việc dưới sự giám sát của bộ máy an
ninh, hay nói cụ thể hơn, ông có thể miêu tả cách thức mà ông đã
tiến hành công việc khi ông còn tại vị ?
Đặng Xương Hùng : Mỗi cơ quan đại diện của Việt Nam ở
bên ngoài đều có ít nhất một nhân viên an ninh, dưới vỏ bọc một cán bộ ngoại
giao. Phần lớn họ từ Cục đối ngoại Bộ Công An cử sang.
Về công việc, đối với ngành dọc của họ,
đó là câu chuyện hoàn toàn bí mật, các cán bộ ngoại giao khác đều khó biết, có
lẽ chỉ trừ ông đại sứ. Còn về công việc bề nổi, họ sang các sứ quán phần lớn họ
phụ trách công việc liên quan đến lãnh sự và cộng đồng. Qua phần công việc này,
họ có thể theo dõi được các đối tượng xuất nhập cảnh Việt Nam, và theo dõi những
diễn biến của cộng đồng người Việt tại nước sở tại. Gồm việc theo dõi cả hai đối
tượng chính : các tổ chức « phản động » và các tổ chức gọi là Việt kiều yêu nước.
Sự giám sát của họ với những cán bộ
ngoại giao còn lại có còn là một nội dung công việc của họ nữa không ? Theo tôi
quan sát, nhiệm vụ này đã giảm dần. Trước đây, khi tiếp khách đối ngoại, chúng
tôi phải có hai người để giám sát lẫn nhau. Đi đâu hoạt động gì cũng cần phải
có hai người. Tuy nhiên, những năm gần đây, việc này đã không còn là bắt buộc nữa.
Các cán bộ ngoại giao đã có thể độc lập tác chiến trên phần công việc của mình.
Tôi cho rằng công việc giám sát của họ
giảm dần ở các cơ quan đại diện ngoại giao, nhưng có thể vẫn còn là một phần
công việc của họ, dù không là công việc trọng tâm. Đó là công việc mà công an
đang áp dụng cho toàn xã hội nói chung hiện nay. Họ đều là những người bạn của
tôi. Có người đã từng học với tôi trong trường đại học ngoại giao. Hàng năm Bộ
CA vẫn cử sinh viên ngành mình sang trường ngoại giao để học.
Cũng như chúng tôi, việc họ được cử
ra nước ngoài, ngoài phần hoàn thành công việc, thì họ cũng đều coi đây là một
cơ hội để chú tâm kiếm được số tiền nào đó, người này thì làm giầu lên cho khối
tài sản của mình, người khác thì dành đó làm lương khô cho cuộc sống lâu dài của
gia đình mình. Mà số tiền đó đều từ phần chia lệ phí visa mà chúng tôi thu được.
Họ cũng được chia những khoản visa này.
Khi tôi làm Lãnh sự Việt Nam tại
Genève, tôi không có trở ngại gì trong công việc đối với những nhân viên an
ninh này. Họ là bạn của tôi. Thậm chí họ phải hỏi thông tin từ tôi về danh sách
visa, hộ chiếu và tham khảo với tôi về thông tin cộng đồng người Việt, có thể
là họ dùng những thông tin này để làm báo cáo với cơ quan ngành dọc của họ.
Paris - Genève, tháng 6/2016Nguyễn Thị Từ Huy
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét