Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016
Ngô Nhân Dụng - Trung Cộng sa lầy hơn Nhật Bản
Tình trạng kinh tế giảm tốc độ ở Trung Quốc hiện nay thường được đem so sánh với kinh tế Nhật Bản vào thập niên 1990. Chính giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã nói đến tấm gương sa lầy của kinh tế Nhật để bảo nhau cần phải tránh. Nhưng nỗi khó khăn ở nước Tàu hiện nay rất khác với hoàn cảnh nước Nhật trước đây một phần tư thế kỷ và sẽ đưa tới những khó khăn trầm trọng hơn.
Trung Quốc
phát triển mạnh trong ba chục năm qua, nhưng cũng không khác gì “phép lạ kinh tế”
đã diễn ra tại Nhật Bản và Nam Hàn trước đó. Cả ba nước đều bốc lên nhờ chính
sách mở mang công nghiệp hướng vào hàng xuất cảng ngay từ đầu, tiết kiệm và đầu
tư thật nhiều để duy trì tốc độ phát triển cao. Và cuối cùng cả ba đều phải giảm
bớt tốc độ đầu tư cũng như xuất khẩu để cân bằng kinh tế.
Tỷ lệ tăng
trưởng trung bình của kinh tế Trung Quốc là 9% trong ba chục năm từ 1980 đến
2015, so với Nhật là 8.6% trong thập niên 1960, 70; Ðại Hàn Dân Quốc là 7 tới
8% trong thời gian 1970-80. Sau đó, Nhật và Nam Hàn tụt dần xuống mức 3-4%, còn
Trung Quốc hiện đang cố giữ tỷ lệ 6-7%.
Sức phát triển
kinh tế dựa trên việc gia tăng tiền đầu tư, gia tăng lực lượng lao động. Khi
hai yếu tố đó không còn tăng thêm được nữa thì tốc độ sẽ giảm, muốn tiến thêm
phải gia tăng năng suất của người lao động.
Kinh tế cả ba
nước trên đều bắt đầu giảm tốc khi lợi tức bình quân lên tới mức 8,000 mỹ kim một
năm. Ðó là lúc những lợi thế lúc đầu biến mất; lương lao động không còn thấp
mãi trong khi nền công nghiệp đã vận dụng lợi thế đó đến mức tối đa, mức lời
trên những đồng tiền đầu tư giảm dần đến chỗ đứng yên. Trong tình trạng đó, mô
hình phát triển phải thay đổi, mức đầu tư giảm bớt và phải gia tăng năng suất
lao động. Muốn vậy, phải dựa vào kỹ thuật tân tiến, lấy cạnh tranh thúc đẩy
sáng kiến, canh tân. Các ngành canh nông và công nghiệp cũ không thể tăng năng
suất nhanh nữa, nay cần phải hướng về những ngành sản xuất có giá trị gia tăng
cao hơn, phát triển các ngành dịch vụ và thúc đẩy thị trường nội địa. Các nước
Nam Hàn và Nhật Bản đã đi qua con đường đó.
Con đường dẫn
tới khủng hoảng ở Trung Quốc cũng theo đúng những gì xảy ra ở Nhật trong thập
niên 1980, khi tiền bạc được đổ vào thị trường, thổi giá trị cổ phần và nhà cửa
lên cao. Khi trái bong bóng xì hơi ở Nhật đầu thập niên 1990, cả nền tài chánh
mang họa vì những món nợ khổng lồ không trả được, khủng hoảng thị trường địa ốc
và chứng khoán lan tới các ngân hàng và xí nghiệp. Năm 1997 Nam Hàn cũng lâm
cùng hoàn cảnh đó nhưng đã thoát sớm hơn. Ðến nay nước Nhật vẫn còn bị sa lầy
vì cải tổ cơ cấu chậm chạp.
Các món nợ ở
Trung Quốc cũng gia tăng nhanh, từ 150% của tổng sản lượng nội địa năm 2008 đã
lên tới 255% năm nay. Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Hoa đang chủ trương cải tổ
cơ cấu, giảm bớt vai trò của các doanh nghiệp nhà nước, cải tổ ngân hàng và
khuyến khích tiêu thụ. Cuộc cải tổ ở Nhật Bản bị trì hoãn hơn 20 năm qua vì sức
đề kháng do những nhóm quyền lợi riêng, thuộc giới doanh nghiệp, ngân hàng,
hàng ngũ công chức với các nhóm quyền lợi riêng. Trung Quốc cũng đang gặp các
chướng ngại giống hệt. Nhưng liệu Trung Quốc có thể rút kinh nghiệm Nhật Bản để
tránh các vết xe đổ của họ hay không?
Trung Quốc sẽ
gặp nhiều chướng ngại hơn Nhật Bản vào thập niên 1990, vì còn thua kém quá xa
trên nhiều lãnh vực.
Ngay từ sau
khi thất trận năm 1945, các công ty Nhật đã cạnh tranh với nhau và trên thị trường
thế giới bằng cách chú trọng vào phẩm chất và cải thiện phương pháp làm việc.
Khi bước vào thời khủng hoảng, hàng hóa Nhật đã tràn ngập thế giới với những
chiếc xe Toyota, Honda hay hàng tiêu thụ mang nhãn hiệu Sony, Panasonic và
Nikon. Cho tới nay, công nghiệp Trung Quốc chưa trình diện thị trường quốc tế một
sản phẩm nào được ưa chuộng và đáng tin cậy như vậy. Trong thập niên 1980 bao
nhiêu nhà kinh doanh Mỹ và Châu Âu đi tìm hiểu để học hỏi phương pháp quản trị
Nhật Bản. Kinh tế Trung Quốc tới nay vẫn chưa có gì để người ngoài bắt chước.
Ngược lại, chính Thủ Tướng Lý Khắc Trường mới than phiền cảnh dân giàu có ở
Trung Quốc kéo nhau qua Nhật mua từ nồi cơm điện (tránh mua hàng mang nhãn hiệu
Nhật làm giả mạo trong nước) đến sữa bột (sợ sữa trong nước có chất độc) và cái
bàn ngồi trong cầu tiêu.
Khi lâm vào cảnh
khủng hoảng thời 1990, nước Nhật đã sống trong chế độ tự do dân chủ được 40
năm, người dân tin tưởng chính quyền và tin lẫn nhau, cho nên đồng tâm chịu cảnh
thiếu thốn hơn trước. Dân Trung Quốc hiện đang sôi nổi tranh đấu đòi quyền sống
làm người, chống cường hào ác bá cướp đất cướp ruộng, mỗi năm hàng trăm ngàn cuộc
biểu tình. Khi kinh tế Nhật giảm tốc, đời sống của người dân đã khá giả không
kém gì các nước Âu, Mỹ; trong khi người dân Trung Quốc trung bình hiện nay vẫn
còn sống thiếu tiện nghi, lợi tức bình quân bằng một phần năm dân Nhật. Phải mất
20 năm nữa dân Trung Hoa mới theo kịp Nam Hàn và 40 năm để bằng dân Nhật Bản.
Xã hội Nhật ổn
định hơn. Lương bổng người lao động Nhật không thua quá xa lương giới quản đốc
đến mức khiến người ta ghen tị. Còn Trung Quốc, dù người cầm quyền vẫn tự xưng
là theo chủ nghĩa xã hội, hiện đang nhiều tỷ phú đô la nhất thế giới, trong khi
200 triệu công nhân từ quê lên tỉnh vẫn sống trong cảnh bấp bênh. Một vấn đề
nan giải ở nước Tàu là lực lượng lao động đang giảm sút, tỷ lệ gia tăng 1.5%
trong 10 năm đầu thế kỷ 21 sẽ tụt xuống thành số âm, bớt 0.1% mỗi năm trong thập
niên 2010-2020.
Dân chúng Nhật
cùng chịu đựng cảnh kinh tế suy yếu một cách hòa bình nhờ xã hội có trật tự, đạo
lý Khổng Mạnh vẫn được đề cao, mọi tầng lớp cùng chia sẻ nỗi khó khăn với nhau.
Hơn nữa, nếu người dân Nhật bất mãn, họ biết có thể thay đổi những người cầm
quyền bằng lá phiếu. Dân Trung Hoa nếu chịu cực khổ, bất công, cũng không được
phép nói ra nỗi bất bình!
Giới lãnh đạo
đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn chưa nhất tâm về con đường phải theo để thoát khỏi
cơn khủng hoảng kinh tế trì trệ. Các cuộc tranh giành quyền lực vẫn tiếp diễn
trong bí mật trong hậu trường, mạnh được yếu thua, trong một xã hội mà người có
quyền chưa bao giờ có thói quen coi trọng luật pháp.
Vì những nhóm
quyền lợi ở Trung Quốc quá mạnh, việc cải tổ cơ cấu không tiến được, nhiều lúc
đi ngược chiều với nhau. Năm ngoái, nhà nước hạ giá nhân dân tệ, gây ra hai cuộc
khủng hoảng thị trường chứng khoán. Tuy đại hội đảng trước đó đề cao việc nâng
vai trò của thị trường thay thế cho nhà nước, nhưng chính họ lại chữa chạy bằng
cách ra lệnh không được bán cổ phần và đem công quỹ ra mua cổ phiếu để bảo đảm
giá không xuống nữa. Năm nay, báo Nhân Dân đăng ý kiến của một “giới có thẩm
quyền” kêu gọi phải ngưng việc bơm tiền cho các xí nghiệp quốc doanh và những
chính quyền địa phương, thì ngay sau đó chính phủ loan báo sẽ chi thêm 5 ngàn tỷ
đồng nguyên để các địa phương xây dựng hạ tầng cơ sở. Chính phủ Mỹ muốn “kích
thích kinh tế” với hàng ngàn tỷ Mỹ kim như vậy sẽ bị quốc hội và dư luận báo
chí đặt câu hỏi ngay. Hiện tượng này phơi bầy mối bất đồng giữa lãnh tụ tối cao
Tập Cận Bình với Thủ Tướng Lý Khắc Trường; cuối cùng Tập Cận Bình đã tập trung
thêm quyền lực.
Tuy giới lãnh
đạo Trung Cộng luôn luôn nói đến việc chuyển từ đầu tư và xuất cảng sang tiêu
thụ nội địa, chuyển từ công nghiệp sản xuất nặng sang hàng tiêu thụ và phát triển
các dịch vụ, nhưng cuộc cải tổ đó vẫn chập chững không tiến được. Trung Quốc vẫn
sản xuất quá nhiều than, xi măng, nhôm và thép trong lúc thị trường thế giới
đang ứ đọng khiến các nước khác đều phản đối, đòi trừng phạt tội bán phá giá.
Những nhà máy thép, nhôm, xi măng của các doanh nghiệp nhà nước thực ra càng sản
xuất thêm nhiều thì càng thua lỗ, nhưng giới lãnh đạo không có cách nào để chấm
dứt cảnh đó.
Khi so sánh
tình trạng kinh tế Trung Quốc hiện nay với tình trạng Nhật Bản từ năm 1990,
chúng ta thấy nước Tàu đang gặp khó khăn gấp bội so với nước Nhật 25 năm trước.
Vấn đề không phải chỉ là những món nợ chồng chất sẽ gây khủng hoảng tài chánh,
ngân hàng. Kinh tế Trung Hoa chưa đạt được tới địa vị như kinh tế Nhật thời đó
để có thể chịu đựng trong khi tìm cách thoát được các khó khăn. Dân Trung Hoa
không được tự do, xã hội bất bình đẳng không hòa hợp như xã hội Nhật. Trong khi
đó giới lãnh đạo vẫn chỉ lo tranh giành quyền lực, thiếu công khai minh bạch
cho nên không thể tạo mối đồng tâm trong dân chúng.
Trong tình trạng
bế tắc như vậy, Bắc Kinh lại đang gây thù nghịch khắp nơi với chính sách bành
trướng lãnh thổ và hải phận, bất chấp luật lệ quốc tế. Thái độ cứng đầu chống lại
phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực về Ðường Lưỡi Bò khiến Trung Cộng càng
bị cô lập hơn. Nhưng đó cũng là con đường giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc phải
đi theo. Họ cần kích thích óc tự tôn Ðại Hán, làm món ăn tinh thần của dân
chúng thay thế cho chủ nghĩa Cộng Sản lỗi thời. Và làm như vậy cũng để cho dân
quên những khó khăn kinh tế đang tăng lên dần.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét