Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016
Phạm Cao Dương - Chuyện Bảy Mươi Mốt Năm Trước (17/6/1945 – 17/6/2016)
Lần
Đầu Tiên Lễ Tưởng Niệm Nguyễn Thái Học và Các Liệt Sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng Được
Công Khai Tổ Chức ở Kinh Đô Huế trong Một Nước Việt
Nam Độc Lập có Thủ Tướng Trần Trọng Kim tới dự.
“Sự lạ lùng ấy đã làm cho chúng tôi biết rõ một
điều chắc chắn. Là suốt từ Bắc chí Nam người Việt Nam, không một ai
quên ngày gìỗ lớn lao ấy. Lòng yêu nước đã bùng
cháy khắp chốn như ngọn lửa dài và tươi tắn đang lan theo đỉnh Tràng Sơn một tối
cháy rừng.”
“Gian phòng của hội Quảng Tri không đủ chứa lòng
thành kính của anh em nên bữa sau
lại phải đọc lại một lần nữa cho những người chậm chân không có chỗ. Ở đó tối hôm ấy còn có những ông già, bà cả,
những người áo rách, tay thành chai. Ở đó tối hôm ấy, có cả một ông thủ tướng với mấy ông bộ trưởng ngồi lẫn
vào đám đông chỉ lấy tư cách là dân
một nước.”
“Chúng tôi đã được
nhìn rõ nét mặt trang nghiêm của mọi người yên lặng tưởng nhớ tới người xưa, trông nước mắt chẩy
giòng giòng trên những bộ mặt tươi tốt hay răn
reo lúc kẻ nói chuyện tả lại bước đường cùng của mười ba người liệt sĩ.” - L.H.V.
“Mười Bẩy Tháng Sáu Dương Lịch”
Thanh Nghị, Số 115, Ngày 7 tháng Bảy 1945
Thanh Nghị, Số 115, Ngày 7 tháng Bảy 1945
Câu chuyện bắt đầu ở Yên Báy, một buổi sáng còn mờ sương
và chỉ trong một buổi sáng của ngày 17 tháng 6 năm 1930. Không phải chỉ có một người mà là mười ba người,
đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã liên tiếp theo nhau, bị người Pháp đưa lên
máy chém. Tất cả đã xảy ra trong vẻn vẹn
30 phút, từ 5 giờ đến 5 giờ 30. Đây quả thiệt không còn là cuộc thi hành một bản
án nữa mà là một cuộc tàn sát tập thể nhằm dằn mặt toàn thể người dân Việt Nam
sau cuộc khởi nghĩa thất bại của đảng này trước đó. Chưa hết, tiếp theo hàng chục
người khác cũng bị án tử hình và lên máy chém ở Nhà Pha Hỏa Lò, ở Hải Dương, ở
Phú Thọ… và cuộc tàn phá Cổ Am bằng máy bay và hàng trăm người khác bị bỏ ngục
hay đưa đi đầy. Trong lịch sử cách mạng
giành độc lập cho đất nước và dân tộc Việt Nam, không một đảng nào đã phải gánh
chịu những hy sinh lớn lao, đầy nghiệt ngã và đau thương như vậy. Sự bi thảm cùng cực của ngày 17 tháng 6, 1930
đã gây xúc động tột cùng cho người ở trong nước và cả dư luận bên Pháp. Sau này
Nhà Thơ Đằng Phương, được biết thêm là Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, với bài “Ngày
Tang Yên Báy”, một dạo đã được chọn làm bài học thuộc lòng cho học sinh tiểu học,
trong những năm đầu của thập niên 1950 ở Vùng Quốc Gia với những câu làm người
nghe không khỏi ngậm ngùi, rơi lệ:
17 tháng 6, 1930 – 17 tháng 6, 1945, trong suốt 15 năm,
vì còn bị người Pháp cai trị, Ngày Tang
Yên Báy, ngày Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị đưa
lên máy chém hầu như đã bị lãng quên hay nếu có chỉ còn trong tâm tưởng của mọi
người hay âm thầm được tổ chức bởi những đảng viên còn sống sót.
Tất cả đã đột nhiên sống lại sau Ngày Nhật Đảo Chánh
Pháp, Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, cùng với sự thành lập của Chính Phủ Đầu Tiên
của Đế Quốc Việt Nam: Chính Phủ của Nhà Giáo kiêm Sử Gia Trần Trọng
Kim. Kỷ niệm Nguyễn Thái Học và 12 Liệt
Sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng đã được công khai tổ chức long trọng ở rất nhiều nơi
trong nước, đặc biệt là ở Vườn Bách Thảo Hà Nội, ở Vinh và ở Hội Quán Quảng Trị
ở Huế. L.H.V. trong bài phóng sự nhan đề “Mười Bảy Tháng Sáu Dương Lịch” đăng
trên báo Thanh Nghị số 115, ra ngày 7 tháng Bảy 1945 đã ghi nhận những điều ông
thấy ở các tỉnh miền Trung, nhất là ở kinh đô Huế, những chuyện mà ông cho là
“lạ lùng” và điều ông đã lầm tưởng về “ngày
giỗ lớn lao” ấy. Người viết xin được gửi
tới các bạn đọc nguyên văn bài viết của L.H.V. sau đây nhân dịp tưởng niệm 86 năm
Ngày Tang Yên Báy, 17 tháng 6, 2016, ngày
tang lớn chung của cả dân tộc. Đây không
phải chỉ là một bài phóng sự bình thường mà là một tài liệu lịch sử. Nó nói lên phản ứng của người dân Việt Nam
thuộc đủ mọi từng lớp từ người lao động bình dân đến các trí thức mà Thủ Tướng
Trần Trọng Kim và các bộ trưởng của ông là đại diện, từ người già đến người trẻ,
người giầu lẫn người nghèo ở nhiều nơi
trong nước, đặc biệt là ở các tỉnh Miền Trung đối với một đảng quốc gia
lớn nhất, đã xuất hiện từ lâu và đã góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh chung
của cả dân tộc, xuyên qua Ngày Kỷ Niệm Nguyễn Thái Học và Các Liệt Sĩ Yên Báy
khác.
MƯỜI BẨY THÁNG SÁU DƯƠNG LỊCH
L.H.V.
Thanh Nghị, Số 115, Ngày 7 tháng Bảy 1945
Chúng tôi đã
đi quá nửa con đường thiên lý chạy suốt Việt Nam và, mỗi chỗ, đã thấy anh em
thành kính, nhưng hăng hái, sửa soạn ngày mười bẩy tháng sáu. Chúng tôi đã nhầm: chúng tôi đã tưởng rằng cuộc
khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, vì cái chánh sách thực dân tàn ác mà khôn khéo của bọn Pháp, chỉ còn để lại vết kỷ
niệm trong lòng những người Việt Nam phía Bắc mà thôi! Vì phía Bắc là nơi đã nghe rõ mồn một tiếng súng
đêm Yên Báy, tiếng kèn gọi lính của quân đội thù nghịch, tiếng bom tàn phá Cổ
Am… Vì phía Bắc là nơi dân chúng phải nhắm mắt đi không dám nhìn những cuộc tàn
sát vô cùng độc ác của bọn da trắng thắng thế.
Chúng tôi đã nhầm, nên đã gửi nhiều giây thép về Nam để cho anh em nhớ lại
ngày mà mười ba liệt sĩ của chúng ta đã bi ám sát vì quá lòng yêu nước.
Chiếc xe hơi
của chúng tôi đi theo liền điện tín. Ở mỗi
tỉnh, xe hơi đã đến trước tờ giấy xanh.
Sự lạ lùng ấy đã làm cho chúng tôi biết rõ một điều chắc chắn người từ Bắc
chí Nam nước Việt Nam, không một ai quên ngày giỗ lớn lao ấy. Lòng yêu
nước đã bùng cháy khắp chốn như ngọn lửa dài và tươi tắn đương lan theo
đỉnh Tràng Sơn, một tối cháy rừng. Tên
nhà chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thái Học không ai quên cả. Không ai quên cả, thời
kỳ cuối cùng của lịch sử cách mạng nước ta.
Tiếng súng, tiếng bom, tiếng hô dõng dạc và anh hùng, tiếng khóc ảo não, người ta tưởng
chỉ người một miền nghe thấy mà ai ngờ vang mãi đến các anh em đồng bào ở suốt
dọc đường Bắc Nam.
Ở Huế chúng
tôi đã dự hai buổi lễ truy điệu các vị anh hùng 1930. Gian buồng của hội Quảng Tri không đủ chứa lòng thành kính của anh em, nên đến bữa
sau lại phải đọc lại một lần nữa cho những người chậm chân không có chỗ. Ở đó tối hôm ấy, có cả những ông già bà cả,
những người áo rách, tay thành chai. Ở đó
tối ấy có cả một ông thủ tướngvới mấy ông bộ trưởng ngồi lẫn vào đám đông chỉ
lấy tư cách là dân một nước. Chúng tôi đã được nhìn rõ nét mặt trang
nghiêm của mọi người yên lặng tưởng nhớ tới người xưa, trông nước mắt chảy
giòng giòng trên những bộ mặt tươi tốt hay răn reo lúc kẻ nói chuyện tả lại bước
đường cùng của mười ba người liệt sĩ.
Tôi đã nghe thấy tiếng “Vạn tuế” đáp lại mười ba tiếng hô “Việt Nam” của
cả một dân tộc, mười ba tiếng “Vạn tuế” hô lên
để an ủi anh hồn mười ba liệt
sĩ lúc hùng dũng bước lên đoạn đầu đài đã bị bàn tay thực
dân bịt miệng, chỉ mới kịp kêu hai tiếng “Việt Nam”. Lễ truy điệu bắt đầu trong tâm niệm, giải ra
trong thành kính, kết cục trong yên lặng. Yên lặng đó mới là nhiều hứa hẹn. Khi
quần chúng đã biết yên lặng mà gia hợp thì quần chúng ấy đã cùng chung một tin
tưởng mạnh mẽ vô ngần, đã ra về với một quả quyết sắt đá.
Trên đường về
người ta kể lại cho chúng tôi nghe từng buổi hội họp, cùng một ngày mười bẩy
tháng sáu ở các tỉnh dọc đường: hằn học ở Vinh, ồn ào ở Hà Nội. Nhưng đâu đâu chúng tôi cũng thấy tin tưởng với
quả quyết chung ấy.
Một đền nghĩa
liệt sắp sây nền. Bia đá tượng đồng sắp xây dựng khắp chốn. Nhưng còn có đài kỷ niệm nào hơn tấm lòng
thành kính của hăm mấy triệu dân trong một ngày lịch sử. L.H.V.
Phạm Cao Dương
Tháng Sáu 2016