Thứ Tư, 22 tháng 6, 2016
Nguyễn Quang Dy - Thông cáo Vịt què và Nghịch lý ASEAN
Những gì diễn
ra tại Côn Minh (Kunming, 14/6) đã biến Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN-China thành
một sự kiện bất bình thường với một “thông cáo vịt què” (lame duck communique),
dù là vịt Bắc Kinh hay vịt ASEAN. Nếu không muốn gọi hội nghị này là thất bại
thì cũng không thể coi là thắng lợi. Dù Trung Quốc có ngăn cản được một tuyên bố
chung ASEAN (như tại Phnom Penh năm 2012) thì cũng không thể ngăn cản được xu
hướng “thoát Trung” trong cộng đồng ASEAN vốn bị phân hóa. Hãy thử giải mã những
uẩn khúc tại Côn Minh để làm sáng tỏ bức tranh ASEAN-China, trong thời điểm nhạy
cảm hiện nay.
Bối cảnh
trước hội nghị Côn Minh
Hội nghị Côn
Minh diễn ra vào lúc Tòa án Trọng tài Quốc tế (PCA) sắp ra phán quyết (dự kiến
7/7/2016) theo đơn kiện của Philippines. Có nhiều khả năng Philippines sẽ thắng
kiện, làm Trung Quốc rất lo ngại, tìm mọi cách đối phó. Bên cạnh việc lăm le
xây lắp hạ tầng quân sự tại Scaborough Shoal thành một cứ điểm mạnh, Trung Quốc
ráo riết vận động các nước ủng hộ. Tuy Trung Quốc ngạo mạn tuyên bố không thừa
nhận phán quyết của PCA, nhưng thực ra họ rất lo ngại bị cộng đồng quốc tế cô lập
tại Biển Đông. Theo CSIS, Trung Quốc tuyên bố có 60 nước ủng hộ lập trường của
họ, nhưng thực tế chỉ có 8 nước (Afghanistan, Gambia, Kenya, Niger, Sudan,
Togo, Vanuatu, Lesotho), và năm nước đã thẳng thừng bác bỏ, làm Trung Quốc mất
mặt (Poland, Slovenia, Bosnia, Herzegovania, Cambodia, Fiji).
Chuyến thăm
Việt Nam (và Nhật) của Tổng thống Obama là một sự kiện quan trọng. Tuyên bố Mỹ
bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đánh dấu một bước ngoặt, hoàn tất quá trình bình
thường hóa, đồng thời thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược Mỹ-Việt. Điều này chắc
chắn làm Trung Quốc đau đầu. Sau đó, Thủ tướng Việt Nam được mời dự họp mở rộng
Thượng đỉnh G7 tại Nhật (26-27/5). Đây là dịp để G7 tăng cường “đoàn kết quốc tế
về Biển Đông”, và Việt-Nhật tăng cường hợp tác quốc phòng và kinh tế, bao gồm
sáng kiến “kết nối Mekong với Nhật Bản”. Tiếp theo Tuyên Bố chung của Hội
nghị Ngoại trưởng G7 về an ninh Biển Đông (4/2016) các nhà lãnh đạo G7 đã ra
“Tuyên bố chung Ise-Shima” (27/5) về an ninh Biển Đông và Biển Hoa Đông, nhằm đảm
bảo tự do hàng hải và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật
pháp quốc tế, để kiềm chế sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc.
Tại Đối thoại
An ninh Khu vực “Shangi-La 15” (Singapore, 3-5/6/2016) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Ash Carter (và TNS John McCain) đã đến dự và chỉ trích mạnh mẽ hành động quân sự
hóa Biển Đông của Trung Quốc. Mỹ kêu gọi Trung Quốc tôn trọng phán quyết của
Tòa án Trọng tài Quốc tế (PCA) và cảnh báo nếu Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa
Scaborough Shoal thì có nguy cơ sẽ bị cô lập như “xây Vạn lý Trường
thành tự cô lập mình”. Tiếp theo, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatami
cũng chỉ trích Trung Quốc và tuyên bố Nhật sẽ giúp các nước Đông Nam Á tăng cường
năng lực an ninh tại Biển Đông.
Đáng chú ý là
tại Shangri-La 15, NATO cũng tuyên bố sẽ có bước đi cần thiết trước động thái mới
của Trung Quốc ở biển Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian kêu gọi
lực lượng hải quân châu Âu có sự hiện diện “thường xuyên và rõ ràng” tại khu vực,
để duy trì luật biển và tự do hàng hải. Le Drian nói “nếu luật biển không được
tôn trọng tại các vùng biển gần Trung Quốc, thì sau này nó sẽ bị đe dọa ở Bắc Cực,
ở Địa Trung Hải, hay ở nơi khác”. Sau Shangri-La 15, Bộ trưởng Quôc phòng Pháp
đã đến thăm Việt Nam như để khẳng định lập trường mới của họ. Thái độ cứng rắn
hơn của Mỹ, Nhật, Ấn Độ và NATO là đối trọng làm chuyển hóa lập trường ASEAN bớt
phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã ra đời, nhưng
ASEAN vẫn còn bị phân hóa.
Mỹ, Nhật Bản,
Ấn Độ đã tiến hành tập trận quy mô lớn tại tây thái bình Dương (10-18/6/2016).
Đây là cuộc tập trận thường niên (Malabar) giữa Mỹ với Ấn Độ và Nhật Bản (“Tam
cường”), nhằm thiết lập trật tự an ninh hàng hải mới tại Đông Á để đối phó với
các hành động quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trong
tương lai, nếu Úc tham gia thì quy mô tập trận sẽ mở rộng thành “Tứ cường”.
Ngoài ra, Mỹ đang tăng cường lực lượng hải quân và không quân cho khu vực này,
điều một phần Hạm độ 3 tới Biển Đông và một phi đội 4 máy bay tác chiến điện tử
E/A 18G Growler tới căn cứ Clark (Philippines), sau khi triển khai các loại máy
bay hiện đại nhất tới khu vực này như Global Hawk và F-35, cùng với 5 máy bay
A-10C Thunderbolt, và 3 trực thăng HH-60G Pave Hawk.
Sự cố hi hữu
tại hội nghị Côn Minh
Các nước
ASEAN chưa thật sự tin tưởng lắm vào chiến lược “xoay trục” (hay tái cân bằng)
của chính quyền Obama cũng như chưa biết chính quyền mới (Hillary Clinton hay
Donald Trump) sẽ “xoay trục” thế nào. Nhưng họ không có nhiều lựa chọn trước
thái độ ứng xử ngày càng hung hãn và trịch thượng của Trung Quốc tại Biển Đông.
Sau hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tại Sunnylands (15-16/2/2016), hội nghị ngoại
trưởng ASEAN-China tại Côn Minh (14/6/2016) là một cố gắng của Trung Quốc để
thao túng các nước ASEAN, trước những diễn biến trái chiều trong khu vực đang
làm Trung Quốc ngày càng cô lập.
Theo Carl
Thayer (“The Truth Behind ASEAN’s Retracted Kunming Statement”, Carl Thayer,
the Diplomat, June 19, 2016) sự cố ngoại giao hi hữu xảy ra tại hội nghị Côn
Minh là hệ quả của lối ứng xử thô lỗ (heavy-handed) của Trung Quốc và cách điều
phối và ra quyết sách vụng về của ASEAN (bureaucratic snafu). Sự cố này như một
con vịt què, làm bộc lộ rạn nứt ngày càng sâu sắc giữa ASEAN và Trung Quốc,
cũng như sự đồng thuận lỏng lẻo của ASEAN dễ bị Trung Quốc thao túng. Hãy thử
lý giải những gì đã xảy ra.
Văn bản tài
liệu hội nghị khẳng định, “các nước thành viên ASEAN nhất trí với nội dung của
Thông cáo Báo chí do các ngoại trưởng ASEAN soạn.” Báo Straits Times
cũng khẳng định mười ngoại trưởng ASEAN đã đồng thuận là Thông cáo Báo chí sẽ
được ngoại trưởng của Singapore thay mặt ASEAN công bố tại cuộc họp báo chung
ASEAN-China vào cuối hội nghị. Nhưng vào phút chót, phía Trung Quốc lại đưa ra
bản thỏa thuận 10 điểm (10-point consensus) nhưng ASEAN không thể chấp nhận.
Các Ngoại trưởng
ASEAN đã quyết định Ngoại trưởng Singapore sẽ không dự họp báo chung vì công
khai bất đồng với Ngoại trưởng Trung Quốc trước công chúng là khiếm nhã. Các
Ngoại trưởng ASEAN cũng quyết định ASEAN sẽ ra thông cáo báo chí riêng. Nhưng
Trung Quốc lại vận động Lào và Campuchia ngăn cản việc này. Theo báo Straits
Times, cuộc họp báo chung đó không thành là do “bất đồng không thể hóa giải
giữa ASEAN và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông”. Trung Quốc đã gây áp lực rất lớn
với phía Lào (là nước chủ tịch luân phiên) buộc phải yêu cầu “chỉnh sửa khẩn cấp”
một số nội dung Trung Quốc “không hài lòng”. Camphuchia cũng từ chối ký vào bản
Thông cáo Chung, giống như tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh (năm
2012), không ra được tuyên bố chung vì Trung Quốc gây áp lực với Campuchia (là
nước chủ tịch ASEAN) không nhất trí với tuyên bố đó.
Các Ngoại trưởng
ASEAN đành quyết định mỗi nước có thể ra thông cáo riêng theo cách của mình,
nhưng lúng túng không biết nên công bố bản gốc Thông cáo Chung ASEAN như thế
nào. Chính vì vậy Malaysia đã bức xúc (frustrated) về sức ép quá đáng của Trung
Quốc đối với ASEAN và chuyển bản Thông cáo Chung cho AFP, nhưng sau ba tiếng phải
thu hồi lại theo lệnh của Ban Thư ký ASEAN (để “chỉnh sửa khẩn cấp”). Theo báo Straits
Times, một quan chức ngoại giao ASEAN nói rằng việc “Malaysia công bố bản
Thông cáo Chung là biểu hiện quá bức xúc (extreme frustration) của năm nước
thành viên ban đầu cộng với Việt Nam, trước thái độ thô lỗ và ngạo mạn (crude
and arrogant) của phía Trung Quốc”.
Tuy Côn Minh
là một thất bại của ASEAN do thiếu đồng thuận, nhưng theo báo Diplomat, “Trung
Quốc chứ không phải ASEAN mới thực sự thất bại tại hội nghị Côn Minh”. ASEAN đã
bày tỏ quan điểm cứng rắn, trái với mong muốn của Trung Quốc. Chiến thuật “chia
để trị” của Bắc Kinh đã khiến nhiều nước ASEAN phản ứng mạnh hơn. Thông cáo
Chung của ASEAN đã làm hỏng ý đồ của Bắc Kinh muốn xếp tranh chấp biển Đông vào
diện giải quyết song phương với từng nước có tranh chấp (Việt Nam, Philippines,
Malaysia và Brunei). Theo AFP, thái độ cứng rắn của ASEAN như một “cái tát
ngoại giao” vào mặt Trung Quốc.
Nhưng ASEAN
có dám đứng lên cùng phản đối hành động phiêu lưu của Trung Quốc tại Biển Đông
hay không? Tuy hầu hết các nước ASEAN phản ứng Trung Quốc mạnh hơn trước, nhưng
chỉ có ASEAN và Trung Quốc thôi thì không thể hóa giải được vấn đề này. Việc
Thông cáo Chung được đưa ra rồi rút lại chứng tỏ cả Trung Quốc và ASEAN phải chịu
trách nhiệm, đặc biệt Lào và Campuchia là hai nước bị Trung Quốc thao túng, gây
bất đồng tại hội nghị Côn Minh. Theo Tổng thư ký ASEAN Lê Lương Minh, “Tất cả
đã đồng ý phát hành bản Thông cáo Chung, trừ Campuchia. Đã có thỏa thuận nếu
không có đồng thuận của cả khối thì từng nước ASEAN riêng rẽ có thể sử dụng nội
dung thông cáo này để thông báo cho báo chí”. Sau đó, các nước Việt Nam,
Philippines, Singapore, Indonesia, đã ra tuyên bố riêng.
Thực ra, nội
dung Thông cáo Chung mà Malaysia đưa cho hãng AFP phản ánh gần như nguyên văn
những tuyên bố gần đây của các ngoại trưởng ASEAN (mà Campuchia đã đồng ý). Vì
vậy, vấn đề là Trung Quốc muốn lợi dụng cơ hội này để phân hóa và thao túng các
nước ASEAN. Với vai trò chủ tịch ASEAN, phía Lào không ra tuyên bố, mà cũng
không trả lời báo chí. Đáng chú ý là chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thăm Lào
chính thức và hội đàm với lãnh đạo mới của Lào cùng ngày diễn ra hội nghị ngoại
trưởng tại Côn Minh.
Thông cáo
Chung của ASEAN có đoạn nhấn mạnh các ngoại trưởng (trích) “bày tỏ sự lo ngại
sâu sắc trước những diễn biến gần đây đã làm xói mòn lòng tin, làm gia tăng sự
căng thẳng và có khả năng phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định tại Biển Đông…
Chúng tôi cũng không thể bỏ qua những gì đang diễn ra tại Biển Đông vì đó là một
vấn đề quan trọng trong quan hệ và hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc…” (hết
trích).
Nhưng tiếp
theo, điều còn quan trọng hơn như là một thử thách lớn đối với các nước ASEAN
là phải cố gắng đạt được đồng thuận về một Tuyên bố Chung của ASEAN sau khi Tòa
án Trọng tài Quốc tế về luật biển ra phán quyết (dự kiến 7/7/2016).
Thử lý giải
một vài nghịch lý
Đoàn kết
ASEAN là một huyền thoại (myth). Người ta hay ví đoàn kết ASEAN như một bó đũa,
nếu bị tách ra từng chiếc thì có thể bị bẻ gẫy. Vì vậy, Trung Quốc tìm mọi cách
“chia để trị”. ASEAN vẫn tự hào và duy trì nguyên tắc “không can thiệp”
(non-interference), nhưng nếu bị Trung Quốc bắt nạt, thì làm sao có thể ứng cứu
cho nhau trong một hệ thống an ninh tập thể? Người ta hay nói ASEAN “đồng thuận”
trong “đa dạng”. Nghe thì rất hay, nhưng nếu “đồng thuận” không thực chất,
trong khi “đa dạng” quá nhiều như “đồng sàng dị mộng” thì ASEAN không thể mạnh.
Cộng đồng ASEAN phải đổi mới thể chế.
COC là một ảo
tưởng (illusion). Mấy thập kỷ nay, ASEAN đàm phán (không thành công) với Trung
Quốc về bộ “Quy tắc Ứng xử” (Code of Conduct) tại Biển Đông. Điều đó dễ hiểu vì
Trung Quốc đang trỗi dậy, muốn thay đổi nguyên trạng tại khu vực, thì tại sao họ
lại chịu bị trói bởi luật lệ của kẻ khác. Chừng nào Trung Quốc còn theo đuổi chủ
nghĩa bành trướng bá quyền để chiếm đoạt Biển Đông, thì họ chỉ đàm phán như một
trò chơi để đánh cờ chứ không phải thỏa thuận thực sự. Dù có thỏa thuận, thì họ
cũng xé bỏ nếu cần, vì ASEAN không đủ mạnh để áp đặt được họ. Đối với Trung Quốc,
luật lệ thuộc về kẻ mạnh. Chỉ có đủ mạnh thì ASEAN mới có thể buộc họ phải theo
luật chơi chung. Muốn vậy, ASEAN phải mở rộng khuôn khổ đối tác chiến lược ra
ngoài Đông Nam Á (với Nhật, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ) và trở thành đồng minh chiến
lược với Mỹ. Trước đuổi Mỹ đi thì bây giờ phải gọi Mỹ lại.
“Ba không một
có” là trò chơi chữ (semantic game). Việt Nam có một nguyên tắc phản ánh mong
muốn độc lập và trung lập nghe rất hay là “Ba không” (không liên minh quân sự với
nước khác, không để nước khác đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, không dựa vào
nước này để chống nước kia). Muốn duy trì nguyên tắc đó thì quốc gia đó phải đủ
mạnh như Thụy Sỹ, môi trường quốc tế và khu vực phải đủ ổn định. Trong bối cảnh
hiện nay, khi Việt Nam suy yếu và tụt hậu, khi môi trường quốc tế và khu vực đầy
bất ổn, với nguy cơ “Bắc thuộc” và “Hán hóa” ngày càng lớn, thì cố giữ nguyên tắc
“ba không” là đồng nghĩa với tự sát.
Lúc này phải
dùng “quẻ biến”. Nhưng biến thế nào? Nếu biến bằng khẩu hiệu “Ba không Một có”
thì chỉ là trò chơi chữ. “Một có” được hiểu là “những cái gì có thể làm được và
làm có mức độ”. Bản chất của “Ba không” là sợ Trung Quốc và phụ thuộc vào Trung
Quốc. “Thoát Trung” thực chất là thoát khỏi nỗi sợ “thiên triều” và lệ thuộc
vào cái bẫy ý thức hệ. Chừng nào không thoát khỏi cái bẫy này, thì “Một có” hay
“Hai có” chỉ là ảo tưởng để tự lừa mình, chẳng khác gì “xây dựng kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN”.
Vì vậy, có vũ
khí hiện đại chưa chắc đã mạnh. Phải biết dùng hay dám dùng. Tại
sao gần đây tai nạn máy bay quân sự xảy ra liên tiếp? Do chất lượng khí tài hay
là do “lỗi hệ thống” hay là do “nguyên nhân lạ” nào khác? Ngày 16/4/2015, hai
chiếc Su-22 rơi tại vùng biển Ninh Thuận, không rõ nguyên nhân, làm 2 phi công
thiệt mạng (không kịp nhảy dù). Ngày 14/6/2016, một chiếc Su-30MK2 rơi tại vùng
biển gần đảo Hòn Mê (Hà Tĩnh), một phi công thoát chết, một tử nạn (sau khi nhảy
dù xuống biển). Ngày 16/6/2016, chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 bị rơi tại vùng
biển gần đảo Bạch Long Vĩ (Hải phòng), trong khi đi tìm kiếm phi công Su-30MK2
vừa bị nạn. Trên máy bay CASA-212 có 9 quân nhân tử nạn.
Lời cuối
Hai tai nạn
máy bay đáng tiếc liền nhau làm bộc lộ vài nghịch lý thông thường, cần các viện/trung
tâm nghiên cứu chiến lược (hay chiến thuật) làm rõ:
Tại sao phi
công Trần Quang Khải bị nạn trên biển suốt 84 giờ mới tìm thấy, đã chết trước
đó 48 giờ, tức còn sống 36 giờ sau khi nhảy dù (do bị dù cuốn)? Tại sao phi
công không bắn pháo sáng (flares) và xịt thuốc màu (fluorescent) ra nước biển để
báo hiệu?
Tại sao cả
hai trường hợp phi công bị nạn trên biển đều do ngư dân tìm thấy trước, chứ
không phải do lực lượng tìm kiếm chuyên nghiệp được trang bị đầy đủ tìm thấy?
Các lực lượng cứu hộ đã luyện tập và phối hợp hành động như thế
nào?
Tại sao chiếc
máy bay cứu hộ CASA-212 lại nhận được lệnh bay ra vùng biển gần đảo Bạch Long
Vĩ (Hải Phòng) để tìm kiếm phi công Su-30MK2 bị nạn, trong khi nó bị rơi tại
vùng biển gần đảo Hòn Mê (Hà Tĩnh), cách nhau hơn 200 km?
Tại sao chiếc
máy bay cứu hộ CASA-212 lại bị rơi và tại sao nó bị vỡ thành nhiều mảnh? Phi
công Nguyễn Thành Trung cho rằng máy bay bị “va đập mạnh”, vậy nó bị va đập mạnh
bởi cái gì mà vỡ thành nhiều mảnh như vậy?
Tại sao thứ trưởng
Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh phải cầu viện Trung Quốc hỗ trợ tìm kiếm (trong khi
họ muốn độc chiếm Biển Đông)? Nếu vì “nhân đạo”, thì tại sao không chấp nhận lời
đề nghị giúp đỡ của phía Mỹ (là đối tác “hợp tác toàn diện”)?
NQD.
21/6/2016
(Nguồn: Viet-Studies)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Di chuyển bằng phương tiện mới siêu tiết kiệm
Trả lờiXóaxe điện gấp
gọn siêu nhỏ đa năng và loại
xe điện hai bánh to
tốc độ 60km/h mới nhất 2016.