Thứ Năm, 23 tháng 6, 2016
Hùng Tâm - Liên bang Miến Điện?
Miến Điện thực
hiện giấc mơ dang dở từ 70 năm trước
Tháng Bảy
này, lãnh tụ Aung San Suu Kyi của Liên Minh Quốc Gia vì Dân Chủ Miến Điện (NLD)
sẽ tái diễn lịch sử với “Hội nghị Panglong của thế kỷ 21.” Bà tái diễn lịch sử
vì Tháng Hai năm 1947, thân phụ của bà là Thiếu Tướng Aung San đã chủ tọa một hội
nghị tại trị trấn Panglong trong tiểu bang của tộc Shan (Đàn) cùng nhiều sắc tộc
khác để thảo luận về quy chế liên bang cho Miến Điện trong tương lai. Khi ấy, xứ
này còn là thuộc địa của Đế Quốc Anh, và Tướng Aung San vừa đạt thỏa ước với
chính quyền Anh rằng Miến Điện sẽ có độc lập trong kỳ hạn một năm.
Không ngờ là
Tháng Bảy năm đó, ông lại bị ám sát trong Phủ Bộ Trưởng tại thủ đô Rangoon -
Ngưỡng Quang theo tên gọi năm xưa. Khoảng trống chính trị sau khi lãnh tụ tạ thế
khiến sáng kiến liên bang cũng tiêu tan dần và nhiều sắc tộc thiểu số còn đấu
tranh võ trang với chính quyền Miến Điện sau khi xứ này có độc lập kể từ 1948.
Từ đấy, xứ Miến Điện chẳng có hòa bình và cũng mất luôn dân chủ sau khi quân đội
nắm quyền với chế độ độc tài quân phiệt của các tướng lãnh từ năm 1962.
Ngày nay, chế
độ quân phiệt bắt đầu thoái lui kể từ năm 2011 và con gái của Tướng Aung San là
Aung San Suu Kyi đang trở thành lãnh tụ thực tế của Miến Điện trong tiến trình
dân chủ hóa và ổn định xứ sở. Bà tổ chức Hội nghị Panglong của thế kỷ 21 với ước
mơ hâm nóng sáng kiến năm xưa của thân phụ hầu xây dựng một nền móng chính trị
khác cho Miến Điện.
Hồ sơ Người
Việt sẽ tìm hiểu tiến trình gian nan này của Miến.
Địa dư lịch sử
Miến Điện là một tai ách
Từ 1962 đến
2011, Miến Điện trải qua nửa thế kỷ nội chiến giữa chính quyền trung ương của
các tướng lãnh và lực lượng võ trang của các sắc tộc đòi ly khai. Sau đấy, chế
độ quân phiệt bắt đầu nhượng bộ và đề nghị giải pháp ngưng bắn trên toàn quốc đổi
lấy quyền lợi kinh tế và chính trị cho các sắc tộc thiểu số. Nhưng tiến trình
này còn nhiều bất trắc và sau khi Liên Minh NLD của mình đại thắng, bà Aung San
Suu Kyi đang phải làm một lúc hai việc: thỏa hiệp với quân đội để từng bước dân
chủ hóa xứ sở trong khi xây dựng một nền móng chính trị bền vững hơn cho Miến
Điện. Nền móng đó phải hội nhập được các sắc tộc thiểu số, nó khó bền vững vì một
tai ách xuất phát từ địa dư hình thể.
Về lịch sử
thì Miến Điện chưa khi nào là một nước trong ý nghĩa quốc gia dân tộc,
nation-state. Lãnh thổ xứ này là một thách đố cho lãnh đạo vì bị địa dư chia cắt
thành hai vùng núi đồi hiểm trở của nhiều sắc tộc và tôn giáo từ hay ngả Tây và
Đông nhìn xuống bình nguyên phì nhiêu của sông Irrawaddy ở giữa. Các cường quốc
cấp vùng, như Ấn Độ tại hướng Tây, Trung Quốc ở mạn Bắc và cả Thái Lan ở phía
Đông đều tìm cách khai thác tình trạng bất thường ấy qua các sắc tộc thiểu số
và góp phần gây thêm xung đột. Vì vậy, sau khi có độc lập, lãnh đạo Miến mới cần
quân đội mạnh để bảo vệ chính quyền trung ương và đối ngoại thì tìm cách tự cô
lập để ngăn ngừa ảnh hưởng ngoại bang. Trong thời Chiến Tranh Lạnh, từ 1949 trở
đi, ảnh hưởng ngoại bang còn là các nhóm dân quân Cộng Sản do Trung Quốc đào tạo
và huấn luyện. Những vụ xung đột đầu tiên mà bùng nổ là do hoạt động của các tổ
chức Cộng Sản.
Việc chế độ
quân phiệt tập trung sức mạnh vào trung ương không đơn giản là vì quyền lực
chính trị hay quyền lợi kinh tế mà còn có một động lực sinh tử hơn: cho quốc
gia khỏi tan rã. Yếu tố ý thức hệ - theo chủ nghĩa Cộng Sản hay xã hội chủ
nghĩa sau này - cũng có nhiều lý do khác. Ít ai để ý là Tướng Auug San là sáng
lập viên và bí thư thứ nhất của đảng Cộng Sản Miến Điện và khi còn là sinh viên
tại Anh Quốc, bà Aung San Suu Kyi cũng thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa cực
tả khá thịnh hành tại Tây phương vào thời đó. Sau khi Tướng Ne Win đảo chánh từ
năm 1961 và nắm chính quyền, chế độ quân phiệt cũng có lúc áp dụng hệ thống
kinh tế kế hoạch kiểu xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, từ
khía cạnh địa dư, người ta có thể hiểu ra một đòi hỏi của lãnh đạo Miến Điện là
có một quân đội mạnh, xây dựng được hệ thống bảo vệ biên phòng và một kế hoạch
kinh tế có thể phân bố quyền lợi tương đối hài hòa cho các sắc tộc. Họ đã thiên
đô từ Rangoon vào Naypyidaw ở giữa rừng già trên mạn Bắc cũng cho yêu cầu đó, về
an ninh.
Huống hồ, từ
khía cạnh lịch sử, Miến Điện còn lãnh một di sản dã man khác của Đế Quốc Anh: từ
trăm năm trước, nước Anh đưa dân Ấn vào phụ trách phần vụ kinh tế, cho sắc dân
đa số là người Miến một ít quyền hạn chính trị và hành chánh, nhưng dùng các sắc
dân thiểu số vây quanh vào nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quân sự. Chỉ sau khi thực
dân Anh bị Nhật đánh bại trong Thế Chiến II, dân Miến mới được quyền tham gia
vào lãnh vực quân sự và từ đó mới dần dần xuất hiện các thế hệ sĩ quan hay tướng
lãnh đang cầm quyền ngày nay.
Sinh thời, Tướng
Aung San đã phải giải quyết những bài toán quá phức tạp ấy mà không thành. Ngày
nay, con gái ông là Phu nhân Aung San Suu Kyi đang xây dựng một chính quyền dân
sự với chủ đích tương tự. Bà thừa hưởng uy tín của thân phụ và được kính trọng
vì ý chí đấu tranh cho dân chủ, đã qua 15 năm bị các tướng giam lỏng mà không
thối chí, nên được đại đa số coi như người mẹ của một nước Miến Điện hiện đại.
Nhưng con đường
trước mặt còn nhiều gian nan.
Những thiểu số
nổi loạn
Gian nan trước
tiên của Miến Điện là chính quyền xứ này - dân chủ hay chưa - không thể kiểm
soát được vùng biên vực.
Trên lãnh thổ,
có hơn hai chục nhóm thiểu số võ trang, với vài trăm hay vài vạn tay súng, đang
hùng cứ các vùng biên giới và coi đó là chủ quyền chính đáng của họ. Từ cuối
năm 2015, chế độ quân phiệt đã ký một tạm ước định ngưng bắn với tám tổ chức,
nhưng có bảy tổ chức vẫn từ chối tham gia, chưa kể nhiều lực lượng mạnh nhất tại
vùng biên giới Hoa-Miến thì không được mời vào vòng đàm phán vì họ đang chiếm
đóng các khu vực trọng yếu và rộng lớn nhất.
Đa số các
nhóm võ trang này đều có đặc tính sơn cước, giỏi du kích chiến, được trang bị
võ khí tinh nhuệ. Họ còn có ưu thế địa dư là có thể vượt biên giới để bảo toàn
lực lượng khi bị tấn công và lợi thế kinh tế là kinh doanh ma túy để tìm nguồn
tài trợ. Trong hoàn cảnh đó, một số lực lượng võ trang này chưa thấy sự nhượng
bộ của chính quyền trung ương, từ các tướng lãnh hay bà Aung San Suu Kyi, là đủ
hấp dẫn.
Khi so sánh
các tướng lãnh và đảng đa số hiện nay là Liên Minh Quốc Gia vì Dân chủ, thì
Aung San Suu Kyi tương đối là đáng tin cậy hơn khi đề nghị hòa giải. Hậu thuẫn
của quốc tế cho vị nữ lưu này cũng là sức mạnh đáng kể. Vì vậy, trong khung cảnh
vẫn còn tranh tối tranh sáng, nhiều nhóm thiểu số đang suy tính lợi hại. Họ có
thể tham gia sinh hoạt chính trị thay vì dùng giải pháp bạo động quân sự.
Đấy là một lợi
thế cho Aung San Suu Kyi khi đàm phán với các tướng lãnh.
Quân phiệt và
dân chủ
Chế độ quân
phiệt đang từng bước nhượng bộ kể từ năm 2011 trong tinh thần gỡ bỏ màu sắc
quân đội và cho tổ chức bầu cử khiến Liên Minh NLD thắng lớn vào Tháng 10 năm
ngoái. Thật ra, từ quân phiệt qua “bán độc tài,” chế độ này vẫn nắm dao đằng
chuôi với bản Hiến pháp và có thể cản trở việc cải cách của Liên Minh NLD. Cũng
chính hiến pháp ấy đã khiến bà Aung San Suu Kyi không thể ra tranh cử tổng thống
và phải đưa tay chân của mình vào một vị trí chỉ còn tượng trưng mà ít thực quyền.
Sau khi bà
Aung San Suu Kyi đề nghị đàm phán với mọi khuynh hướng sắc tộc về một thể chế
liên bang, là nội dung của Hội Nghị Panglong sắp tới, chi tiết của sáng kiến vẫn
chưa được công bố. Nhưng các tướng lãnh vẫn có thể nêu ra phản đề nghị. Thí dụ
như chỉ có thể nói về thể chế liên bang sau khi các lực lượng võ trang thiểu số
tự giải giới. Hoặc không thể gỡ bỏ các đặc quyền kinh tế sẵn có của quân đội. Nếu
giới quân sự đòi hỏi hai điều kiện ấy thì coi như hội nghị tan vỡ.
Từ mấy tháng
qua, một số chỉ dấu cho thấy quan hệ giữa bà Aung San Suu Kyi với giới tướng
lãnh đang cải thiện. Họ cho rằng bà có vẻ linh động và hòa hoãn hơn, nhất là giữ
niềm sắt son với quân đội mà bà khéo gọi là “Quân đội của cha tôi.” Chính quyền
dân sự của bà vẫn cần tới hào quang của Tướng Aung San và các tướng lãnh có thể
duy trì được một phần thế lực chính trị của họ nếu dám nhượng bộ. Vả lại, bà
Aung San Suu Kui cũng xác nhận rằng việc bảo vệ biên giới là một đòi hỏi chiến
lược cho sự tồn vong của xứ sở, nên họ tin rằng lãnh tụ dân sự này không dại khờ
đến nỗi cột tay quân đội.
Sau cùng, họ
cũng biết Tây phương đang theo dõi nội tình để quyết định về các giải pháp ngoại
giao, kinh tế và thậm chí quân sự. Chẳng những các nước Âu-Mỹ có thể gỡ bỏ lệnh
cấm vận mà còn nói đến huấn luyện và trang bị quân sự cho chính quyền Miến.
Tuy nhiên, mấy
chục năm mâu thuẫn giữa hàng tướng lãnh và những người đấu tranh cho dân chủ
nay đang ngồi trong chính phủ vẫn để lại nhiều chướng ngại. Và sau khi chiếm đa
số tuyệt đối trong cuộc bầu cử quốc hội, Liên Minh NLD có vẻ như hết cần tới lá
phiếu của các thành phần thiểu số nên bà Aung San Suu Kyi càng có vẻ sát cánh với
quân đội thì thành phần này lại càng nghi ngờ.
Và cả hai phe
- quân đội lẫn các lực lượng võ trang thiểu số - đều e ngại một điều: Aung San
Suu Kyi say đòn chính trị và muốn trở thành lãnh tụ tuyệt đối. Nhiều người đã
thấy ra điều ấy.
Kết luận ở
đây là gì
Hội Nghị
Panglong chưa thể có kết quả lập tức vì quá nhiều mâu thuẫn chất chứa từ quá
lâu.
Bà Aung San
Suu Kyi đã được giải Nobel Hòa bình vì đấu tranh bất bạo động cho dân chủ.
Bây giờ, bà cần
hành động tỉnh táo để mở ra một trang sử khác cho Miến Điện. Không dễ.