Thứ Năm, 19 tháng 5, 2016
Vũ Thư Hiên - Lịch sử lại mất thêm một nhân chứng
Thế là Nguyễn Minh Cần đã đi xa.
Đành
rằng đã 88 tuổi trời, ông có chia tay với chúng ta âu cũng là lẽ thường. Nhưng
mới hôm nào còn được nghe tiếng ông sang sảng bên kia đầu dây, mà hôm nay không
còn có thể trò chuyện với ông nữa, thì tin ông mất vẫn cứ làm tôi choáng váng,
như thể tin không thực. Cảm giác của con người là vậy – chúng ta quen thấy mọi
vật như một cái gì đó vĩnh hằng, cho đến khi không thấy nữa mới biết là không
còn.
Cuộc đời Nguyễn
Minh Cần gắn liền với lịch sử Việt Nam cận đại. Rõi theo những khúc quanh của
cuộc đời ông bằng con mắt chăm chú ta có thể thấy những bước dịch chuyển của tư
duy hướng Thiện của những người như ông trong bối cảnh cái Ác lộng hành.
Nguyễn Minh Cần
tham gia cuộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc rất sớm. Trong phong trào này
ông trở thành đảng viên cộng sản cũng rất sớm. Năm 18 tuổi ông đã được bầu làm
uỷ viên thường vụ thành uỷ thành phố Huế. Năm 25 tuổi đã là uỷ viên thường vụ
thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch thành phố. Những người được đảng cộng sản
tín nhiệm như ông không phải hãn hữu, nhưng cũng không nhiều. Nói tóm lại, Nguyễn
Minh Cần được đảng đánh giá cao, được đặt vào hàng những đảng viên ưu tú. Để bồi
dưỡng cho hàng ngũ kế cận, năm 1962 ông được cử sang Liên Xô (cũ) học tại Trường
đảng cao cấp ở Moskva. Đảng không tin tưởng Nguyễn Minh Cần còn tin tưởng ai.
Thế mà đùng một
cái, người đảng viên ưu tú ấy, cùng với một số đảng viên cũng ưu tú không kém,
vào một ngày đẹp trời bỗng trở thành “phản động”. Cứ thông đồng bén giọt, trên
chính trựờng Việt Nam ắt ta gặp một Nguyễn Minh Cần ở tầng cao nhất trong hệ thống
cai trị, chứ không phải Nguyễn Minh Cần mà ta quen biết. Không biết đảng có ngạc
nhiên với sự thay đổi đột ngột trong người đảng viên ưu tú của mình không, chứ
dân thường ngạc nhiên lắm. Từ ngạc nhiên đến tò mò, từ tò mò đến tìm hiểu là những
bước ngắn. Tìm hiểu rồi, người ta mới ngộ ra: những đảng viên cộng sản này
không coi đảng là totem. Khốn nạn, thay vì phải sùng bái đảng, coi đảng là lý
tưởng, họ lại coi đảng không hơn bộ quần áo, cần thì mặc, thấy nó chật, nó
rách, thì vứt.
Số là vào thời
gian này (đầu thập niên 60) Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), đứng đầu là Lê Duẩn
và tà lọt Lê Đức Thọ, chủ trương theo đường lối Mao Trạch Đông đã phóng tay
phát động cuộc chiến tranh không tuyên bố gọi là “chiến tranh nhân dân giải
phóng miền Nam”. Người không chăm chú theo dõi những bước đi của ĐCSVN thường
tưởng nhầm tổng bí thư Lê Duẩn là người chống Trung Quốc, không hề biết rằng Lê
Duẩn từng coi Mao Trạch Đông là sư phụ, nhất nhất nghe theo những huấn thị của
sư phụ từ hành dinh Trung Nam Hải. Chuyện Lê Duẩn trở thành kẻ chống Trung Quốc
là chuyện về sau, vì những nguyên cớ rất đời thường.
Những người
sau này bị gọi là “phản động”, ở trong nước, cũng như những người được đảng cử
đi học chủ nghĩa Mác ở Liên Xô, bày tỏ với đảng của họ sự không đồng tình với
đường lối theo đuôi Trung Quốc. Bằng cách rất nhẹ nhàng, với những kiến nghị,
thư gửi, đầy từ ngữ lịch sự, họ lễ phép viện dẫn nghị quyết Đại hội Đảng 3 năm
1960 nhấn mạnh chủ trương “hoà bình thống nhất đất nước”, những mong đảng xem
xét lại sự tiến hành “chiến tranh nhân dân ở miền Nam”, chẳng những gây ra tai
hoạ huynh đệ tương tàn, mà còn phá nát những gì đã xây dựng được ở miền Bắc. Đồng
thời, họ cũng ôn tồn “xin” đảng mở rộng dân chủ trong đảng cũng như trong toàn
bộ xã hội. Không có thể nói là với những phát biểu ôn hoà như thế là hành động
chống đảng.
Nhưng cặp bài
trùng Duẩn-Thọ, với tư duy độc tài từ trong máu, không chịu được những phát biểu
chứng tỏ sự không ngoan ngoãn vâng lời đã nổi sùng, ra lệnh tống giam vô thời hạn
và không cần xét xử đám “phản động” trong nước trong cái gọi là “Vụ án tổ chức
chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình
báo cho nước ngoài”, nói ngắn là “vụ xét lại chống đảng”. Với những kẻ hỗn láo ở
nước ngoài mà tay đảng không với tới thì khó. Trong khi đảng còn vắt tay lên
trán chưa nghĩ ra kế gì, thì những kẻ hỗn láo nọ đã thẳng thừng tuyên bố ly
khai với đảng.
Nguyễn Minh Cần
là một trong số người này.
Bộ quần áo cộng
sản thấy chật rồi, rách rồi, thì ông quẳng đi. Chỗ thích hợp cho nó, theo ông,
là thùng rác lịch sử.
Trong sự chuyển
biến tư duy của Nguyễn Minh Cần đã xảy ra một nghịch lý. Không phải do một tác
nhân nào khác, mà chính những giảng viên Liên Xô của ông đã khéo léo chỉ cho
ông thấy những cái lỗi thời, những yếu tố phản nhân tính trong lý thuyết
mác-xít.
Ở điểm này
hai chúng tôi may mắn – cũng như ông, tôi được mấy giảng viên triết học và văn
học ở Moskva cũng đã âm thầm chỉ cho tôi những cuốn sách nên đọc, để rồi sau
khi đọc xong tôi mới vỡ lẽ ra rằng những giáo điều trước đây mình bị nhồi nhét
vào đầu toàn là của giả.
Bộ máy mật
thám của đảng toàn năng đã làm việc rất tốt. Tôi vào tù. Nguyễn Minh Cần sống
lưu vong.
Năm 1992
chúng tôi gặp lại nhau. Lần gặp gỡ này đáng nhớ. Nó là lần gặp lại của hai người
trước sơ, nay đã thành thân – chúng tôi giờ có chung một con đường.
Ngày trước
tôi chỉ biết một Nguyễn Minh Cần, thường vụ thành uỷ, phó chủ tịch thành phố Hà
Nội, phụ trách mảng nông thôn, và cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp báo
(xin giải nghĩa một chút: họp báo ở đây không có nghĩa thông thường được hiểu,
mà là cuộc họp để dạy cho các cơ quan truyền thông biết cách giải thích chủ
trương chính sách của đảng).
Khi ấy Nguyễn
Minh Cần là quan, tôi là dân. Chúng tôi có vài cuộc trò chuyện bên lề, là hết.
Sơ là sơ thế thôi, có biết nhau, nhưng không hề là bạn.
Giờ đây,
chúng tôi có nhiều chuyện để hàn huyên – nhiều nhất là những chuyện thâm cung
bí sử mà trước đây mỗi người chỉ được biết một mảng, biết mà không nói ra,
không dám nói ra, vì… bộ quần áo đang mặc. Nay vứt nó đi rồi, chúng tôi bàn luận
thoải mái, thênh thang. Chẳng hạn như chuyện cái chết thương tâm của bà hoàng hậu
cuối cùng của triều Nguyễn… Ái Quốc. Ông có viết về chuyện này khá tỉ mỉ. Bạn
nào tò mò có thể tìm hiểu trên mạng internet, chẳng hạn trong web này: (http://www.conongviet.com/ChinhTri/webfeb1710-nguyenminhcan-hcm%20va%20coxuan.htm)
Cùng sống ở
Moskva, chúng tôi gặp nhau thường. Từ những chuyện trò tâm sự tôi hiểu ông:
Nguyễn Minh Cần đã tìm được con đường đúng cho mình nhờ lý trí thì ít mà nhờ
trái tim thì nhiều.
Trong công việc,
nhờ được tiếp xúc với nhiều người thuộc mọi tầng lớp xã hội, ông thấy nhiều
chính sách của đảng ông không hợp lòng dân, không nhằm vào lợi ích của dân mà
phục vụ. Át giọng thực tế mà ông thấy, những giáo điều trong ông cãi chầy cãi cối,
nhưng ông ngày càng thấy nó đuối lý. Ông tỉnh dần.
Bước ngoặt đến,
đảng không thuyết phục được ông thì đảng bắt ép ông phải tuân theo. Ông không
còn lựa chọn nào khác là phải vạch trần những sai trái của đảng, rồi đến lúc
ông phải tuyên bố ly khai nó.
Cuộc sống lưu
vong, lại ở trong một nước cũng vẫn là cộng sản, không hề dễ dàng. Nhất là đối
với những người không chỉ ly khai đảng của họ, mà còn ly khai với cả lý thuyết
mác-xít mà Đảng cộng sản Liên Xô vẫn còn coi là kinh thánh. Người ta cho nhóm đảng
viên cộng sản Việt Nam ly khai được tị nạn chính trị trong bối cảnh giữa hai đảng
có những bất đồng. Một khi những bất đồng được dàn xếp xong, hiểm hoạ bị trục
xuất về Việt Nam vẫn như thanh gươm Damocles lủng lẳng trên đầu Nguyễn Minh Cần
và những người bạn ông. Chuyện này dài, nhiều chi tiết đau lòng, không biết
Nguyễn Minh Cần có ghi lại đâu đó không?
Một người bạn
thân của tôi, thượng tá Văn Doãn, tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, rất hiền
lành, rất tốt bụng, đến nỗi được bạn bè tặng cho biệt danh “Doãn Bụt”, một
trong những người tị nạn ở Liên Xô thời gian ấy đã không chịu nổi sức ép tâm lý
nặng nề và nhiễu nhương nọ đã nhảy lầu tự sát. Khi được dịp trở lại Liên Xô sau
ba mươi năm, tôi tưởng sẽ được gặp lại bạn mình, nhưng Doãn Bụt đã không còn.
Nguyễn Minh Cần đưa tôi đi viếng mộ - một cái ngăn trong đó có đặt bình tro cốt
của một số phận bất hạnh. Một người khác mà tôi biết là đại tá Lê Vinh Quốc,
nguyên chính uỷ sư đoàn thép 308, thì đã lẳng lặng bỏ đi Uzbekistan, làm giảng
viên văn học phương Đông ở một trường đại học tại thủ đô Tashkent.
Tất cả những
chuyện đó đã trở thành quá khứ sau sự sụp đổ của cường quốc cộng sản lớn nhất
hành tinh năm 1991. “Tôi nhẹ cả mình”, Nguyễn Minh Cần nói. Cái chính quyền mới
của Eltsyn không ra ngô cũng chẳng ra khoai, nhưng bóng ma cộng sản không còn
đè nặng tâm trí ông.
Năm 1993, ông
lập “Phật giáo Thảo đường” đầu tiên ở Moskva. “Ở mọi nước cộng sản ta đều thấy
hiện tượng xã hội xuống cấp, suy đồi – ông tâm sự – Nguyên nhân là mọi con đường
dẫn tới cái Thiện tâm linh đã bị huỷ hoại tận gốc. Mọi xã hội cộng sản cộng sản
rồi sẽ tiêu vong, điều đó tất yếu, nhưng cái còn lại sau sự sụp đổ của nó mới
là cái đáng sợ hơn hết – sự trống vắng mọi niềm tin. Phật giáo là một minh triết
tâm linh, không phải một tôn giáo có tổ chức, nó là phương thuốc tốt cho một xã
hội tan nát”.
Để lập cái
“Phật giáo Thảo đường” nhỏ bé, chỉ là một căn hộ bình thường, đủ chỗ cho một số
không nhiều những tín hữu đầu tiên đến tu tập, ông không có một xu dính túi.
Tôi đưa ông một số tiền nhỏ. Ông nói đây là tiền vay và ông sẽ trả. Quả nhiên,
năm sau ông đem trả tôi số tiền tôi ủng hộ, nói thế nào ông cũng không chịu.
“Khi tôi trả được, có nghĩa là “Phật giáo Thảo đường” đã hoạt động, đã có sự
đóng góp của các tín hữu đồng đạo. Ông mừng cho chúng tôi đi”.
Tôi mừng, như
tôi bao giờ cũng mừng được nhìn thấy kết quả mọi hoạt động hướng thiện, chống
ác trên con đường phục hồi một xã hội trong đó nhân phẩm được tôn vinh.
Tôi đã đến thắp
hương ở “Phật giáo Thảo đường”. Ngồi bên tôi là bà Inna, người bạn đời của ông.
Bà không chỉ là một Phật tử, mà còn là nhà Phật học uyên bác.
Nghe nói bây
giờ ở Moskva Thảo đường đã trở thành một ngôi chùa. Tôi là người yêu triết học
Phật, giáo huấn Phật, nhưng không phải Phật tử. Những nghi lễ chùa chiền xa lạ
với tôi.
Mỗi con người
đi xa (tôi không muốn, tôi buồn khi phải đặt bút viết chữ “mất”) bao giờ cũng để
lại trong tôi một ấn tượng, như món quà cuối cùng.
Ấn tượng về
Nguyễn Minh Cần là hình ảnh một con người trong sáng. Có được lương tâm trong
sáng ấy là do ông có một trái tim rất Thiện.
Chả thế mà
ông chọn cho mình pháp danh Thiện Mẫn.
(Ông Nguyễn
Minh Cần -1928-2016, đã từ trần ngày 13.5.2016, tại Moskva, thủ đô Cộng hoà
Liên bang Nga. Lễ an táng sẽ được tổ chức vào ngày 25.5.2016, theo thông tin của
Phật tử Lan Hương tại Moskva)
14.5.2016
Sách của Nguyễn Minh Cần:
Công lý đòi hỏi, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1998.
Chuyện nước non, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1999.
Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong Phong
trào Cộng sản Quốc tế, Nhà xuất bản Tuổi Xanh 2001.
The Vietnamese Communist Party Through Vicissitudes Of
The Communist Internationals, Nhà xuất bản Tuổi Xanh 2004.
Từ điển Nga-Việt (đồng tác giả), Nhà xuất bản Tiếng Nga,
năm 1977, 1979, 1987.
Từ điển
Nga-Việt Mới (đồng tác giả), Nhà xuất bản Vostok - Zapad (Moskva) và Nhà xuất bản
Thế giới (Hà Nội), năm 2007.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét