Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2016
Thụy Khuê - Phê bình văn học thế kỷ XX - Chương 6: Ngôn ngữ học
Bài 1
I- Đôi dòng về ngôn ngữ học và bác ngữ học
Văn chương khởi đi từ một chữ.
Với một chữ hay nhiều chữ, nhà văn, nhà thơ làm nên một
câu.
Câu là đơn vị nhỏ nhất trong ngôn ngữ
nhà văn, nhà thơ.
Nhiều câu làm nên một bài thơ, một truyện
ngắn, một truyện dài, là một tác phẩm và xác định ngôn ngữ
(còn gọi là văn cách, hay văn phong, hay phong cách,
hay lối viết) của nhà văn nhà thơ.
Nếu coi sự khảo sát văn chương là một khoa học, thì đó là khoa giải phẫu
chữ, theo hai chiều: đi từ chữ, đến câu, đến bài thơ;
rồi đi ngược lại đi từ bài thơ, đến câu, và trở về chữ. Hai
hành trình này, nhà phê bình phải lập đi, lập lại, nhiều lần, mới có cơ tìm được
giá trị của chữ trước, rồi đến câu, bài thơ, và tác
phẩm.
Phê bình cũ, không chuyên chú đến chữ,
bởi vì ngôn ngữ học chưa phát triển, cho nên đã phải dựa vào những yếu tố
khác, như tiểu sử, đạo đức, tâm lý, phân tâm, v.v. để giải thích văn bản và đôi
khi đi xa, đi lạc ra ngoài tác phẩm.
Sự phê bình đích thực nào cũng phải có chủ đích là nói lên những điều nằm
trong chữ nghĩa của nhà văn, tức là những điều có trong tác phẩm,
chứ không phải những ý chủ quan, võ đoán mà nhà phê bình ngoại suy và gán cho tác
phẩm.
Trong trường hợp phê bình ở Việt Nam, vì chúng ta hầu như không biết rõ
lịch sử văn bản và tiểu sử tác giả, thì phê bình hiện đại là một lối thoát, bởi
vì người phê bình không cần biết những thông tin về đời tư tác giả, về hoàn cảnh
tạo nên tác phẩm, vẫn có thể phê bình tác phẩm qua chữ, đôi khi chính những
chữ trong tác phẩm sẽ nói lên hoàn cảnh lịch sử, xã hội và con người. Đó
cũng là phương pháp chủ yếu của các nhà phê bình lớn trong thế kỷ XX, mà chúng
ta sẽ lần lượt điểm qua.
Vì ưu tiên của phê bình là chữ. Và muốn hiểu chữ và lịch
sử chữ thì phải biết ít nhiều về ngôn ngữ học và bác ngữ học. Phê
bình thế kỷ XX đã đạt những bước tiến quan trọng, nhờ sự phát triển hai môn học
này.
Trường phái Hình thức Nga xây dựng trên những khám phá của ngôn ngữ học.
Trường phái phê bình Đức xây dựng trên những khám phá của bác ngữ học.
Vì vậy, muốn tìm hiểu hai trường phái lớn này, chúng ta cần biết sơ lược
về hai ngành ngữ học kể trên. Chúng tôi xin chia bài viết làm hai phần:
I- Đôi dòng về ngôn ngữ học và bác ngữ học
II- Ngôn ngữ học de Saussure
*
Trong Giáo Trình Ngôn Ngữ Học Đại Cương (Cours
de Linguistique Générale)[1] Ferdinand de Saussure, cha đẻ ngôn ngữ học hiện
đại, nói về lịch sử tiến trình ngôn ngữ học như sau:
"Khoa học được hình thành xung quanh những dữ kiện của tiếng nói[2] (la langue) đã trải qua ba giai đoạn liên tiếp trước khi nhận biết đối
tượng duy nhất và thực thụ của nó.
Người ta đã bắt đầu làm cái mà người ta gọi là "văn phạm". Sự
khảo sát này, do người Hy Lạp mở đầu và người Pháp, chủ yếu, tiếp nối, đã xây
dựng trên luận lý học, vắng bóng mọi cái nhìn khoa học và vô tư về chính tiếng
nói: Văn phạm chỉ nhắm vào việc đưa ra những lề luật để phân biệt những hình thức
(viết) đúng và những hình thức (viết) sai, đó là một môn học có tính chất quy
phạm, rất xa với sự quan sát thuần tuý, vì vậy mà quan niệm này tất nhiên là
hạn hẹp.
Sau đó là sự xuất hiện của bác ngữ học (philologie). Đã có một trường
phái "bác ngữ học" ở Alexandrie. Nhưng từ này được dùng, trước hết,
để chỉ khuynh hướng khoa học do Friedrich August Wolf chủ xướng bắt đầu từ năm
1777[3] và còn hiện diện tới ngày nay.
Tiếng nói không phải là đối tượng duy nhất của bác ngữ học, môn học này,
trước hết, muốn quy định, giải thích và phê bình văn bản. Sự khảo sát đầu tiên
này dẫn tới sự quan tâm cả đến lịch sử văn học, phong hoá, thể chế, v.v. Bác
ngữ học có một phương pháp riêng, là phê bình, dùng cho mọi địa hạt.
Nếu nó đề cập tới những vấn đề ngôn ngữ học, thì chỉ để so sánh những
văn bản của các thời kỳ khác nhau, xác định ngôn ngữ đặc biệt của mỗi tác giả, giải
mã và giải thích những chữ khắc được viết bằng một thứ tiếng cổ đại, tối nghiã.
Chắc chắn những tìm kiếm này đã chuẩn bị cho ngữ học lịch sử: công việc của
Ritschl về Plaute có thể gọi là ngôn ngữ học; nhưng trong phạm vi này, phê bình
bác ngữ học đã phạm sai lầm trên điểm này: quá nô lệ với chữ viết (langue écrite)
mà bỏ qua tiếng nói (langue vivante), ngoài ra, nó bị thời kỳ Hy Lạp và La Tinh
chiếm hết địa bàn hoạt động.
Thời kỳ thứ ba, bắt đầu khi người ta khám phá ra rằng: có thể so sánh
những tiếng nói với nhau. Và đó là nguồn gốc của "bác ngữ học so sánh"
còn gọi là "văn phạm so sánh".
Năm 1816, trong tác phẩm tựa đề "Hệ thống chia động từ trong tiếng
Phạn" (Système de la conjugaison du sanscrit), Franz Bopp khảo sát những
mối liên hệ giữa tiếng Phạn với tiếng Nhật Nhĩ Man[4], tiếng Hy Lạp, tiếng La Tinh, v.v. Bopp không phải là người đầu
tiên nhận thấy những sự tương tự này và chấp nhận rằng tất cả mọi thứ tiếng cùng
phát xuất ở chung một gia đình; điều đó đã được làm trước ông, chủ yếu là nhà
Đông phương học người Anh, W. Jones (1746-1794). Nhưng một vài xác định lẻ tẻ
chưa đủ để chứng tỏ rằng, năm 1816, người ta đã hiểu đại cương ý nghiã và sự
quan trọng của sự thực này.
Vậy Bopp không phải là người có công khám phá ra tiếng Phạn có họ hàng
với một số thổ âm (idiome) ở Âu Châu và Á Châu, nhưng ông đã hiểu rằng những
liên hệ giữa những thứ tiếng có họ hàng với nhau có thể là chất liệu để hình
thành một ngành khoa học độc lập. Soi sáng một thứ tiếng bằng một thứ tiếng
khác, giải thích hình thức của một thứ tiếng bằng một thứ tiếng khác, đó là những
điểm, cho tới bấy giờ, chưa ai làm."[5]
De Saussure vừa điểm qua những bước đầu của việc khảo sát ngôn ngữ, xác
định mối liên hệ giữa ngôn ngữ học và bác ngữ học và đồng thời
cho ta thấy: phê bình không thể bỏ qua, hoặc không biết hai ngành học này.
Nếu ngôn ngữ học có đối tượng là tiếng nói, thì bác ngữ học có đối
tượng là văn bản, bác ngữ học là nguồn cội việc giải thích, phê bình, khảo
sát văn bản.
Tự nguồn, các tiếng nói đã có chung một gia đình. Tiếng Phạn là nguồn gốc
của tiếng Hy Lạp và La Tinh. Sự kiện "họ hàng" này dẫn đến khoa bác
ngữ học so sánh hay văn phạm so sánh, là nguồn cội các khuynh hướng
văn học so sánh và phê bình so sánh, sau này.
Từ Văn phạm Port-Royal đến Bác ngữ học
Tiền thân của Ngôn ngữ học (Linguistique) là Văn phạm
(Grammaire), do người Hy Lạp khai trương và người Pháp tiếp nối. Thế kỷ XVII, các
tu sĩ dòng Dương thân (Janséniste)[6] ở Port Royal (tức Port-Royal-des-Champs, nữ tu viện, xây năm 1204, vẫn
còn dấu vết ở thung lũng La Chevreuse, thuộc Yvelines, phía nam Paris) soạn hai
cuốn sách cơ bản:
1- Văn phạm tổng quát và hợp lý (Grammaire générale et raisonnée)[7], tác phẩm này tìm cách giải thích, kèm theo những kiến giải
lịch sử và cho thí dụ về sự thành lập một chữ (un mot) và cách xây dựng ngữ
điệu (tournure) của một câu (une phrase).
2- Luận lý học hay Nghệ thuật suy tưởng (Logique ou Art de
penser)[8], sách này áp dụng luận lý học Descartes vào việc phân tích ngôn ngữ.
Hai cuốn sách nền tảng này thường được gọi ngắn gọn là Văn phạm
Port-Royal (Grammaire de Port Royal) và Luận lý Port Royal (Logique
de Port Royal).
Về khoa văn phạm Port Royal này, de Saussure, như ở trên, đã nhận xét rằng:
"Văn phạm chỉ nhắm vào việc đưa ra những lề luật để phân biệt
những hình thức (viết) đúng và những hình thức (viết) sai, đó là một môn học có
tính chất quy phạm, rất xa với sự quan sát thuần tuý, vì vậy quan niệm này tất
nhiên là hạn hẹp".
Còn về bác ngữ học, từ thời cổ đại, Alexandrie đã có trường phái Bác
ngữ học, nhưng mãi đến thế kỷ XVIII, người ta mới bắt đầu nói đến ngành Bác
ngữ học (Philologie), do Friedrich August Wolf đề ra năm 1777, như
một khoa học khảo sát văn bản, lịch sử văn chương, phong tục và chế độ... dựa
trên phương pháp phê bình.
Bác ngữ học, theo de Saussure, nếu có chú ý
đến ngữ học, cũng chỉ là để so sánh văn bản trong các thời kỳ khác nhau, xác
định ngôn ngữ đặc biệt của mỗi nhà văn và giải nghiã những mô thức trong các
văn bản cổ xưa hoặc tối nghiã.
Công trình của Friedrich Wilhelm Ritschi (1806-1876) viết về Plaute[9] có thể coi là nghiên cứu ngữ học và Ritschi cũng là một
trong những người đầu tiên nghiên cứu tiếng La-tinh cổ. Nhưng về phương diện
này, bác ngữ học cũng chỉ chuyên chú đến văn bản mà bỏ qua tiếng nói;
và hầu như chỉ nghiên cứu mảng ngữ tự cổ La Hy.
De Saussure trách bác ngữ học thế kỷ XVIII-XIX mới chỉ quan tâm đến chữ
viết mà bỏ qua tiếng nói, nhưng, đối với phê bình, đây là một điều
may mắn, bởi chữ viết chính là đối tượng của phê bình. Ngoài ra, vì nước
Đức là quê hương của bác ngữ học, cho nên chúng ta sẽ thấy trong khuynh hướng phê
bình bác ngữ học Đức, những ngòi bút sâu sắc và độc đáo như Erich Auerbach
(1892-1957) và Léo Spitzer (1887-1960).
Bác ngữ học so sánh và văn phạm so sánh
Giai đoạn thứ ba, theo Saussure, bắt đầu khi người ta thấy có thể so
sánh các ngôn ngữ với nhau. Và đó là nguồn gốc của khoa Bác ngữ học so sánh
hay Văn phạm so sánh.
Năm 1816, trong tác phẩm tựa đề Phép chia động từ trong tiếng Phạn
(Système de la conjugaison du sanscrit), Franz Bopp nghiên cứu mối liên hệ giữa
tiếng Phạn với tiếng Nhật Nhĩ Man, tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh. Tiếng Phạn là
tiếng Ần độ cổ, có nguồn gốc từ tiếng nói của người Aryens (Aryens trong
tiếng Phạn có nghiã là Quý tộc), giòng giống này nguồn gốc Ần-Âu, từ thế
kỷ XVIII, trước Tây lịch, đã chinh phục vùng Iran và miền bắc Ấn Độ, vùng Ấn Hà,
hợp chủng với thổ dân, thành dân tộc Ấn Độ. Tiếng nói của họ là tổ tiên của tiếng
Phạn (Sanscrit) và tiếng Pali. Khi Hitler đề cao người Đức thuộc dòng
giống Aryens, tức là giòng giống này.
Bopp không phải là người đầu tiên khám phá ra tiếng Phạn là tổ tiên
của một số thổ ngữ ở châu Âu và châu Á, nhưng ông nhận ra rằng những tương
quan giữa các ngôn ngữ có họ hàng với nhau, có thể là chất liệu cho một nền
khoa học riêng.
So sánh tiếng này với tiếng kia, giải nghiã
hình thức tiếng nói của dân tộc này bằng hình thức tiếng nói của dân tộc khác,
là điều trước ông chưa ai tìm ra.
Theo de Saussure, bên cạnh Bopp, còn có những nhà ngữ học nổi tiếng, như:
- Jacob Grimn (1785-1863), xây dựng nền móng nghiên cứu tiếng Nhật Nhĩ
Man với bộ sách đồ sộ Văn phạm Nhật Nhĩ Man (Deutsche grammatik) in năm
1822, được coi là người xây dựng nền móng Bác ngữ học Đức.
- Wilhelm G. Grimn (1786- 1859), em Jacob Grimn, cùng anh sưu tầm
truyện thần thoại Nhật Nhĩ Man in trong Truyện thần thoại của trẻ em và gia
đình (Contes d'enfants et du foyer).
- Franz Bopp (1791-1867), nhà ngữ học Đức, còn là tác giả cuốn Văn
phạm so sánh những tiếng Ấn-Âu (Grammaire comparée des langues Indo-Européennes),
1833-1852, tác phẩm này được coi là nguồn gốc của Ngữ học so sánh.
- August Friedrich Pott (1802-1887) nghiên cứu ngữ nguyên học
(étymologie), tức là tìm nguồn gốc của chữ, đã đem lại những kết quả đáng kể
cho ngôn ngữ học.
- Adalbert Kuhn, nghiên cứu ngữ học và thần thoại so sánh.
Ngoài ra còn có những nhà Ấn độ học như Theodor Benfey và Theodor Aufrecht,
v.v.
Trong trường phái So sánh, ba người đặc biệt góp phần rất lớn
vào vấn đề nghiên cứu so sánh là:
- Max Muller (1823-1900), học trò của Bopp, quảng bá phương pháp so
sánh trong những buổi nói chuyện rất hay, sau in thành cuốn Những bài
học về khoa ngôn ngữ (Leçons sur la science du langage), 1861.
- Georg Curtius (1820-1885), thày dạy de Saussure, tác giả cuốn sách cơ
bản Những nguyên tắc từ nguyên Hy Lạp (Principes d'étymologie grecque), 1879,
là người đã có công làm cho những nhà Bác ngữ học cổ điển chấp nhận Ngữ học so
sánh, ông là một trong những người đầu tiên hoà hợp Văn phạm so sánh với
Bác ngữ học cổ điển.
- August Schleicher (1821-1862), chuyên về Văn phạm so sánh, là người
đầu tiên muốn tái thiết ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy, tác giả cuốn Yếu lược
văn phạm so sánh những tiếng Ấn-Nhật Nhĩ Man (Abrégé de grammaire comparée
des langues Indo-Germaniques), 1861. Schleicher là người đầu tiên hệ thống hoá
kết quả của những nghiên cứu chi tiết. Tác phẩm Yếu lược văn phạm so sánh
những tiếng Ấn-Nhật Nhĩ Man của ông, hữu ích trong một thời gian dài, phản ánh
toàn bộ diện mạo trường phái so sánh và giai đoạn đầu tiên của nền ngữ
học Ấn-Âu.
Nhưng trường phái So sánh, vẫn theo sự phê bình của Saussure,
tuy có công khai quang một mảnh đất mầu mới, nhưng vẫn chưa thành lập được một
nền ngữ học có tính khoa học. Vì bị giới hạn trong biên giới nghiên cứu ngôn
ngữ Ấn-Âu, văn phạm so sánh không tự hỏi những đối chiếu ấy có ăn nhập
gì với nhau không và những điều họ khám phá ra có nghiã lý gì? Bởi chúng hoàn
toàn chỉ có tính so sánh mà không mang tính lịch sử.
Sự ra đời của Ngôn ngữ học hiện đại
Hay sự nghiên cứu những tiếng có nguồn gốc La Tinh
Theo de Saussure, chỉ từ khoảng 1870, người ta mới bắt đầu đặt câu hỏi:
vậy những tính cách thiết yếu của đời sống ngôn ngữ là gì?
Và từ đó người ta mới nhận thấy rằng những điểm tương đồng liên kết các
ngôn ngữ lại với nhau, chỉ là một trong những cục diện của hiện tượng ngữ học. Rằng
sự So sánh chỉ là một phương tiện, một phương pháp để tái thiết những sự
kiện đã xẩy ra.
Theo de Saussure, ngôn ngữ học đúng nghiã, chỉ thực sự phát sinh từ sự
nghiên cứu những thứ tiếng có nguồn gốc La tinh do Diez mở đầu với cuốn Văn
phạm những tiếng có gốc La tinh (Grammaire des langues romanes). Langues
romanes là những tiếng có nguồn gốc từ tiếng LaTinh, gồm tiếng Pháp, Ý, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Lỗ Ma Ni (Roumainie), Sardaigne, Occitan[10] và Catalan[11].
Friedrich Christian Diez (1794-1876) viết bộ sách quan trọng này từ năm
1836 đến 1843, ông là người xây dựng nền móng của ngành ngữ học Romane. Đây là
tác phẩm chủ yếu đã đưa ngữ học trở về với mục tiêu đích thực của nó.
De Saussure coi ngữ học Romane và ngữ học Nhật Nhĩ Man (nguồn gốc của tiếng
Anh, Đức, Hoà Lan...) là hai khu vực sắc bén của ngữ học.
Sở dĩ những nhà nghiên cứu ngữ học La Tinh và ngữ học Nhật Nhĩ Man đạt được
kết quả khả quan vì họ có lợi thế hơn những nhà nghiên cứu ngữ học Ấn-Âu, nhờ chỗ
họ biết rõ tiếng La tinh và những tiếng phát xuất từ tiếng La Tinh và các cách
nói khác nhau của từng miền. Tóm lại, việc nghiên cứu ngôn ngữ Romane (Ý, Pháp,
Tây ban Nha, Bồ Đào Nha...) và Nhật Nhĩ Man (Đức, Anh, Hoà Lan, Bắc Âu...) của
các trường phái ngữ học thế kỷ XIX, đã đưa đến những thành tựu đáng kể và đắc
dụng hơn việc nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu của các trường phái so sánh trước đây.
Nói khác đi, theo de Saussure, việc nghiên cứu ngôn ngữ Ấn Âu, mới chỉ
có tính cách so sánh để mà so sánh, chứ chưa dẫn đến kết quả cụ thể, như giải
thích cấu trúc và tìm tới gốc gác nguồn cội những tiếng Phạn, Nhật Nhĩ Man, Hy
Lạp và La Tinh, tức là chưa phân chất, mổ xẻ chữ, chưa tìm nguồn cội lịch sử của
chữ.
Cuối thế kỷ XIX, Whitney (1827-1894) nhà ngữ học Mỹ, tác giả cuốn Cuộc
sống của ngôn ngữ (La vie du langage), 1875, đã kích động một khuynh hướng
mới: trường phái Tân văn phạm (Néogrammairiens) mà những người đầu xướng
đều là người Đức: K. Brugmann, H. Osthoff, W. Braune, E. Sievers, H. Paul, thuộc
nhóm Nhật Nhĩ Man học; cùng với Leskien, nhà Slave học (tiếng Slave là nguồn
gốc các tiếng Nga, Serbe, Croate, Lituanien, Tchèque, Polonais...). Tân văn
phạm cho rằng trường phái So sánh chỉ trình bầy những trạng thái ngôn ngữ khác
nhau mà không giải thích và tìm nguyên nhân.
Đến đây de Saussure xuất hiện như một thiên tài trẻ tuổi:
Năm 1878, ở tuổi 21, đang còn là sinh viên tại đại học Leipzig, de Saussure
viết cuốn Luận trình về hệ thống nguyên thủy của nguyên âm trong những
tiếng Ấn-Âu (Mémoire sur le système primitif des voyelles dans les langues
Indo-Européennes) (nxb Leipsick, 1879), tác phẩm sẽ được coi như ngọn đuốc soi đường
cho nhóm Tân văn phạm, mở đầu cho khoa ngôn ngữ học hiện đại.
Nhờ những nhà Tân văn phạm, người ta không còn coi tiếng nói
như một cơ quan tự phát mà là một sản phẩm của trí tuệ cộng đồng
của những nhóm ngôn ngữ[12].
Từ đây tiếng nói sẽ được các nhà ngôn ngữ học đưa lên bàn mổ để
khảo sát. Sự giảo nghiệm này sẽ dẫn đến những kết quả không ngờ, áp dụng vào việc
nghiên cứu, phê bình, và đưa ngôn ngữ học lên điạ vị hàng đầu trong thế kỷ XX mà
Ferdinand de Saussure là người khai sáng.
Thụy Khuê
(Còn
tiếp)
1 Ferdinand de Saussure, Cours de
linguistique générale, Bibliothèque Scientifique Payot, 1972, Paris.
2 Chúng tôi dịch: langue là tiếng nói (như tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Việt), langage là ngôn ngữ, bao gồm nhiều cách
diễn đạt khác nhau (như ngôn ngữ loài chim, ngôn ngữ máy móc, ngôn ngữ con
người, ngôn ngữ nhà văn v.v.) và parole là lời nói (như lời anh
Năm, lời chị Tám). De Saussure phân biệt rõ ba điạ hạt này. Nhưng trong đời
sống hàng ngày, người ta thường dùng lẫn lộn những chữ này, không chỉ trong
tiếng Việt mà các tiếng nước khác cũng vậy.
3 Sách Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của de Saussure ghi
Friedrich August Wolf, năm 1777, đã mở đầu cho môn bác ngữ học này.
Nhưng năm đó, Wolf mới 18 tuổi, chưa có công trình gì. Các học trò khác của de
Saussure, có người ghi: "F. A. Wolf, năm 1777, lúc còn là sinh viên, đã
mong được gọi là nhà bác ngữ học". Thực ra, trong đơn xin vào đại học
Gottingen, Wolf ghi tên học ban philologie nhưng ông khoa trưởng từ chối
vì chưa có "ban" này, ông sửa lại theo tên truyền thống théologie
(thần học). Nhưng Wolf cứng đầu, cứ tiếp tục tranh đấu và cuối cùng môn philologie
được đưa vào danh sách của đại học. Saussure dựa vào chi tiết này để xác định
sự hiện diện của môn bác ngữ học từ năm 1777, nhờ Wolf. (Cours de
linguistique générale, chú thích số 23, t. 410).
4 Nhật Nhĩ Man (Germanie, Deutsche) là vùng nước Đức xưa (chúng tôi dùng
tiếng Nhật Nhĩ Man để phân biệt với tiếng Đức bây giờ). Tiếng Nhật Nhĩ Man là
nguồn gốc của tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hoà Lan, tiếng Frisesland (quần đảo ở
Bắc hải thuộc Hoà Lan và Đức) và các
tiếng Bắc Âu.
5 Cours de linguistique générale,
Bibliothèque Scientifique Payot, 1972, Paris, t. 13-14.
6 Dương thân (Jansénisme) là lý thuyết
của Augustinus trong tác phẩm Jansénius, chủ trương giới hạn tự
do của con người, đặt trên nền tảng: có những đặc ân ban cho người này ngay từ
lúc ra đời mà không cho người khác. Jansénisme cũng là tên một phong
trào đạo giáo, chống lại quyết định bất kỳ của vua và mệnh lệnh của giáo hoàng,
phát triển ở Pháp, Ý... trong thế kỷ XVII và XVIII, lấy Port-Royal làm trụ sở.
7 Văn phạm tổng quát và hợp lý (Grammaire générale et
raisonnée) và Nghệ thuật nói (Art de parler) của Antoine
Arnauld (1612-1694) và Claude Lancelot (1616-1695), in năm 1660.
8 Luận lý học hay nghệ thuật suy tưởng (Logique ou Art de
penser) của Antoine Arnauld và Pierre Nicole (1625-1695), in năm 1662.
9 Plaute (254-184, trước Tây lịch) tên La-Tinh
là Maccius hay Maccus Plautus, thi sĩ hài hước La-Tinh.
10 Occitan là những thổ âm ở miền Nam nước Pháp thời trung cổ, gồm
các vùng Limousin, Auvergne, Gascogne, Laguedoc và Provence.
11 Catalan là tiếng romane nói ở
Catalogne, quần đảo Baléares và Roussillon, cực nam nước Pháp.
12 Theo Giáo Trình Ngôn Ngữ Học Đại Cương,
t.14-19.