Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016
Thụy Khuê - Phê bình văn học thế kỷ XX - Chương 5: Phê bình phân tâm học (bài 1)
Phê bình phân tâm
học chỉ là một phần nhỏ trong lý thuyết phân tâm của Freud, nhưng để hiểu phê bình
phân tâm học là gì, chúng ta cần biết một số khái niệm về phân tâm học. Vì vậy
chương này sẽ chia làm hai phần: Phần thứ nhất: sơ lược về lý thuyết phân tâm và
phần thứ hai: phê bình phân tâm học.
I- Sơ
lược những khái niệm trong phân tâm học
Sigmund Freud
(1856-1939), cha đẻ của phân tâm học, sinh ngày 6/5/1856 tại Freiberg, Moravie,
thành phố thuộc Tiệp Khắc ngày nay, trong một gia đình Do Thái, nhiều đời phiêu
bạt, chạy sự kỳ thị, đến ngụ cư ở Áo trong thế kỷ XIX. Năm Sigmund 4 tuổi, gia đình
về Vienne; năm 1873, vào học y khoa, năm 1881, đậu bác sĩ, chọn nội trú chuyên
về bệnh tâm thần. Freud trở thành một trong những người tiên phong về lý thuyết
tế bào thần kinh, 1884-1885 in một bài nghiên cứu về những hậu quả trị liệu của
Cô-ca-in, rồi viết bài Về những người bị cấm khẩu ( Sur les aphasies)
in năm 1891.
1885, Freud sang Paris
tu nghiệp tại bệnh viện Salpêtrière, học bác sĩ Charcot (1825-1893) phép trị liệu
bằng thôi miên và dịch Những bài học ngày thứ ba (Les leçons de mardi)
của Charcot sang tiếng Đức. Mùa thu 1886, Freud trở về Vienne, cưới vợ và mở văn
phòng trị bệnh tâm thần bằng điện khí và thôi miên, chuyên về bệnh thần kinh (névrose),
đặc biệt chứng thác loạn cuồng trí (hystérie).
Dần dần ông bỏ phương
pháp thôi miên và dùng "phương pháp hồi tâm" (catharsis) mà ông đặt tên
là phân tâm học. Năm 1938, gia đình Freud sang Luân Đôn tỵ nạn Hitler, ông
mất ngày 23/9/1939, vì bệnh ung thư quai hàm. Freud để lại một gia sản tinh thần
lớn lao, khoảng trên hai trăm đầu đề, bài viết và sách.
Phê bình văn học chỉ
là phần rất nhỏ trong sự nghiệp đồ sộ này, tập hợp trong hai, ba bài viết, thậm
chí những người viết tiểu sử ông trong các bộ toàn thư không hề nhắc đến, nhưng
được một số người hiểu lầm, phóng đại và cho nó một tầm quan trọng không đúng
chỗ.
*
Freud bắt đầu xây dựng
nền móng phân tâm học từ năm 1895, khi nghiên cứu những giấc mơ của những người
bị bệnh tâm thần và thấy vai trò quan trọng của tính dục trong sự rối loạn tâm
thần. Ông nhận định: "những rối loạn thần kinh thường có nguyên nhân là
những rối loạn tính dục".
Rồi ông chuyển dần
từ phương pháp thôi miên sang phương pháp hồi tâm (catharsis), tức
là thay vì dùng thôi miên, đưa người bệnh vào giấc ngủ nhân tạo để khám phá những
bí ẩn của đương sự, Freud chuyển sang phương pháp giải thoát cảm xúc: trò chuyện
với bệnh nhân trong lúc tỉnh táo, để moi ra ánh sáng những biến cố gây chấn thương
đã bị dồn nén trong đầu người bệnh. Một khi người bệnh nói ra được những ẩn ức ấy,
là có cơ bình phục. Ông đặt tên phương pháp này là phân tâm học
(psychanalyse) dựa trên ba thành tố chính: thúc đẩy tính dục (pulsion sexuelle)
hay libido, sự dồn nén (refoulement) và vô thức
(l'inconscient). Năm 1896, danh từ phân tâm học được khai sinh. Và Freud định
nghiã: Giấc mơ là sự thực hiện một ham muốn. Chính xác hơn: "Giấc
mơ là sự thực hiện (trá hình) một ham muốn (bị dồn nén)"[1].
Freud cho rằng:
nguồn gốc của những rối loạn tâm thần phát sinh từ những ham muốn bị dồn nén,
liên quan đến mặc cảm Œdipe có từ tuổi thơ trong con người (con trai yêu mẹ,
con gái yêu cha), không liên hệ gì đến luân lý hay những ham muốn khác của con
người.
Những ham muốn này,
tuy bị dồn ép, vẫn tiếp tục tồn tại trong vô thức, chỉ có thể bộc lộ ra
một cách trá hình, tức là bị bóp méo, biến dạng. Vì vậy, bên cạnh các triệu
chứng tâm thần, luôn có những giấc mơ hay những việc làm sái (actes
manqués).
Trong Giải mộng (La
science des rêves hay L'interprétation des rêves) xuất hiện năm 1900, Freud xác
định những quy luật đại cương để giải mật những triệu chứng tâm thần mà nguyên
do phát xuất từ vô thức.
Sự xây dựng lý thuyết
phân tâm học của Freud có thể chia làm ba giai đoạn: 1895-1900, thời kỳ tìm tòi
và xây dựng lý thuyết. 1900-1917, thời kỳ đào sâu và phát triển, và từ 1917 trở
đi là sự kiện toàn lý thuyết phân tâm.
1900 là cái mốc
quan trọng, là năm ông vừa hoàn tất sự tìm kiếm và xây dựng xong lý thuyết phân
tâm, và đối với ông, cũng là năm bắt đầu một thế kỷ mới, Freud trình làng tác
phẩm chủ yếu Giải mộng (L'Interprétation des rêves), tuy đề 1900, nhưng đã
ra mắt từ tháng 11/1899. Didier Anzieu viết:
"Freud 43
tuổi rưỡi, đã bỏ ra gần bốn năm làm việc cật lực để hoàn thành bộ sách này. Thực
vậy, từ tháng 7/1895, ông đã khám phá ra rằng những giấc mơ là để thoả mãn sự
ham muốn. Tháng 10/1895, ông gửi cho Fliess bản Dự thảo một khoa tâm lý (Le Projet d'une psychologie scientifique) chỉ in sau khi ông
mất. Đầu năm 1896, ông ghép chữ Psycho-analyse, để chỉ phương pháp khảo sát vô
thức và làm vựng tập những phát biểu lý thuyết đang thành hình. Tháng 10/1896, Jacob,
cha ông mất. Sự kiện này gây biến động nội tâm tác động mạnh lên ông, tạo ra
những ám ảo (fantasmes) trong những giấc mơ (rồi đến những hình thức khác như: quên,
nói nhịu, làm sái, và thấy những màn ảnh kỷ niệm) mà ông đem ra tự phân tâm
mình, từ đó nẩy mầm trong đầu những khái niệm mới liên quan đến sự điều hành
của tiềm thức và vô thức và sự nối khớp giữa hai yếu tố này trong cái mà ông
gọi là bộ máy tâm thần (l'appareil psychique) với hệ thống nhận thức-ý thức (le
système perception-conscience). Ông lần lượt cập nhật mặc cảm Œdipe[2] tháng 10/1897 và sang năm 1898, những ám ảo của cảnh sơ khai (le
fantasme de scène primitive), năm 1899, sự hoảng sợ bị thiến (l'angoisse de
castration) (...).
Giải Mộng là cuốn
sách đầy cảm hứng, sống động, mạo hiểm, nhưng khó đọc vì những tư tưởng tân kỳ chuyên
chở trong đó, vì sự phức tạp của kiến trúc, vì sự gắt gao và đa dạng của các lý
thuyết, vì những mới lạ của các khái niệm (...). Chất liệu dồi dào: khoảng 160
giấc mơ được kể lại, trong đó có 50 của Freud, 70 của họ hàng, bệnh nhân, bạn
bè, học trò, và 40 do ông tìm thấy trong sách vở (...)
Freud chờ đợi rất
nhiều ở bộ sách lớn lao này: chờ sự công nhận những giá trị mà ông khám phá ra,
mong chấm dứt sự cô đơn trí thức, chờ sự nổi tiếng, bệnh nhân kéo đến nườm
nượp, tiền bạc dư giả, nói tóm lại là quyền uy và vinh hiển. Thực tế xẩy ra trái
ngược hẳn, kỳ vọng càng lớn thì sự thất vọng càng cao. Cuốn sách bán không chạy,
nhà xuất bản thiệt hại nặng, theo Jones[3] sách in 600 cuốn mà 8 năm mới bán hết (...). Một vài bài tường thuật
hiếm hoi trong các báo y khoa, khá ngu dốt hoặc chê bai. Những đồng nghiệp, bạn
bè, nổi giận vì nhận ra mình trong những mẫu lấy làm ví dụ. Freud gượng an ủi
là mình đi trước thời đại 15, 20 năm, nhưng bị chạm tự ái, khi phải sửa lại những
chữ viết nhầm, những sai sót trong bản đã in"[4].
Vì vậy, sau đó Freud
viết những bài luận văn hay những cuốn sách mỏng, dễ hiểu hơn cho mọi tầng lớp độc
giả, trong số có: Về giấc mơ (Sur le rêve), 1901, Tâm thần bệnh
lý học trong đời sống hàng ngày (Psychopathologie de la vie quotidienne),
1901-1904, Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục (Trois Essais sur la
théorie sexuelle), 1905, vv... Năm 1915, Freud viết một loạt bài quan trọng để "soi
sáng và đào sâu những giả định lý thuyết mà hệ thống phân tâm học dựa vào"
được thu thập và in trong tập Siêu tâm lý học (Métapsychologie)[5]. Đến năm 1917-1918, ông viết cuốn Phân tâm học nhập môn (Introduction
à la psychanalyse), tuy gọi "nhập môn", nhưng cuốn sách tổng kết một
cách chi tiết nội dung phân tâm học. Đó là những sách cơ bản. Năm 1923, Freud
cho xuất bản cuốn sách nhỏ Cái tôi và cái
đó (Le Moi et le ça), giải thích lại tiến trình thúc đẩy và dồn nén của
libido trong vô thức, thay các luận cứ ban đầu: tiềm thức/vô thức/ý thức,
rồi vô thức/tiền thức/ý thức bằng luận cứ: Cái tôi/cái đó/cái siêu
tôi.
Chúng tôi chọn trình
bầy sơ lược nội dung những sách cơ bản này, để độc giả thấy rõ tiến trình tư tưởng
của Freud, sự lựa chọn này đưa đến sự kiện một vài chủ đề được lập lại trong
hai cuốn sách khác nhau nhưng được thay đổi hoặc giải thích rõ hơn.
Cuốn Về giấc mơ (Sur
le rêve) viết trong thời điểm ông đang bị khủng hoảng tinh thần vì sự thất bại
của Giải Mộng, nên không có nhiều cảm hứng, không phân chương mục. Cho nên
chúng tôi chọn chương Giấc mơ trong Phân tâm học nhập môn viết sâu
hơn nhiều.
A- Ba luận văn
về lý thuyết tính dục (Trois Essais sur la théorie sexuelle)
Cuốn Ba luận văn
về lý thuyết tính dục, in năm 1905, gây cho ông nhiều hệ lụy nhất. Người
khen cho rằng đó là "sự đóng góp đáng ghi nhớ nhất, tân kỳ nhất, trong
những đóng góp của Freud vào kiến thức nhân loại" (James Stracheys). Sách
in 1000 cuốn, bán trong 4 năm mới hết. Từ 1910 và 1920, in thêm 4000 cuốn nữa.
Cuốn sách này đã làm cho Freud bị "gần cả nhân loại" ghét. Ông
nhận được không biết bao nhiêu lời nhục mạ và rủa xả. Theo Jones, người ta thấy
cuốn sách vô luân, tác giả độc hại, tục tĩu dâm bôn. Ra đường mọi người không
thèm chào ông nữa[6].
Trong chương I, Những
thác loạn dục tính (Les aberrations sexuelles), Freud kê khai, mô tả và giải
thích những hình thức thác loạn, được ông chia làm hai loại:
1/ Đồng tính, được
giải thích như dấu hiệu suy thoái thần kinh (thời ấy, đồng tính bị coi là bệnh
hoạn) và ái nam ái nữ.
2/ Chưa trưởng thành
trong tính dục (trẻ con) hoặc lấy con vật làm đối tượng vật dục (xẩy ra ở thôn
quê).
Chương này gây sốc lớn
bởi sự mô tả những cách giao cấu thác loạn.
Trong đoạn Thúc
đẩy tính dục ở những người loạn thần kinh (La pulsion sexuelle chez les névrosés),
ông xác định lại một lần nữa: Sự thúc đẩy tính dục là nguyên nhân gây bệnh
thần kinh. Vì những thúc đẩy này bị dồn nén, không được thoả mãn, chúng tìm
cách thoát và nổ ra bằng những triệu chứng bấn loạn thể xác, dưới các hình thức
thác loạn dâm bôn. Ở những người bệnh thần kinh, bệnh này thường phát ra sau tuổi
dậy thì[7].
Trong chương II, Tính
dục trẻ con (La sexualité infantine)[8], Freud đưa ra những khái niệm còn sốc hơn nữa, ông cho rằng trẻ con là
một kẻ "đồi trụy đa hình thức" (un pervers polymorphe). Tất cả
những thứ lỗ trên người (miệng, hậu môn...) đều được nó dùng để thoả mãn dâm
tính. Các trò hôn, hít, bú, mớm, mút, sờ tý, rặn ị... đều có mục đích thoả mãn
dâm tính từ thủa mới ra đời. Một quan niệm như thế ở đầu thế kỷ XX, quả là
"không thể chấp nhận được".
Nhưng có ba điểm
quan trọng trong cuốn sách này:
1- Freud xác định
thúc đẩy tính dục là nguyên nhân các bệnh thần kinh.
2- Freud xác định
thúc đẩy dục tính có từ tuổi thơ. Đến tuổi dậy thì nó thay đổi bộ mặt.
3- Freud định nghiã
Libido lần đầu.
Libido
Khái niệm libido,
xuất hiện trong cuốn Ba luận văn về lý thuyết tính dục, dòng đầu, chương
I, tựa đề Những thác loạn dục tính (Les aberrations sexuelles), Freud viết:
"Trong sinh
vật học, người ta giải thích sự hiện hữu những nhu cầu tính dục ở con người và
con vật bằng giả thuyết có một "thúc đẩy tính dục" (pulsion
sexuelle), được xem như tương tự với thúc đẩy thực phẩm: đói. Vì ngôn ngữ bình
dân thiếu chữ tương đương với chữ đói, nên khoa học phải dùng chữ
"libido"[9].
Trong bản in năm
1910, Freud chua thêm: Có một chữ thích hợp trong tiếng Đức là Lust thì
nó lại mập mờ, chỉ cả nhu cầu lẫn sự thoả mãn (note 1, t. 151, sđd).
Ở trang 157, ông viết
dài hơn: "Chúng tôi đã định nghiã khái niệm libido như một sức mạnh mà số
lượng thay đổi, cho phép đo những diễn tiến và những chuyển vị trong phạm vi kích
thích tính dục" (Nous avons défini le concept de libido comme une force
quantitativement variable permettant de mesurer les processus et les
transpositions dans le domaine de l'excitation sexuelle)[10].
Libido sau đó, được
ông giải thích ngắn gọn là năng lượng thúc đẩy tính dục (énergie de la
pulsion sexuelle) hay năng lượng tính dục (énergie sexuelle), ta cũng
có thể dịch là năng lượng nhục dục và hiểu nôm na là độ dâm
trong tính dục, nhưng chúng tôi giữ nguyên chữ libido của Freud.
Freud phân biệt năng
lượng libido với các thứ năng lượng thúc đẩy khác trong tâm thần, như thúc
đẩy đói, và ông trách Jung đã đồng hoá libido với những thúc đẩy tâm thần
nói chung (t. 160). Sự khảo sát những trường hợp dâm bôn (perversions) và những
tâm kinh bệnh (psychonévroses), cho thấy những kích thích tính dục này không chỉ
đến từ những bộ phận sinh dục mà từ tất cả các bộ phận trong thân thể.
Libido, sẽ là một trong những khái niệm chủ yếu của phân tâm học Freud, ban đầu
được trình bầy dưới hình thức: thúc đẩy tính dục (pulsion sexuelle), rồi
chuyển sang sức mạnh của độ đẩy (la force de la pulsion), rồi năng
lượng tính dục (energie de la pulsion sexuelle) và được gọi tên là libido.
Libido còn có nghiã là cường lực của thúc đẩy tính dục, mà ta có thể hiểu
là độ dâm của tính dục. Và chính cái độ dâm này khi bị dồn nén đã
gây ra những rối loạn tâm thần.
B- Siêu tâm lý
học
Siêu tâm lý học (Métapsychologie)[11], là tác phẩm quan trọng, gồm năm bài thu thập được in thành sách. Cuốn
sách tương đối nhỏ, nhưng phải do một ban phiên dịch đảm nhiệm. Các dịch giả Pháp
cho biết: "Vì tầm quan trọng cực kỳ của những bài này, vì tính chặt chẽ
của luận chứng và sự tối nghiã đôi khi cố hữu ở những vấn đề bàn luận, chúng
tôi cố gắng dịch đặc biệt sát với bản tiếng Đức, vì vậy có thể thấy là thô
nhám".[12]
Tác phẩm giải thích
ba vấn đề cơ bản trong lý thuyết phân tâm: Thúc đẩy (pulsions), dồn
nén (le refoulement) và vô thức (l'inconscient). Chúng tôi xin tóm tắt
một số ý chính bằng ngôn ngữ dễ hiểu và mạn phép đưa ra một số ví dụ nôm na để độc
giả dễ cảm nhận.
1. Thúc đẩy tính
dục (Les pulsions sexuelles)
Để giải thích khái
niệm thúc đẩy (pulsion), Freud đưa ra khái niệm kích thích (exitation).
Trong sinh lý học: kích thích là yếu tố từ bên ngoài đánh vào một tổ
chức sống động, như hệ thần kinh (système nerveux) thì nó sẽ chạy ra ngoài
dưới dạng hành động [chúng tôi mạn phép lấy ví dụ: bị chửi, ta nổi xung đánh kẻ
chửi, xong rồi thôi].
Theo Freud, thúc
đẩy có thể coi như tương đương với kích thích, nhưng là yếu tố ở bên
trong cơ thể, nó đánh vào tâm thần (psychique) đương sự. Kích thích là
hiện tượng chốc lát, còn thúc đẩy là hiện tượng lâu bền. Vì thúc đẩy
không từ bên ngoài đến mà ở trong cơ thể cho nên ta không thể trốn nó được, nôm
na gọi là ta có nhu cầu (besoin), và muốn triệt hạ nhu cầu, thì phải làm
thoả mãn nhu cầu [ví dụ đói thì phải ăn].
Có nhiều loại thúc đẩy,
không thể kể hết được [ví dụ: thúc đẩy bài bạc, rượu chè, phá hoại, nha phiến, đánh
lộn, giết người...].
Có những thúc đẩy không
thoả mãn không được [đói, đại, tiểu tiện], có những thúc đẩy có thể chờ đợi hay
"nhịn" được [libido].
Freud chia hai loại
và đặt tên: Thúc đẩy của cái tôi (pulsions du moi) hay thúc đẩy tự
bảo tồn (pulsions d'auto-conservation) [ăn, uống...] và thúc đẩy tính
dục (pulsions sexuelles).
Khảo sát bệnh tâm
thần, Freud thấy nguồn cội của bệnh này là sự xung đột giữa thúc đẩy của cái
tôi và thúc đẩy tính dục.
Nhưng theo sinh vật
học, thì không thể cho tính dục nằm chung với các sinh hoạt khác của cá
nhân bởi vì xu hướng của nó, vượt quá cá nhân, mục đích cuối cùng của nó là sản
sinh cái mới, tức là bảo tồn chủng loại.
Freud cho rằng: điểm
đặc biệt của thúc đẩy tính dục là dù xuất hiện dưới hình thức nào, mục đích
chung của nó vẫn là thoả mãn khoái lạc thể xác, và khi đã được thoả mãn rồi, thì
nó mới có nhiệm vụ bảo tồn nòi giống.
Do dó, thúc đẩy
tính dục có cả hai bộ mặt: bảo tồn lẫn tính dục, Freud viết: "vì
vậy một phần của nó gắn bó với thúc đẩy cái tôi suốt đời và cấp cho nó những
thành phần thuộc libido, bình thường thoát khỏi con mắt mọi người và chỉ để lộ
trong trường hợp bệnh hoạn"[13].
Vì những tính chất
này mà libido có thể làm những việc rất xa với mục đích ban đầu, như siêu
hoá (sublimation).
Freud đưa ra bốn
con đường của libido:
1- Lật ngược tình
thế: xoay một thúc đẩy từ chủ động sang thụ động (ham muốn giao cấu chuyển sang
thích nhìn cảnh này (voyeurisme), hoặc thay đổi hẳn nội dung (tình yêu đổi sang
hận thù).
2- Lật ngược chính
mình: khổ dâm (masochisme) là hành động chống lại cái tôi bảo tồn.
3- Dồn nén.
4- Siêu hoá
(sublimation): là sự bảo tồn cái tôi bằng cách lái những libido sang những
mục đích không có tính cách dục tính như những hoạt động xã hội.
Xin lưu ý độc giả chữ
sublimation có hai nghiã: trong văn chương nó có nghiã là là hướng một sự
đam mê (une passion) hay một khuynh hướng (chính trị, triết lý,
nghệ thuật...) về một giá trị xã hội đạo đức, cao cả; ở nghiã này, nó được dịch
là thăng hoa, là tình trạng hoàn toàn có ý thức. Nghiã phân tâm học, như
vừa nói, là một tình trạng xẩy ra trong vô thức, tức là bị bắt buộc vượt trên cái
tôi để bảo tồn cái tôi, và được dịch là siêu hoá.
Freud viết: "Từ
nguyên thuỷ xuất phát đời sống tâm thần, cái tôi đã bị những thúc đẩy bao vây,
và có khả năng thoả mãn một phần những thúc đẩy này trên chính nó. Ta gọi tình
trạng này là tự yêu mình (narcissisme)[14] và ta định danh cái khả năng thoả mãn này là tự dâm" (auto-érotique)[15].
2. Sự dồn nén (le
refoulement)
Câu đầu tiên trong
chương viết về dồn nén, Freud cho rằng chuyển động thúc đẩy vấp phải chướng ngại
đầu tiên là lực cản nhắm vô hiệu nó, và ông gọi đó là sự dồn nén.
Bởi đối với những kích
thích đến từ bên ngoài, ta dễ đối phó, nhưng đây là sự thúc đẩy từ bên trong,
thì rất khó bởi vì ta không thể chạy trốn ta được. Cho nên sự kết án
(condamnation) là phương pháp hữu hiệu để triệt hạ những thúc đẩy này.
Và Freud cho rằng:
Sự dồn nén (le refoulement) là khâu trung gian giữa sự trốn chạy và bị kết án.
Nói khác đi, những thúc đẩy bị đuổi đánh, không chạy trốn đi đâu được, đành chịu
bị dồn nén, tức là: làm sao mà giấu nó đi, không cho ý thức biết, bởi
vì ý thức mà biết thì nó cấm[16].
Cần phân biệt: sự
thúc đẩy của cái tôi như đói, lúc đầu có thể nhịn được, tức là chịu bị dồn nén,
nhưng đói có độ căng thường trực, càng lúc càng tăng, không ăn không thể chịu được.
Còn libido khác đói, không những nó chịu được dồn nén mà có khi còn
cảm thấy khoái lạc trong hình phạt đó.
Đến giai đoạn hai,
những thúc đẩy bị cấm này, có thể gọi thẳng là libido, đã bị dồn nén rồi,
nghĩa là đã bị giấu trong chỗ kín rồi (sau sẽ có tên là vô thức),
nhưng nó không chết, mà nó bắt đầu sinh mầm non, rồi nó tự tổ chức "băng đảng"
để sẵn sàng hành động và hiện ra dưới bộ mặt "dễ thương" khiến cho ý
thức có thể chấp nhận được.
Khảo sát những trường
hợp bệnh thần kinh, Freud thấy rằng dưới bộ mặt mới này, libido sinh sôi
nẩy nở "trong bóng tối" và tìm ra những cách diễn đạt nguy hiểm trong
đầu óc bệnh nhân. Nó trá hình dưới các hình thức khác để vượt "tường lửa"
của ý thức và hiện ra dưới bộ mặt ngây thơ vô tội. Người ta không thể biết được
hết thiên hình vạn trạng của những sự trá hình này. Vì vậy, phân tâm học phải điều
tra hai điểm: phát xuất từ những thúc đẩy nào và sau khi trá hình nó biến thành
những dạng thức như thế nào[17].
Chỗ libido bị
giam cầm tạm thời, Freud gọi là vô thức.
3. Vô thức
(l'inconscient)
Vô thức được Freud định
nghiã khá mập mờ:
"Phân tâm
học cho ta biết rằng điểm cốt yếu của tiến trình dồn nén không phải là loại trừ
hay tiêu diệt sự xuất trình lại một thúc đẩy mà là không cho nó trở thành ý thức.
Chúng tôi nói rằng nó ở trong tình trạng "vô thức" và chúng tôi có
thể cung cấp những cớ chắc chắn chứng tỏ rằng, dù ở trong tình trạng vô thức,
nó vẫn có thể sản sinh những hiệu quả mà một số đạt tới ý thức. Cái bị dồn nén nào
cũng tất yếu trú ngụ trong vô thức, nhưng trước tiên, chúng tôi xin nói là nó không
bao phủ hoàn toàn vô thức mà chỉ chiếm một phần của vô thức.
Làm sao đạt tới
sự nhận diện vô thức? Dĩ nhiên, chúng ta chỉ có thể biết nó như biết ý thức,
một khi nó đã bị đổi chỗ hay được chuyển thể sang ý thức. Công việc phân tâm
giúp chúng tôi mỗi ngày kinh nghiệm có thể làm được việc chuyển thể như thế"[18].
Nói gọn lại: libido
bị dồn nén vào một nơi được gọi là vô thức, tức là tình trạng không biết
đến nó hay là vờ như không biết đến nó. Nhưng như trên đã nói, nó không chịu chết
cứng mà nó tổ chức phản kháng, chuyển thể, giả làm mặt dễ thương để được ý thức
chấp nhận, tức là được biết đến.
Trong phần Biện
minh cho vô thức (Justification de l'insconscient), Freud cho biết, tuy khái
niệm vô thức bị phản đối mọi mặt, ông vẫn thấy nó cần thiết và chính
đáng và ông có nhiều bằng chứng xác nhận sự hiện hữu của vô thức.
Cần thiết bởi vì những
điều biết được về ý thức còn đầy thiếu sót, có những hành vi thuộc địa hạt tâm
thần không thể giải thích được bằng ý thức như những giấc mơ hay những việc
làm lộn, làm sái (actes manquants) ở người lành mạnh và có những triệu chứng
tâm thần, những hiện tượng bị dồn nén dẫn tới hoảng loạn (phénomènes
compulsionnels) nơi người bệnh. Hoặc nếu kể đến tất cả những kỷ niệm ngầm giữ trong
đầu thì cũng không thể không công nhận là có vô thức. Nói chung những trạng thái
tiềm tàng, ngầm, ẩn, mà ý thức không biết, hiển nhiên thuộc vào điạ hạt vô thức.
Sở dĩ người ta không cho những trạng thái ngầm này tính chất tâm thần bởi vì người
ta không nghiên cứu nó, trừ phân tâm học. Còn những người không biết đến những
dữ kiện bệnh lý này là vì họ cho rằng những việc làm lộn, làm sái của những
người bình thường là do tình cờ và tin vào câu châm ngôn cũ rích mơ là bịa
(songe est mensonge)[19].
C- Cái tôi và
cái đó (Le Moi et le ça)
Trong cuốn Cái
tôi và cái đó (Le Moi et le ça), in năm 1923, Freud đưa ra bộ ba: Cái
tôi/ cái đó/ cái siêu tôi, để thay thế cho bộ ba: Vô thức/ tiềm thức/ ý
thức, trong Siêu tâm lý học. Xin giải thích qua vấn đề này.
Khái niệm tiềm
thức (subconscient) được Freud đưa ra từ năm 1895, trong bài Những
nghiên cứu về chứng loạn thần khinh (Les études sur l'hystérie). Subconsient
hay tiềm thức là tình trạng tâm thần mà chủ thể không ý thức được,
nhưng nó có ảnh hưởng tới thái độ và các phản ứng tâm lý.
Ba yếu tố: ý thức/
tiềm thức/ vô thức ban đầu, được Freud trình bày theo tiến trình sau đây:
những thúc đẩy tính dục, đầu tiên là được biết đến (ý thức), rồi chúng bị ý
thức dồn nén vào tiềm thức, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị vô hiệu hoá,
chúng vẫn còn tác động, rồi sau cùng chúng mới bị dồn vào vô thức, và để
quên trong đó. Vậy tiềm thức là chặng đường trung gian giữa thúc đẩy
và vô thức, và tiến trình ý thức / tiềm thức / vô thức là chặng đường
đầu tiên.
Năm 1915, trong Siêu
tâm lý học, Freud sửa lại, ông loại tên tiềm thức (subconscient) ra
vì ông bảo nó "không đúng và gây nhầm lẫn", dẫn đến sự hiểu lầm
có hai ý thức: ý thức là chính và tiềm thức là ý thức hạng hai, tuy
yếu nhưng vẫn còn tác dụng.
Freud thay bằng khái niệm tiền thức (préconscient) và
thúc đẩy tính dục sẽ được trình bầy theo tiến trình: vô thức/ tiền
thức/ ý thức, Freud lập luận như sau:
Vô thức gồm chứa những hành vi ngầm, đợi (les actes latents), tạm thời không
biết.
Một hành động tâm
thần [ví dụ thúc đẩy libido] phải trải qua hai vòng, giữa hai vòng đó, có một kỳ
sát hạch gọi là kiểm duyệt. Trong vòng đầu, nếu nó bị kiểm duyệt loại
ra, không được vào vòng hai, thì nó bị dồn nén vào vô thức, và trở thành vô thức.
Nhưng nếu nó thoát được màn kiểm duyệt để vào vòng hai, thì nó sẽ thuộc vào hệ
thống mà ta gọi là hệ thống ý thức. Nhưng khi nó chưa được tiếp nhận hoàn toàn,
tức là nó còn ở tình trạng tạm thời, sắp sửa trở thành ý thức, ta gọi đó là tiền
thức (préconscient)[20]. Tiền thức là tình trạng tâm thần, hiện vẫn còn trong vô thức
nhưng sắp sửa trở thành ý thức.
Tóm lại, đối với
Freud 1915, tiến trình libido, sẽ như sau: vô thức/ tiền thức/ ý thức. Tức
là libido ở trong vô thức, muốn tiến ra ngoài, nó phải trá hình đánh lừa
kiểm duyệt, để được vào tiền thức, trước khi trở thành ý thức thực
thụ dưới bộ mặt mới.
Còn khi libido không
thoát vòng kiểm duyệt, tức là bị từ chối hẳn, nó ở trong vô thức, làm hoảng
loạn (angoisse) gây ra những hình thức bệnh lý, như chứng hoảng loạn thần
kinh (hystérie d'angoisse)[21].
Từ 1923, Freud lại đưa
ra một luận cứ mới trong cuốn Cái tôi và cái đó (Le Moi et le ça), phân
chia, thay vì vô thức/ tiền thức/ ý thức, mà là ba khoảnh khắc khác nhau
của tâm thần: le moi/ le ça / le surmoi, tạm dịch là cái
tôi/ cái đó/ cái siêu tôi.
Cái đó là một khoảnh khắc của tâm thần, là bình chứa những thúc đẩy
(impulsions) và sự dồn nén (refoulé). Cái đó là chủ thể vừa chứa những thứ
bị cấm vừa quyết định sự kiểm duyệt. Cái tôi là khoảnh khắc của tâm thần
đã bị cái đó kiểm duyệt khi được trình diện với xã hội.
Cái siêu tôi, là khoảnh khắc của cái tôi lý tưởng mà cá nhân muốn đạt được
theo mẫu của cha mẹ, là vị trí của cái tôi trong điạ hạt tưởng tượng, thể hiện lý
tưởng của trẻ con, tưởng mình vô địch, thoát thai từ sự tự yêu mình (narcissisme)[22].
Sau đó là lý thuyết
về sự khủng hoảng với cuốn Sự đình chỉ, triệu chứng và hoảng sợ Inhibition,
symtôme et angoisse, in năm 1926.
Những cuốn sách này
mở rộng, sửa sai, đưa siêu tâm lý học vào một chiều kích mới. Tuy nhiên, những điểm
cốt yếu về phân tâm học, tức là những lập luận cơ bản mà Freud đưa ra từ đầu, vẫn
là những giá trị không thay đổi. Freud đã không ngừng đào sâu và sửa đổi những
khái niệm, kiến giải mà ông đã đề cập để kiện toàn khoa phân tâm học tới phút
chót của cuộc đời.
D- Phân tâm học
nhập môn (Introduction à la psychanalyse)
1900 là năm Freud trình
làng lý thuyết phân tâm học với cuốn Giải mộng.
1917 đánh dấu một
ngõ quặt với cuốn Phân tâm học nhập môn viết năm 1916-1917. Đây là cuốn
sách quan trọng, trong đó Freud định vị và đào sâu một số khái niệm có từ trước,
đôi khi ông thay đổi và đưa thêm những khái niệm mới. Sau đây là những vấn đề
chính được đề cập trong tác phẩm.
Phân tâm học là phương
pháp trị liệu bệnh tâm thần
Trong bài Tựa cuốn Phân
tâm học nhập môn (Introduction à la psychanalyse)[23], Freud định nghiã phân tâm học như sau: "Phân tâm học là một
phương pháp trị liệu những người bị bệnh tâm thần", nhưng ông báo trước:
"về phương diện kết quả không có gì là bảo đảm". Về nội dung của
phương pháp này, Freud viết:
"Trị liệu
phân tâm học là một cuộc trao đổi lời nói giữa người bị phân tâm và bác sĩ.
Bệnh nhân kể những biến cố trong quá khứ của đời mình và nói những cảm tưởng hiện
tại, thú nhận những ham muốn và những cảm giác. Bác sĩ chuyên chú điều khiển những
ý tưởng của bệnh nhân, đánh thức những kỷ niệm, hướng sự chú ý của bệnh nhân về
một số định hướng, rồi ông giải thích và quan sát phản ứng hiểu hay không hiểu mà
ông đã tạo ra cho người bệnh".[24]
Như vậy, đối với
Freud, phân tâm học chính là phương pháp trị liệu bệnh tâm thần.
Freud định nghiã phương
pháp trị liệu bệnh tâm thần, như sau:
1- Dùng sự điều tra
những diễn biến tâm thần trong vô thức mà những phương pháp khác không thể đạt
được.
2- Xây dựng trên sự
điều tra này để chữa những bệnh nhân bị rối loạn tâm thần.
Theo ông, không ai
có thể tham dự những buổi chữa bệnh này, vì người bệnh chỉ thổ lộ với một người
mà họ tin cậy, khi có mặt một người khác, họ sẽ không nói gì hết, cho nên phương
pháp phân tâm học này mọi người chỉ được nghe nói chứ chưa được tham dự thực sự
bao giờ. Và ta có thể học phân tâm trên thân thể của ta qua việc phân tâm chính
mình[25].
Những khám phá
của phân tâm học
Theo Freud, những kết
quả đầu tiên của phân tâm học, cho thấy:
1- Khám phá thứ nhất:
Vô thức điều hành tâm thần. Ý thức chỉ điều khiển vài việc đơn lẻ, tức là
một phần của tâm thần. Freud viết: "Tôi có thể bảo đảm với quý vị rằng
sự chấp nhận vô thức điều hành tâm thần, khánh thành một hướng đi mới có tính
quyết định, trong khoa học."[26]
2- Khám phá thứ nhì:
sự thúc đẩy tính dục là nguyên nhân quyết định những bệnh thần kinh và
tâm thần, nó giữ một vai trò quan trọng phi thường và cho đến bây giờ chưa được
đánh giá đúng mức. Hơn thế nữa, những thúc đẩy tính dục này còn góp phần
không nhỏ vào việc cấu tạo tinh thần con người trong những điạ hạt văn hoá,
nghệ thuật và xã hội.
Chúng ta thấy ở đây,
tức là năm 1917, lý thuyết phân tâm đã thay đổi:
- Freud xác định vô
thức chỉ huy tâm thần chứ không phải ý thức. Trước đây không có xác định này.
Tất cả những người tin vào vô thức, đều sử dụng điều này để xây dựng lập luận của
họ, tiêu biểu là Breton (1896-1966) trong tuyên ngôn siêu thực.
- Freud xác nhận những
thúc đẩy tính dục góp phần vào viêc cấu tạo tinh thần con người, trong các địa hạt
văn hoá và xã hội. Điều này cũng mới thêm vào (trước đây Freud chỉ cho rằng
libido bị cưỡng bức phải làm những việc không có gì là tính dục). Và cũng sẽ được
Breton và những người tin vào vô thức, sử dụng, coi vô thức như nguồn sáng tạo.
Tuy nhiên, Freud đã
tự mâu thuẫn với chính mình khi ông đưa ra điểm này, vì ở một đoạn dưới, Freud
phân biệt: những giấc mơ tỉnh (rêves éveillés) là một hiện tượng khác [tức
là mơ mộng] và là sản phẩm của tưởng tượng. Và ông coi những giấc mơ tỉnh
mới là nguồn cội của sáng tác. Giấc mơ tỉnh không có liên hệ gì với vô
thức, vì người sáng tác, ở trong tình trạng mơ mộng, hay mơ tỉnh,
tức là tưởng tượng, trong lúc tỉnh.
Nói tóm lại, năm
1917, Freud cho rằng những thúc đẩy tính dục hay libido bị dồn nén và bị siêu
hoá, tức là bị đổi hướng sang làm việc văn hoá đã góp phần vào việc mở mang
văn hoá nghệ thuật.
Freud giải thích: "Mỗi
cá nhân mới bước vào xã hội loài người là bị bắt buộc hy sinh những bản năng
của mình, trong số những sức mạnh bản năng bị dồn nén đó, khích động tính dục
giữ vai trò lớn lao, nó bị "siêu hoá" tức là bị đổi hướng khỏi mục đích
tính dục để hướng về những mục địch xã hội cao hơn, không còn có gì là tính dục
cả.
Nhưng đó là một
tổ chức bấp bênh [tào lao]; những bản năng tính dục
bị chế ngự bậy bạ, và mỗi cá nhân bị cưỡng ép lao động văn hoá có cơ nguy bị bản
năng tính dục nổi lên phản kháng sự dồn nén này. Một mặt, xã hội lại không thấy
mối de doạ nào nguy hiểm hơn cho văn hoá, bằng sự giải thoát những bản năng
tính dục để chúng trở lại với những mục đích ban đầu [tức là hành lạc]. Thành
thử, xã hội không muốn người ta nhắc lại cái phần nguy hiểm của những nền móng
mà xã hội dựa vào [tức là siêu hoá hay cưỡng bách libido làm việc
văn hoá], vì vậy, xã hội không có lợi lộc gì để cho sức mạnh của bản năng tính
dục [libido] được công nhận và sự quan trọng của đời sống tích dục được mọi
người biết đến, vì vậy xã hội chấp nhận phương pháp giáo dục quay mặt với lãnh
vực này. Vì không chấp nhận kết quả của phân tâm học mà chúng tôi biện hộ, họ
cố tình bài xích nó là ghê tởm về phương diện thẩm mỹ, là đáng kết án về phương
diện đạo đức, là nguy hiểm về mọi mặt."[27]
Tóm lại, năm 1917,
trong Phân tâm học nhập môn, Freud xác định hai điểm sẽ được Breton sử dụng
để làm bản tuyên ngôn siêu thực:
- Vô thức chi
phối tất cả tâm thần.
- Libido bị cấm
cản sẽ siêu hoá trong những công tác sáng tạo.
Chương thứ hai của Phân
tâm học nhập môn, Freud viết về những hành động lệch, sai, trật, lộn,
mà ông gọi chung là làm lộn (les actes manqués), theo ông những động tác
đó biểu hiện sự hiện hữu và sự chỉ đạo của vô thức.
Làm lộn (actes
manqués)
Làm lộn được định nghiã
như sau: Khi một người nói hay viết một tiếng hay một chữ khác với tiếng, chữ mà
đương sự muốn nói, viết (như lapsus tức là nói nhịu hay nói lộn),
hoặc đọc lộn, nghe lộn... Sự kiện này ở người lành mạnh, thường được coi như một
hiện tượng thuộc về cơ thể (tai điếc, mắt mờ...) do vô tình phạm phải hoặc chỉ xẩy
ra trong chốc lát, vv... Sự thực không phải thế. Freud đưa ra trường hợp một nhà
hùng biện, đang hùng hồn diễn thuyết, tại sao lại nói nhịu một chữ trong bài diễn
văn. Và một bà nội trợ tại sao quên chìa khoá nhà. Cả hai đều trong tình trạng
sáng suốt không bệnh hoạn?
Theo ông, không thể
coi đó là những "tai nạn nhỏ" không đáng để ý. Dĩ nhiên khi quá mệt,
hay bị kích thích mạnh, hoặc đang chú tâm vào việc gì, ta có thể lơ đễnh, quên
tên người này, người kia, hoặc nói nhầm, nhưng đây là trường hợp người không có
bệnh, khoẻ mạnh, không mệt, tự nhiên nói nhịu, thì phải xét lại. Sự nói nhịu
hay xẩy ra và đáng chú ý nhất là nói điều trái ngược hẳn với cái mà mình muốn nói.
Thí dụ ông chủ tịch một hội nghị, trong bài diễn văn khai mạc, thay vì nói: "Tôi
tuyên bố khai mạc hội nghị" lại nói: "Tôi tuyên bố bế mạc hội
nghị". Điều này có nghiã gì ? Freud giải thích: Trong thâm tâm, ông chủ
tịch chẳng chờ đợi gì ở cái hội nghị này, ông muốn nó bế mạc trước khi khai mạc.
Cái thâm tâm đó chính là vô thức. Vô thức đã nói thay chủ thể ý thức, vì thế mà
ông chủ tịch nói nhịu. Điều này chứng tỏ, không những sự hiện diện của vô thức,
mà vô thức còn giữ vai trò chỉ đạo.
Freud cho rằng:
"Hơn một
nhà thơ đã dùng sự nói nhịu hay một sự làm lộn khác như phương tiện sáng tạo. Sự
kiện này, chỉ riêng nó, đã đủ để chứng tỏ rằng nhà thơ coi sự làm sái, như nói
nhịu, không phải là vô nghiã, nhất là đương sự lại cố tình làm việc này." (t. 25).
Câu này của Freud cũng
sẽ được Breton dùng trong lý thuyết siêu thực, lấy các sự nói nhịu, nói sái, là
hình thức sáng tạo từ vô thức. Và Lacan (1901-1981) phối hợp với cấu trúc luận
của Lévi-Strauss (1908-2009) để tạo lập thuyết: Vô thức phải được giải thích
như một ngôn ngữ (L'inconscient doit être interprété comme un langage). Tuy
nhiên ta cũng biết, Aristote đã từng khuyên nhà thơ phải bóp méo, phá vỡ, ngôn
ngữ nhàm chán hàng ngày, để thành lập ngôn ngữ thơ.
Giấc mơ
Quan trọng nhất
trong sách Phân tâm học nhập môn là những chương viết về giấc mơ.
Theo Freud, những
triệu chứng bệnh hoạn, của một số người bị bệnh thần kinh, đều mang một ý nghiã.
Khởi đầu việc chữa chạy là như thế. Trong khi trị liệu, người ta lại nhận thấy
bệnh nhân vin vào những giấc mơ như những triệu chứng, và như thế, những giấc mơ,
cũng mang một ý nghiã. Vì thế, giấc mơ trở thành đối tượng khảo sát của phân tâm
học (t. 69).
Nhưng nội dung những
giấc mơ lại rất ít khi được bệnh nhân mô tả tường tận. Chẳng hạn có người, đùng
đùng tuyên bố: "Tôi là hoàng đế nước Tầu", nhưng nội dung giấc
mơ ấy như thế nào thì không nói ra được. Và ngay khi bệnh nhân có nói cũng không
biết là đương sự nói thực hay bịa. Nhưng điều chắc chắn rằng từ xưa đến nay, từ
Đông sang Tây, con người đều mơ, cùng một cách như nhau (t. 69-71), nhưng, người
xưa coi mộng là một điềm báo trước tương lai, còn phân tâm học của Freud coi mộng
là biểu tượng một biến cố xẩy ra trong quá khứ, đó là cái khác nhau cơ bản.
Trước tiên, mơ là gì?
Trước khi trả lời câu hỏi này thì phải trả lời câu hỏi: ngủ là gì?
Freud viết: "Ngủ
là tình trạng trong đó người ngủ không muốn biết gì hết về mọi chuyên xẩy ra ở
bên ngoài và lợi ích của người ngủ là hoàn toàn tách rời khỏi cõi đời này"
(t. 74).
Một giấc ngủ không
mộng mị là giấc ngủ ngon, là giấc ngủ bào thai nằm trong bụng mẹ. Nếu có một hoạt
động tâm thần trong giấc ngủ là ta đã không loại bỏ hết được các sinh hoạt tâm
thần để đạt tới giấc ngủ bào thai. Giấc mơ chính là những hoạt động tâm
thần còn sót lại ấy. Và Freud định nghiã: "Giấc mơ diễn tả cách tâm hồn
phản ứng trong lúc ngủ, với các kích thích mà nó phải chịu" (t. 75).
Tính cách đầu tiên
tìm thấy về mơ: những gì hiện ra trong mơ là những hình ảnh, có khi đi kèm với chút
tình cảm, ý tưởng, cảm tưởng, nhưng bao giờ hình ảnh cũng là chủ yếu.
Vì vậy người mơ thường
không kể lại được, vì không thể "kể" được một chuỗi hình ảnh, tức là
những ảo giác. Có những giấc mơ rất ngắn, chỉ chứa một vài hình ảnh, một ý tưởng,
cũng có những giấc mơ dài như tiểu thuyết. Nhưng phần lớn là ta quên ngay khi tỉnh
dậy. Cũng có những giấc mơ sống lâu trong ký ức, như một số giấc mơ ở tuổi thơ.
Những giấc mơ thường vô nghiã, lộn xộn, vô lý, nhưng đôi khi cũng có những giấc
mơ có nghiã.
Freud phân biệt rõ
sự khác biệt giữa những giấc mơ ngủ và những giấc mơ tỉnh (rêves éveillés)
[tiếng Việt gọi là mơ mộng]. Theo ông, không có gì liên lạc giữa giấc
mơ ngủ với giấc mơ tỉnh, bởi vì mơ tỉnh là sự thực hiện những
ham muốn trong đầu và nó không có tính cách ảo giác. Freud viết:
"Đó là những
sản phẩm của tưởng tượng, những hiện tượng rất thông thường, thấy ở người lành mạnh
lẫn người bệnh, mà ai cũng có thể khảo sát dễ dàng ở chính mình. Điều phân biệt
đặc biệt nhất những sản phẩm tưởng tượng này là chúng được gọi bằng cái tên
"những giấc mơ tỉnh" và quả đúng là chúng không có gì giống hai tính
chất chung [ngủ và ảo giác] cho những giấc mơ đúng
nghĩa: như tên gọi, chúng không liên quan gì đến tình trạng ngủ, và chúng cũng
không chứa đựng những biến cố, ảo giác, mà chúng chỉ diễn tả: ta biết là ta tưởng
tượng, ta không nhìn thấy nhưng ta nghĩ [trong đầu]. Những mơ mộng này
thường bắt đầu ra ở trước tuổi vị thành niên, và chấm dứt lúc đứng tuổi, nhưng cũng
có thể kéo dài đến tận tuổi già (...) ở những người trẻ tuổi, là những mộng mơ
tham vọng ngự trị (...) những giấc mơ tỉnh rất đa dạng và chịu những đổi thay phận
số. Có nhiều khi bị loại hẳn và bị thay thế bằng những mơ mộng khác (...)
Chúng là chất
liệu sống của việc sản xuất thi ca, bởi vì, người viết tác phẩm tưởng tượng có
thể biến đổi, cải trang, giản lược những giấc mơ tỉnh này một cách nào đó, để
đem vào tiểu thuyết, truyện ngắn hay kịch bản của họ" (t. 84-85).
Vì giấc mơ [ngủ] luôn
luôn không có đầu đuôi nghiã lý gì cả, muốn hiểu thì phải biết cách giải mộng. Freud
xác định nếu muốn tìm hiểu và giải thích giấc mơ thì phải chấp nhận hai đề nghị:
- Giấc mơ là hiện tượng
tâm thần.
- Có thể có trong
con người những sự kiện tâm thần mà đương sự biết, nhưng lại không biết là mình
biết.
Freud kể: năm 1889,
ông được mục kích một thí nghiệm về thôi miên: bác sĩ thôi miên một người và
cho đương sự cảm thấy mọi thứ ảo giác, nhưng khi tỉnh dậy, đương sự bảo không
nhớ gì cả. Bác sĩ cố gặng hỏi, lúc đó bệnh nhân mới nhớ dần dần và sau nhớ hết.
Điều này chứng tỏ: có những sự kiện ta biết nhưng tưởng rằng không biết, tương
tự như trường hợp nói nhịu. Người ngủ tự nhiên, cắt đứt với tất cả mọi giây liên
lạc với đời sống bên ngoài còn người ngủ thôi miên, cũng là cắt đứt với đời sống
bên ngoài nhưng vẫn giữ liên lạc với một người duy nhất là người thôi miên mình
và chịu sự điều khiển của người này, nhưng tình trạng tâm thần của hai cái ngủ
này giống nhau (t. 87, 89, 90).
Cái vùng mà người bệnh tưởng là không biết, thực
ra là có biết, mà bị giấu, che đi, không đạt được, tưởng là không thực, chính là
vô thức, và Freud đưa ra định nghiã: "Giấc mơ trọn vẹn là sự
thay thế một biến cố vô thức bằng một biến cố đã biến dạng. Giải mộng tức là khám
phá ra vô thức này" (t. 99). Vì vậy việc đoán mộng đòi hỏi ba nguyên tắc:
1- Không cần biết ý
nghiã của giấc mơ nói gì.
2- Chỉ cần đánh thức
những yếu tố đã bị thay thế, biến dạng.
3- Chờ đợi những yếu
tố này, bị giấu trong vô thức, tự sống lại.
Nói tóm lại là làm
sao cho vô thức trở thành ý thức (t. 100).
Và Freud xác định: "Tất
cả những ý tưởng bị dồn nén luôn luôn tự tiết lộ là những ý tưởng quan trọng
nhất và quyết định nhất trong sự khám phá vô thức" (t. 101).
Nhưng muốn đoán mộng,
còn phải giải quyết một vấn đề nữa: tìm hiểu tại sao trong giấc mơ, các biến cố
lại bị biến dạng. Và sự điều tra dẫn tới một yếu tố quan trọng khác: kiểm duyệt.
Kiểm duyệt
Trong chương 9, tựa
đề Sự kiểm duyệt giấc mơ (La censure du rêve), Freud định nghiã lại giấc
mơ một lần nữa: "Giấc mơ là một phương tiện để loại trừ những kích
thích phá quấy giấc ngủ, sự loại trừ này thực hiện qua cách thoả mãn bằng ảo giác"
(t. 121).
Trừ những giấc mơ
trẻ con, khá rõ ràng, phản ảnh những ước muốn ban ngày không được thực hiện, còn
những giấc mơ khác thường khó hiểu, hoặc lỗ mỗ, chứng tỏ chúng đã bị kiểm duyệt,
vậy cơ cấu kiểm duyệt này như thế nào? Freud cho rằng nó không hoàn toàn giống
như việc nhà báo bị kiểm duyệt, mà giấc mơ bị chuyển trọng tâm, bị biến dạng và
sự kiểm duyệt này nhận được sự đồng ý của kẻ bị kiểm duyệt. Nói khác đi, tất cả
những điều cấm kỵ, người mơ, trong lúc tỉnh, hoàn toàn đồng ý cấm: ví dụ những
ham muốn loạn luân, giết người, hay thoả mãn các bản năng khác. Như lời Platon:
những người tốt là những người thoả mãn trong mơ, còn những kẻ xấu, làm thật. "Uỷ
ban kiểm duyệt" không chỉ đẩy lùi những bản năng xấu xa vào trong vô thức
mà còn làm biến dạng những phần tử xấu này đến không thể nhận diện được nữa mới
cho trình làng trong giấc mơ.
Freud viết: "Sự
bóp méo giấc mơ là hậu quả của sự kiểm duyệt mà những xu hướng thừa nhận của cái tôi dùng để chống lại những xu hướng ham muốn
tội lỗi, nổi lên ban đêm trong chúng ta trong giấc ngủ. Nhưng tại sao chúng lại
nổi lên ban đêm và chúng đến từ đâu thì chưa biết, câu hỏi còn bỏ ngỏ, đợi
những tìm kiếm mới" và "Những ham muốn này đến quấy nhiễu giấc
ngủ của ta mà ta không biết. Ta chỉ biết chúng sau khi đã giải mộng".
Freud lại nhấn mạnh
một lần nữa: Điều đó chứng tỏ sự hiện diện quan trọng của vô thức, bởi vì
có những tiến trình, những xu hướng xẩy ra trong tâm thần chúng ta mà ta không
biết gì cả, từ lâu rồi và có lẽ không bao giờ ta biết được: vô thức, như vậy, là
hiện tượng thường trực, liên tục, không phải chỉ chốc lát và ngầm (t. 125-132).
Giải mộng bằng
những biểu tượng trong mơ
Trong chương 10, tựa
đề Hệ thống biểu tượng trong mơ (Le symbolisme dans le rêve), Freud mới
thực sự đưa ra những chìa khoá để giải mộng. Freud công nhận chương này vô cùng
quan trọng trong lý thuyết về mơ của ông. Ông trình bầy một bản liệt kê những
biểu tượng xuất hiện trong mơ và ông giải mã từng biểu tượng một. Giới hạn của
bài viết này không thể điểm đầy đủ những biểu tượng được trình bầy, đó là những
chìa khoá mở cửa cho ta đoán một số giấc mơ, giúp ta có thể phân tâm những giấc
mơ của chính ta. Chúng tôi xin trích dịch một số đoạn:
"Những đồ
vật là biểu tượng trong mơ không nhiều. Thân thể con người, trong toàn bộ của
nó, cha mẹ, con cái, anh chị em, sự sinh, sự chết, sự khoả thân- và vài yếu tố
nữa. Chính cái nhà là biểu hiệu điển hình duy nhất, tức là chính xác nhất, của
toàn bộ nhân thân con người (...) Ta hay thấy mình trong mơ, lướt mình dọc theo
mặt tiền của những căn nhà và cảm thấy trong cuộc hạ cánh này một cảm giác khi
thú vị khi lo sợ; những căn nhà có tường nhẵn là những người đàn ông, còn những
nhà có những chỗ lồi và ban-công để có thể bám vào, là những người đàn bà. Cha
mẹ có biểu tượng là hoàng đế và nữ hoàng, hay vua và hoàng hậu, hoặc những nhân
vật siêu quần khác: chính vì thế mà những giấc mơ trong có cha mẹ biến hoá
trong không khí hiếu thảo. Ít êm dịu hơn là những giấc mơ trong có con cái, anh
chị em, thường được biểu hiệu bằng những con vật nhỏ, chấy rận. Sự sinh đẻ bao
giờ cũng được biểu hiệu bằng một hành động có nước là chính: ta mơ thấy hoặc ta
nhảy xuống nước, hoặc ta ra khỏi nước, hoặc ta lôi một người ra khỏi nước, hay
ta được kẻ ấy kéo ra khỏi nước, nói khác đi, giữa kẻ ấy và người mơ có quan hệ
mẹ con. Cái chết sắp đến được biểu hiện trong mơ bằng cuộc khởi hành, hay cuộc
đi du lịch bằng xe lửa. Cái chết được thực hiện bởi một số điềm đen tối, ghê
rợn. Sự khoả thân được biểu hiện bằng y phục và đồng phục. Và có thể nói, chúng ta ở giữa hai lối trình bày: biểu hiệu và ám
chỉ.
Ra khỏi sự kê
khai hầu như gầy guộc trên đây, chúng tôi đề cập đến một phạm vi mà sự vật và
nội dung được trình bầy bằng những biểu tượng phong phú và da dạng lạ thường. Đó
là phạm vi tính dục, với những bộ phận sinh dục, những quan hệ tính dục, những
sự giao cấu. Phần lớn những biểu tượng của giấc mơ đều là những biểu tượng tính
dục" (t. 137-138).
"Để chỉ cơ
quan sinh dục của đàn ông nói chung, con số 3 linh thiêng là một biểu tượng quan
trọng. Phần chính của bộ phận sinh dục đàn ông, quan trọng với cả hai phái, là dương
vật, trước tiên, được thay thế bằng những biểu tượng qua những vật có hình thức
giống nó, như: cái can [canne, gậy chống để đi], cái
ô, thân cây, cây, vv... ; rồi đến các vật giống nó ở chỗ có thể xuyên sâu vào
cơ thể và gây thương tích như: khí giới nhọn đủ loại như dao, dao găm, lưỡi
(dao, kiếm), gươm, hay các loại súng như súng trường, súng lục (pistolets), đặc
biệt nhất là loại khí giới có hình dạng giống dương vật, tức là súng lục có tay
quay (révolver). Những ác mộng của thiếu nữ bị một người đàn ông cầm dao găm hay
cầm súng đuổi, giữ một vai trò quan trọng. Và đó là trường hợp thường xẩy ra
nhất trong biểu tượng giấc mơ, việc đoán mộng này rất dễ dàng" (t. 138).
"Bộ phân
sinh dục đàn bà được biểu tượng hoá bằng tất cả những vật có đặc tính là bên
ngoài có lỗ để cho một vật có thể trú vào: mỏ, hầm hố, hang hốc, bình, chai, hộp
đủ loại, rương hòm, thùng, túi, vv... " (t. 141).
"Việc rụng răng,
nhổ răng chắc chắn biểu hiệu sự bị thiến, để trừng phạt những hình thức giao
cấu đồi trụy, trái với luật thiên nhiên." (t. 142).
"Phong cảnh
biểu hiệu bộ phận sinh dục đàn bà và núi, đá, biểu hiệu bộ phận đàn ông";
"ngọn lửa chỉ bộ phận sinh dục đàn ông và lò lửa là bộ phận phụ nữ";
"phòng (ngủ) chỉ người đàn bà"; "chữ
trèo trong tiếng Đức được dùng trong nghiã tính dục (tiếng Việt cũng vậy:
Trèo lên cây bưởi hái hoa)"; "ngắt một cành cũng có nghiã tính dục"
(t. 143-144).
Freud trả lời câu hỏi:
làm sao biết được cái gì là biểu tượng của cái gì, vì người mơ không nói rõ, như
sau:
"Sự hiểu
biết này chúng tôi rút ra từ những nguồn khác nhau, trong truyện cổ tích,
truyện thần thoại, truyện tiếu lâm, trò hề, hay folklore nghĩa là sự nghiên cứu
những phong tục địa phương, lề thói, cách ngôn và dân ca của những dân tộc,
ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ chung. Chúng tôi thấy ở khắp nơi đều có cùng biểu
tượng, hiểu ngay được không khó khăn gì. Khi khảo sát kỹ từng nguồn một, chúng
tôi lại khám phá ra một sự tương đồng như thế với những biểu tượng trong mơ,
khiến chúng tôi càng thêm tin tưởng" (t. 144).
Những giải thích này
có lẽ đã được Jung dùng khi xây dựng "vô thức tập thể", sẽ nói
đến sau.
Freud viết:
"Điạ hạt biểu
tượng vô cùng lớn lao mà biểu tượng trong mơ chỉ là một tỉnh nhỏ (...) Ta có
cảm tưởng đứng trước một cách diễn tả theo lối cổ, đã mất, trừ một vài mẩu còn
lại tung vãi trong những lãnh vực khác nhau, cái này ở đây, cái kia ở đó, cái
khác được giữ dưới hình thức thay đổi sơ sài, trong nhiều điạ hạt. Về vấn đề
này, tôi còn nhớ, lời kỳ cục của một chàng điên, hay ho, đã tưởng tượng có một
thứ "ngôn ngữ nền tảng" mà theo ý anh ta, tất cả các biểu tượng sống
sót đều ở đó." (t. 151)
Câu này, Freud nhắc
đến anh chàng điên khùng tưởng tượng ra một thứ "ngôn ngữ nền
tảng" chứa đựng những biểu tượng chung của nhân loại, phải chăng Freud
nói bóng đến Jung, môn đệ của ông, ly khai thày và đưa ra những archétypes
(khuôn mẫu đầu tiên hay nguyn mẫu) là nền tảng của "ngôn ngữ chung của nhân
loại" trong lập thuyết Tân phân tâm học?
Mặc cảm Œdipe
(Complexe d'Œdipe)
Đây là khái niệm
quan trọng cuối cùng trong phân tâm học của Freud mà chúng tôi sơ lược giới thiệu
cùng độc giả.
Khái niệm mặc
cảm Œdipe đi từ sự nhận xét trẻ con. Theo Freud, đứa bé, trong những
năm đầu của cuộc đời (từ nhỏ đến 5 hay 8 tuổi) mà sau này nó gần như quên hết, thường
tỏ ra rất ích kỷ, nó chỉ biết yêu nó (narcissisme) mà thôi. Sau này nó sẽ
học việc yêu người khác và hy sinh một phần cái tôi của nó cho người khác.
Đưá bé yêu người chung quanh (mẹ, vú) vì nó cần người đó, tức là tình yêu này phát
xuất từ sự ích kỷ: Sự ích kỷ dạy cho nó tình yêu. Đứa nhỏ không nhất thiết
yêu anh chị em nó, thậm chí nó ghét, vì đó là những đối tượng cạnh tranh, những
địch thủ, nó muốn cha mẹ chỉ yêu một mình nó mà thôi. Và thái độ này kéo dài
nhiều năm có khi tới tuổi vị thành niên hay sau đó mới bớt đi. Vì thế nó không
muốn con cò đem em nó lại (người Tây phương nói dối trẻ con, bảo con cigogne
đem em nó lại). Nhưng còn một đối tượng nữa mà nó cũng ghét: với con trai là
cha, vì cha "chiếm" mẹ nó và với con gái là mẹ, vì mẹ "chiếm"
cha nó. Hiện tượng này có tính cách tính dục. Ngay từ tuổi thơ, con trai đã có
những âu yếm khác thường với mẹ, coi mẹ là của riêng, còn con gái có lẽ ít lộ rõ
hơn, với cha (t. 184-191).
Freud đặt tên cho
những tình cảm này là mặc cảm Œdipe, và ông giải thích như sau:
"Bởi vì
huyền thoại trong có nhân vật chính là Œdipe, thực hiện và biểu hiện một sự
giảm nhẹ hai ham muốn tột bực, chảy rỉ ra từ tình thế của đứa con trai: ham
muốn giết cha và cưới mẹ. Tôi không xác định rằng mặc cảm Œdipe sói mòn tất cả
những gì liên quan đến thái độ thuận nghịch giữa cha mẹ và con cái, thái độ này
có lẽ còn phức tạp hơn nhiều" (t. 192).
Khám phá này bị chống
đối mạnh mẽ nhất, tuy nhiên, mặc cảm Œdipe là một khám phá quan trọng về đời sống
tâm thần của những đứa con trai, của phân tâm học nói riêng và y học nói chung.
Theo Freud, sự khám phá này hầu như bị y học bỏ rơi, nhưng mặc cảm Œdipe đã sống
mạnh trong thi ca, là đề tài của nhiều tác phẩm.
Freud viết: "Mặc
cảm Œdipe ràng buộc chặt chẽ với một mặc cảm khác, mà chúng tôi gọi mặc cảm bị
thiến là phản ứng chống lại sự ngăn cản hay giới hạn hoạt động sinh lý sớm trước
tuổi của đứa con trai, do người cha bắt buộc" (t. 193).
Tóm lại, theo
Freud, người ta đã lầm khi chối bỏ đời sống tính dục của trẻ con và tin rằng việc
này chỉ xẩy ra ở tuổi dậy thì, thực ra theo ông, trẻ con thuộc loại "đồi
trụy đa hình thức", ngay từ thủa bé đã có một đời sống tính dục rất
phong phú. "Ở những đứa trẻ bị bỏ mặc một mình hoặc chịu những ảnh hưởng
đồi phong bại tục, người ta thường thấy rất rõ sự biểu lộ những đồi trụy dâm
bôn" (t. 194).
Tóm lại, lý thuyết
phân tâm của Freud có thể tóm gọn như sau:
Khảo sát những người
bệnh thần kinh, Freud thấy rằng: những thúc đẩy tính dục (hay libido) không
được thoả mãn, là nguồn cội của các bệnh tâm thần: Libido không được phép
xuất hiện, bị dồn nén vào vô thức, ở đó, tìm cách trá hình để được
hiện diện lại trong các giấc mơ. Mục đích của phân tâm học là từ những hình
ảnh của giấc mơ do bệnh nhân kể, điều tra ngược trở lại, tìm nguồn cội của những
ẩn ức, để giải toả cho người bệnh.
Để kết thúc, chúng
tôi thấy có mấy điểm quan trọng cần nêu ra:
1- Theo định nghiã
của Freud, vô thức không có liên hệ gì tới sáng tạo văn chương,
chỉ là nơi chứa những ẩn ức bị dồn nén
2- Nhưng khi Freud
xác định: Vô thức chỉ huy tất cả. Thì hoặc là ông nói quá, hoặc là ông chỉ
muốn nói: vô thức quyết định việc trình diện lại những thúc đẩy tính dục bị dồn
nén sau khi đã trá hình, chứ không phải ý thức quyết định việc này.
3- Freud cho rằng
những thúc đẩy tính dục bị dồn nén, chỉ có thể trở lại, sau khi đã trá hình hay
đã bị siêu hoá (sublimation), tức là bị đổi hướng thành hoạt động xã hội
hay nghệ thuật. Điểm này có thể gây thắc mắc: Freud luôn luôn cho ta cái cảm tưởng
là những thúc đẩy bị dồn nén là những điều bị xã hội và luân lý cấm, như: loạn
luân, những cách giao cấu đồi truỵ, vv... Vậy ta có thể hiểu: những dữ kiện bị
giam trong vô thức là những điều xấu, không thể dùng được, tại sao chúng có thể
cải biến thành "văn chương, nghệ thuật".
Chính ở điểm tối này
mà người ta sẽ lợi dụng khái niệm vô thức của Freud, để sử dụng như "nguồn
cội của sáng tác" đặc biệt Breton và trường phái siêu thực.
4- Riêng Freud, một
mặt khác, ông lại xác định: Sinh hoạt văn chương nghệ thuật bắt nguồn từ những giấc
mơ tỉnh (rêves éveillés) tức là trạng thái mơ mộng, hay tưởng tượng,
điều này hoàn toàn phù hợp với tất cả các quan niệm về sáng tác của mọi thời.
Bốn nhận xét trên đây,
giúp chúng ta hiểu thêm một số vần đề văn học mà chúng tôi sẽ đề cập kỳ tới, chủ
yếu là:
- Sự lạm dụng và sự
chống đối học thuyết của Freud.
- Phê bình phân tâm
học.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
1 Freud, Ma vie et la
psychanalyse - Đời tôi và Phân tâm học, 1925.
2 Œdipe trong thần thoại Hy
lạp, là vua Thèbes và Jocaste, giết cha, lấy mẹ. Sau biết sự thực, tự chọc mù mắt, bị đuổi
khỏiThèbes, lang thang do con gái Antigone dẫn đường và chết ở Colone, gần
Athènes. Freud cảm hứng từ thần thoại này, xây dựng nên mặc cảm Œdipe trong
phân tâm học.
3
Ernest Jones, người viết tiểu sử Freud.
4 Didier Anzieu, Table d'hôte
(Bàn khách), bài tựa cuốn Sur le rêve (Về giấc mơ) 1901, do Cornéus Heim
dịch sang tiếng Pháp, Gallimard, Paris ,
1988, Folio, 1993, t. 9-11.
5 Métapsychologie, Luân
Đôn, 1943, Gallimard, Paris, 1968.
6 Theo Michel Gribinski trong bài tựa
sách Trois Essais sur la théorie sexuelle do Philippe Koeppel dịch sang
tiếng Pháp, Gallimard, Paris, 1987, Folio Essais, 1992, t. 9.
7 Trois essais sur la
théorie sexuelle, Folio Essais tái bản, 1992, t. 76-82.
8
Trois essais sur la théorie sexuelle, Folio Essais tái bản, 1992, t.
93-140.
9 Trois essais sur la théorie sexuelle, Folio Essais tái bản,
1992, t. 37.
10 Trois essais sur la
théorie sexuelle, t. 157-158.
11
Métapsychologie (Siêu tâm lý học) 1915, ban dịch do Jean Laplanche và
J.B Pontalis điều khiển với J. P. Briand, JP Grossein, Michel Tort, Gallimard,
1968, Folio tái bản, 1993.
12 Métapsychologie
(Siêu tâm lý học), Folio, 1993, t. 9.
13
Métapsychologie, t. 24.
14 Narcissisme, là sự tự yêu mình, rút từ tên Narcisse,
thanh niên rất đẹp trong thần thoại Hy lạp, say mê bóng mình dưới nước, chết vì
không nắm được bóng này. Chỗ anh chết, nẩy lên một loại hoa được gọi tên là narcisse.
15 Métapsychologie, t. 12-25
và 36.
16 Métapsychologie, t. 45.
17
Métapsychologie, t. 45-55.
18 Bản dịch Pháp văn: "La psychanalyse nous a
appris que l'essence du processus de refoulement ne consiste pas à supprimer, à
anéantir une représentation représentant la pulsion, mais à l'empêcher de
devenir consciente. Nous disons alors qu'elle se trouve dans l'état
"inconscient" et nous pouvons fournir des preuves solides de ce que,
tout étant inconsciente, elle peut produire des effets, dont certains même
atteignent finalement la conscience. Tout refoulé demeure nécessairement
inconscient, mais nous tenons à poser d'entrée que le refoulé ne recouvre pas
tout l'inconscient. L'inconscient a une extension plus large; le refoulé est
une partie de l'inconscient.
Comment
parvenir à la connaissance de l'inconscient? Naturellement, nous ne le
connaissons que comme conscient, une fois qu'il a subi une transposition ou
traduction en conscient. Le travail psychanalytique nous permet de faire chaque
jour l'expérience de la possibilité d'une telle traduction" (Métapsychologie, t. 65).
19
Métapsychologie, t. 66-67-70.
20 Métapsychologie, t. 74,
75, 76.
21 Métapsychologie, t.
89-93.
22
Theo Le moi et ça, 1923, do S. Jankélévitch dịch sang tiếng Pháp.
23 Introduction à la
psychanalyse (Phân tâm học nhập môn) do S. Jankélévitch dịch sang tiếng
Pháp, Payot 1922, tái bản 1961 và 1998.
24 Introduction à la Psychanalyse, Phân
tâm học nhập môn, Payot, 1998, t. 7.
25 Introduction à la
Psychanalyse, t. 8, t. 9.
26
Introduction à la Psychanalyse, t. 12.
27
Introduction à la Psychanalyse, t. 12, 13.