Thứ Ba, 24 tháng 5, 2016
Phạm Kỳ Đăng - Kỳ vọng và nghi ngại
Theo một định kiến hay thói quen, nhiều người nói chính sách của nhà nước Mỹ thực dụng, với một hàm ý xấu. Phải nói là thực tiễn mới đúng. Đúng nghĩa thực dụng trước hết phải kể đến hai nhà nước lớn chuyên chế - phản dân chủ là Nga và Trung quốc thời nay. Ở những cao trào khủng hoảng, hai nước này sửa đổi cả học thuyết tôn làm quốc giáo và xoành xoạch thay đổi luôn cả bạn thù, đồng minh, đối tác. Hãy xem quan điểm nước Nga độc tài thời Putin hôm nay đối với cuộc lấn chiếm Biển Đông của Trung Quốc và cung cách giải quyết xung đột thì rõ.
Có nhà nước
nào không vì lợi ích dân tộc? Nhưng chỉ biết hành động thực dụng ư thì không
đúng đối với cường quốc Hoa Kỳ. Hoa Kỳ lập quan hệ với nhiều nhà nước độc tài,
có thể từng làm đồng minh ngắn hạn, chưa bao giờ xét về dài hạn Hoa Kỳ đặt tầm
quan trọng vào các đồng minh chuyên chế - phi dân chủ. Đó cũng là nguyên nhân
Hoa Kỳ phát động chiến tranh lạnh đối với cựu đồng minh Liên bang Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Xô Viết lập tức thôn tính Đông Âu, ngay sau kết thúc chiến tranh thế
giới hai. Và cuối thế kỷ trước, có thể nói nước Mỹ, trên phạm vi toàn cầu đã giải
phóng nhân loại khỏi hai quái vật toàn trị tham vọng nô lệ toàn thế giới. Đó là
chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản.
Mỹ
còn thiết lập nên các nhà nước đồng minh nữa, tuy nhiên không áp đặt dập khuôn
thể chế của họ vào các quốc gia này. Hiến pháp Mỹ với nhiều tu chính, mô hình tổ
chức nhà nước và xã hội của Mỹ khác các nước Anh, Pháp và các nước châu Âu,
v.v. Hai nhà nước dân chủ do Mỹ đỡ đầu bằng những cú hích ra điều kiện như Đức
và Nhật, về cơ bản được kiến lập và hoàn thiện theo ý chí người dân nước họ.
Đương nhiên, các nước này chia sẻ lâu dài với Mỹ những giá trị cơ bản, mà ta thấy
trong số đó các giá trị làm nên nội dung nhân quyền.
Sai lầm của
chính quyền Mỹ cũng nhiều không kể. Điều đặc sắc là bất kỳ một người dân nào ở
đất nước đó cũng có quyền chỉ trích tổng thống và chính phủ trong từng biến diễn
thời sự. Do đó suy tư và hành động của Mỹ trong truyền thống đều sát thực tiễn,
tức là xuất phát từ những thôi thúc của thực tiễn hướng tới khắc phục và cải
thiện hiện trạng.
Trong nỗ lực
chống khủng bố, tương lai không loại trừ cả khủng bố bằng vũ khí hạt nhân và vũ
khí hóa học; chống bá quyền và bành trướng nhằm đảm bảo một nền an ninh và tự
do hàng hải toàn cầu, có nhà nước nào đôn đáo ngược xuôi như nước Mỹ. Nghiêm
túc đối chiếu với các cường quốc khác có thể nhận ra rằng, nhà nước Mỹ hành động
thực tiễn chính là cường quốc lãng mạn lớn nhất hiện nay. Lãng mạn bởi vì theo
đuổi mục tiêu thiêng liêng như lý tưởng.
Năm ngoái,
sau cuộc hội kiến giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Obama tại
Nhà trắng, Tuyên bố chung giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ - Việt khẳng định Mỹ tôn trọng
thể chế, chế độ chính trị của Việt Nam
Chính phủ Việt
Nam đã có một sự tự đắc quá thái kiểu như “Mình phải là cái gì thì người ta mới
mời chứ”. Yên chí và tự đắc phát sinh tâm lý trông chờ và kỳ vọng. Một ngày trước
cuộc viếng thăm của Tổng thống Obama, báo chí và truyền thông nhà nước phát đi
bài phỏng vấn “Người dân Việt Nam chờ đợi gì ở hành động của Tổng thống Mỹ”.
Thật đáng ngạc nhiên vì các nhà phân tích nói đến cơ hội triển vọng hợp tác và
nhiều kỳ vọng. Những trông chờ này là có thật, hiển nhiên được ấp ủ bởi một
nhóm quyền lực yên chí và tự đắc, tuy nhiên xét cho cùng rất nhỏ bé so với ước
vọng của người dân Việt Nam. Cảm giác chưng hửng còn lại, không một ai đề cập tới
vấn đề cốt lõi bao hàm việc cải cách và xây dựng thể chế để tận dụng cơ hội xúc
tiến các quá trình hợp tác đó.
Cho đến hôm
nay Việt Nam, với chính sách chú trọng quan hệ đối ngoại đa phương, không liên
minh với một nước nào chống một nước thứ ba, trên trường quốc tế vẫn là quốc
gia tự cô lập, càng bị ghẻ lạnh hơn bởi những thành tích bất hảo về nhân quyền
và tự do ngôn luận. Không cải cách cơ bản về thể chế, Việt Nam vẫn đứng đó trên
Biển Đông một xuồng một mái, đôi khi được sự ủng hộ bằng lời nói của các nước
ASEAN, và bi đát thay, tồn tại được nhờ sự hà hơi của chính nhà nước ăn cướp
Trung Hoa.
Chia sẻ những
giá trị chung trong quan hệ nhà nước mới chỉ là những thỏa thuận về nguyên tắc,
thích ứng thiết chế mới đảm bảo được phối tác trong thực tiễn. Làm sao Mỹ có thể
ngồi chung một con tàu với Việt Nam nếu người lãnh đạo luôn “định hướng” về
phương Bắc. Làm sao Mỹ có thể bán vũ khí sát thương cho Việt Nam ngay, nếu
không có bảo đảm nào tránh trường hợp ngay ngày hôm sau vũ khí này bày ra trên
bàn các nhà chế tạo vũ khí Trung Quốc và bản hướng dẫn sử dụng và sơ đồ bố trí
tác chiến lọt vào tay các ông chủ Trung Nam Hải?
Và làm thế
nào để thực hiện hiệp định TPP nếu Việt Nam như từ trước tới nay vẫn hoạt động
tự tung tự tác so với đạo luật, thông lệ và chuẩn mực quốc tế? Đầu tư và trao đổi
theo kiểu nào, nếu vẫn không có sự thay đổi về cơ bản ở các chế độ và hình thức
sở hữu tập thể, vẫn lấy kinh tế nhà nước làm thành phần chủ đạo để nhóm lợi ích
không nương tay tham nhũng? Người ta cần Việt Nam có những cơ quan, thiết chế
tương ứng để điều phối và giám sát cũng như chịu trách nhiệm. Làm sao có thể cộng
tác được với những người nắm quyền lực từ cái tập thể rất nhiều quyền lực,
nhưng không có sự cố vấn chuyên môn và quan trọng hơn không chịu trách nhiệm?
Hậu quả chiến
tranh với những phế nhân và nạn nhân chất độc da cam, môi trường nhiễm độc
dioxin, như một người trả lời phỏng vấn nêu, cũng chỉ cấp bách bằng sự tàn phá
môi trường hàng ngày hàng giờ của Formosa, Bauxite Tây Nguyên, v.v. chưa là gì
so với sự đầu độc giống nòi trường kỳ xúc tiến bởi bàn tay Trung Quốc.
“Sự nghi kỵ của
chúng ta vẫn còn đối với nước Mỹ”, bà Nguyễn Thu Thảo - Trưởng đại diện Quỹ Cựu
chiến binh Mỹ tại Việt Nam thừa nhận. Chúng ta ở đây là ai? Nước Mỹ đáng ra còn
có nhiều nguyên do để nghi ngại nhiều hơn đất nước cựu thù không vì lợi ích của
cái “chúng ta” ấy, đất nước vô chính chủ, được cai trị và điều hành bởi một
nhóm gần 20 người, soạn ra hiến pháp và đứng đầu một đảng hoạt động trên hiến
pháp.
Việt Nam đã bỏ
qua cơ hội sửa đổi về căn bản Hiến pháp năm 2013 nhằm kịp thời chuyển đổi sang
mô hình nhà nước dân chủ - pháp trị, dân sự và đa đảng. Việt Nam đã thả nhỏ giọt
tù nhân lương tâm, đồng thời không ngừng bắt bớ và gia tăng sách nhiễu những
nhà bất đồng chính kiến, những nhà đấu tranh dân chủ. Việt Nam đã làm gì trong
vụ Philippines kiện Trung Quốc, đã có những cử chỉ gì đứng hẳn về phía Mỹ trong
những cuộc tập trận và hoạt động tuần tra thường kỳ do Mỹ tiến hành trên Biển
Đông?
Như vậy Tổng
thống Obama, có cơ sở nghi kỵ nhiều hơn, cũng có quyền chờ đợi ở Việt Nam; và sự
chờ đợi chính đáng này cũng không chỉ đặt vào chính quyền, mà còn hướng đến mỗi
người dân Việt Nam trước bạo quyền còn dửng dưng hay sợ hãi.
Tổng thống
Obama sẽ mang đến nhiều món quà, rất quí giá, nhưng rất có cơ nhanh chóng tiêu
tán bởi những đứa con hoang đàng, phá gia chi tử. Nước Mỹ đáng dành cho nhân
dân Việt Nam một lộ trình lớn lao hơn hẳn, với những phương tiện để gắng công
ra sức đi tới thịnh vượng, trong chừng mực Việt Nam ngày càng xa khỏi cái đích
nó đang trôi giạt tới, tức là thành một thuộc địa của Trung Quốc, một nhà nước
thiếu tính chính đáng với một Quốc hội thực chất không do dân bầu nên.
Sẽ thêm ngộ
nhận ấu trĩ, nếu nói rằng các thế hệ trước ở Việt Nam đã đặt ra nền móng. Chắc
chắn nhà nước Hợp Chúng Quốc không có nhu cầu lập quan hệ đối tác chiến lược và
ký hiệp ước liên minh quân sự với những nhà nước không chia sẻ mục đích và lý
tưởng của họ.
Hai nhiệm kỳ ở
Nhà trắng không bỏ rơi Việt Nam đã là một hành trình kiên nhẫn. Có quá nhiều cơ
hội bị bỏ lỡ đã có thể tác động về mặt nền tảng tốt đẹp hơn lên bang giao hai
nước.
Cho nên chuyến
thăm viếng cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Obama tựu trung lại chỉ là một sự đáp lễ
khiêm nhượng cho những nỗ lực cầu cứu và đeo bám của Hà Nội sau một chuỗi thất
vọng trường kỳ gây ra cho Mỹ và thế giới văn minh - dân chủ, nhiều hơn chút xíu
là nỗ lực duy trì một cửa lách rất hẹp đi tiếp cho các đời tổng thống tiếp
theo.
P. K. Đ.Tác giả gửi BVN.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét