Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016
Hà Kỳ Lam - Chiếc Bàn Học
Cháu xin tặng
chú Hoàng
Tôi ngồi đối diện chú tôi qua chiếc bàn hình chữ nhật. Mặt bàn ánh lên một màu đen của gỗ lâu năm. Chúng tôi nhìn nhau. Cả hai đều khó tin còn có ngày gặp lại nhau như hôm nay. Ngót ba mươi năm rồi còn gì.
Chú
tôi vẫn gầy như thuở nào, từ hồi còn là một thanh niên, đến khi thành một người
đứng tuổi, và bây giờ là một người già nua. Không biết trong ba mươi năm tôi xa
vắng có khoảng thời gian nào chú mập mạp lên không, chứ tôi vẫn tin chú đã chẳng
bao giờ “phát tướng” như nhiều người khi bắt đầu qua khỏi thời kỳ thanh niên. Có
điều lạ là tôi không thấy cái tuổi bảy mươi trên gương mặt chú; chú không có vẻ
một ông già bảy mươi. Những người có da có thịt khi về già gầy đi dễ có nhiều nếp
nhăn trên mặt; chú tôi không như thế. Nhưng chú cũng không thể xui người ta nghĩ
mình chỉ chừng sáu mươi. Với tôi, chú là người lớn không có tuổi. Có lẽ tại tôi
đang nhìn chú bằng ký ức. Từ lúc nào không biết, khi tôi bắt đầu biết chú trong
căn nhà của ông bà nội tôi thì chú đã là “người lớn” đối với cậu bé con là tôi.
Chú là thần tượng của tôi ngày nhỏ. Dong dõng cao, ngực nở nang, bụng thon thon
mỗi khi chú ở trần, mái tóc biếng chải rẽ ngôi bên trái, với mấy sợi tóc xoã xuống
một phần vừng trán không cao lắm đã là hình ảnh một người trẻ trung mà tôi ao ước
khi lớn lên mình cũng sẽ được như thế.
Tôi
nghiệm ra rằng gương mặt người thân thường không già, và chỉ có ý niệm về thời
gian cho ta biết họ già.
Cháu
cũng già đi nhiều.
Tôi
chỉ cười. Chú nói tiếp, với nụ cười nửa miệng:
Mới
đó mới đây mà chú cháu mình đều đã già cả.
“Mới
đó mới đây”, vâng, đúng thế. Chú đang đo thời gian đấy. Gương mặt người thân
thường không già, chỉ có ý niệm về thời gian cho ta biết họ già. Chắc chú không
thấy cháu già, chú vẫn thấy cháu như thằng bé con ngày xưa, phải không chú? Tôi
nói một câu thừa thãi:
Thời
gian trôi qua nhanh quá.
Không
biết chú tôi có nghe câu nói của tôi không. Chú chợt hỏi:
Cháu
còn nhớ chiếc bàn nầy không?
Tôi
hoàn toàn bất ngờ, chỉ lắc đầu:
Chịu,
không nhớ.
Thật
không nhớ à? Cách nay năm mươi năm cháu ngồi bên chiếc bàn nầy học những mẫu tự
a, b, c, …lần đầu tiên trong đời.
Tôi
kinh ngạc, nhìn kỹ mặt bàn, nhìn bốn cạnh bàn, nhìn chân bàn,
và
tôi nhớ lại… Đúng rồi, chiếc bàn học rộng mênh mông của ngày xa xưa ấy! Năm mươi
năm trong một đời người quả không phải là ngắn. Tôi năm nay đã năm mươi bảy tuổi.
Tôi đã ngồi bên chiếc bàn nầy để làm quen với hai mươi bốn mẫu tự Việt Ngữ lần
đầu tiên, lúc lên bảy tuổi. Chiếc bàn hồi đó cao quá, đến cằm tôi, và tập vở học
trò thì toàn giấy trắng, chỉ có trang đầu chứa những chữ cái lớn do chú tôi “vẽ”
ngay hàng thẳng lối cho tôi tập nhận diện chúng. Và bây giờ, ngót năm mươi năm
sau cái ngày xa lắc xa lơ ấy, tôi lại ngồi bên chiếc bàn của ngày xưa, với người
thầy học đầu tiên trong đời ấy. Tôi trở về một khởi điểm. Chắc chú tôi cũng đang
trở về một khởi điểm nào đó của chú. Trong một đời người ai cũng có nhiều khởi điểm.
Và không phải ai cũng có dịp trở về những khởi điểm đó. Tôi trở về một khởi điểm
không ngờ, cái khởi điểm của “cơm cha áo mẹ chữ thầy”!
Bỗng
dưng chiếc bàn học ngày xưa, được gợi lại một cách tình cờ, lại chia trí tôi. Có
một cái gì, như một niềm riêng, một mớ ý nghĩ hỗn độn, hay một chạnh lòng, làm
chùng xuống trong tôi một tình cảm nao nao. Tôi vẫn nói chuyện với chú tôi, vẫn
không quên những thăm hỏi của một người đi xa đã lâu, nhưng ý nghĩ về chiếc bàn
học thời thơ ấu vẫn không rời tôi. Chú tôi dường như quên ngay chiếc bàn kỷ niệm
chú vừa nhắc, và dẫn dắt những chuyện trò của chúng tôi đi miên man trong hiện
tại, thỉnh thoảng mới quay lại quá khứ trong chốc lát, ở những đoạn có liên
quan tới câu chuyện đang đề cập. Chú không có khuynh hướng kể nhiều về chuyện xưa
như phần đông người già. Tôi bỗng khám phá ra rằng cái đặc điểm đó làm cho đối
thoại giữa chú với người khác thế hệ dễ dàng và hứng thú. Đành rằng một kẻ đi
xa nhiều năm quay về như tôi luôn luôn mang một mong mỏi tìm lại những xúc cảm êm
đềm của cảnh cũ người xưa, nhưng nếu suốt buổi gặp nhau tôi phải sống với những
bóng hình xưa cũ, với những sự việc đã theo tháng ngày trôi xuôi như nước dưới
chân cầu, và không còn dính dáng tới thực tại đang diễn ra chung quanh, chắc tôi
phải lúng túng đối diện với một người đã tách lìa với hiện tại, một người chỉ
thuộc về quá khứ. Cái hố sâu ngăn cách giữa trẻ con và người lớn - giữa tôi và
chú tôi - bỗng dưng bây giờ như đã bị lấp
gần đầy. Chắc chú tôi cũng thấy thế. Cái khoảng cách mười ba năm giữa hai con
người, năm mươi bảy tuổi và bảy mươi tuổi, không còn là khoảng cách diệu vợi giữa
một cậu bé lên bảy và một trang thanh niên hai mươi. Dường như càng ngày chúng
tôi càng gần đồng qui. Một người bạn cũ, được đào tạo trong ngành sư phạm, có lần
đã nói với tôi rằng mỗi con người từ lúc bé cho đến mười lăm tuổi đã học hết phân
nửa những hiểu biết của một con người trưởng thành. Tôi bỗng thấy gần gũi với điều
mà khoa tâm lý sư phạm kia nói, cái tỷ lệ nghịch giữa khả năng hấp thụ và tuổi
tác giải thích tại sao tôi thấy cái hố phân cách giữa chú tôi và tôi càng ngày
càng mất dần.
Tôi
lại nhìn chiếc bàn học - một cử chỉ tượng trưng – và cảm thấy một cái mốc thời
gian. Những bóng hình của người thân yêu bây giờ không còn nữa lướt nhanh qua
trí tôi, những hình bóng lúc mờ nhạt, lúc đậm nét. Rồi hình ảnh mẹ tôi, kèm
theo những kỳ vọng của Người được khơi dậy. Tôi không giữ một ký ức nào rõ ràng
về cha tôi, bởi lẽ ông mất lúc tôi còn bé quá. Vâng, những kỳ vọng của một người
mẹ về con mình! Tôi đã học được những gì kể từ cái giây phút đầu tiên làm một cậu
bé con ngửi mùi giấy mới, thấy những nét lạ lùng sổ ngang dọc, những hình vòng
tròn, những dấu móc, những đường cong uốn éo hở hay khép kín: những biểu thị của
chữ nghĩa, của học hành. Tôi đã học được những gì từ điểm khởi hành đó? Tôi đã
là một con chim non rời bỏ cái tổ học hành khi mới vừa đủ lông cánh để bay những
khoảng cách ngắn. Tôi đã bay ra khỏi ngôi trường làng, ra khỏi lũy tre làng, đã
đậu tạm ở một tỉnh lỵ nhỏ, tôi đã bay đến những phố phường rộn rịp rất xa làng quê
của mình. Tôi đã cố gắng cắm thêm cho mình những chiếc lông vũ của học hành, những
mong sẽ trở thành đại bàng để bay cao, cao vút từng mây… Tôi đã không thành đại
bàng, vì tôi không đủ lông vũ để làm loài đại bàng. Bây giờ nhìn lại chiếc bàn
học ngày xưa, nhìn lại những gì tôi đã được, đã thua trên chiến trận của cuộc đời,
tôi thấy dửng dưng với “giấc mộng đại bàng” không thành. Tôi làm được hay không
làm được đại bàng không còn quan trọng nữa, và có quan trọng chăng là ở ngày xưa,
ở kỳ vọng của bao người thân. Bây giờ tôi thấy làm loài chim nào thì vẫn không
thoát khỏi những cay đắng của “hơn thua” trong cuộc đời nầy.
Chú
tôi hỏi về những năm tháng phiêu bạt nơi xứ người. Tôi vấn an chú và gia đình về
thời gian dài đằng đẵng tôi xa quê. Chúng tôi nói về những khung trời kỷ niệm
chung. Chúng tôi nói chuyện xưa và chuyện nay. Chúng tôi nói về những vui buồn,
những thăng trầm trong cuộc sống của nhau. Bỗng nhiên trong hai chúng tôi, chính
tôi là người bộc lộ ít nhiều cay đắng về cuộc đời đã nếm trải. Chú tôi thì không
thế. Nếu thảng hoặc chú có nói đến những tấn tuồng của cuộc đời mà mình đã hứng
chịu thì thái độ vẫn bình thản như nói về một phần không thể thiếu trong đời sống.
Có phải cay cú với cuộc đời là dấu hiệu chưa trưởng thành, có phải người già từng
trải nhiều mới đạt tới thái độ bình chân như vại trước mọi màn lớp của cuộc đời?
Tôi không sao giải đáp được. Nhưng tôi bỗng chú ý tới lời của chú:
Cái
rối rắm, cái phiền toái của đời sống là tương quan giữa con người với con người.
Hồi trẻ chú cũng bất mãn với cái mà ta gọi là tình đời, thói đời, vân vân, nhưng
rồi chú tìm ra một thái độ cho mình là cứ bình tâm. Và thái độ đó giúp chú sống
thoải mái hơn trước nhiều. Ta không buông xuôi, nhưng hãy xem dối trá, lừa lọc,
phản bội, vân vân, như là một phần của cái luật bù trừ rộng lớn của Trời Đất.
Những ai phải sử dụng tới những vũ khí đó là vì Trời Đất đã cho họ những thứ đó
để họ sống còn; còn ai không cần tới những phương tiện đó để tồn tại thì Trời Đất
không phú cho họ.
Tôi
không biết có nên tin điều chú tôi vừa nói, như ngày xưa tôi đã tin những điều
chú dạy vỡ lòng cho tôi. Ngày xưa tôi đã tin chú hoàn toàn khi chú chỉ cho tôi
“đây là chữ A, đây là chữ B…” hoặc “2 cộng với 2 thành 4”, v.v. Còn bây giờ thì
sao? Đúng năm mươi năm sau chúng tôi lại cùng ngồi xuống bên chiếc bàn học ngày
xưa, và chú tôi không dạy chữ nghĩa cho tôi nữa, mà chú đang bàn về một bài học
khác, bài học của đời sống. Thốt nhiên tôi có cảm tưởng chiếc bàn nầy mênh mông
hơn cách nay năm mươi năm tôi nhìn thấy. Đón tôi trở về thăm chốn xưa hôm nay,
chú tôi không nói những điều tù hãm như lũy tre làng ngày nào; những điều chú nói
bây giờ dường như chẳng có biên giới, chẳng có xưa và nay; chúng như đã tiếp giáp
với Trời Đất.
Tôi
lại nghĩ đến Jean-Jacques Rousseau với lý thuyết về một nền giáo dục tiêu cực:
giáo dục bằng cách chẳng giáo dục gì cả, để đứa bé sống “thoát tục”, không thành
kiến, không nô lệ lề thói xã hội trước khi tiếp nhận nền giáo dục tích cực là sự
truyền dạy điều hay, lẽ phải. Tôi không định làm một so sánh, nhưng một người
thì đổ lỗi cho xã hội về sự hư hỏng của con người, và một người thì qui mọi điều
vào tâm qua ngã “thiên phú”. Nhưng nghĩ cho cùng, nếu có xã hội dự phần thì mới
phải sử dụng “điều thiên phú”. Tôi mơ hồ thấy câu nói của chú tôi có một cái gì
gần gũi với nhà tư tưởng Pháp ở thế kỷ thứ 18, tuy mỗi bên xem xét sự việc theo
một phương pháp riêng. Tôi bỗng có lại cái cảm giác dễ chịu của những ngày xa lắc
xa lơ mỗi lần hiểu được một bài tính đố của chú. Và bài tính nào cũng đặt người
giải trước một tình thế cố định, những bài toán ngày nhỏ hay những con tính bây
giờ. Chú tôi không có tham vọng thay đổi sự việc của đời sống, mà sự việc tự nó
biến đổi “từ con rắn sang sợi dây thừng” dưới nhãn quan của chú!
Tôi
từ giã chú mà lòng không ngăn nổi một thoáng u hoài nhân thế. Dĩ nhiên tôi mong
còn gặp lại chú. Nếu điều đó không xảy ra được vì hoàn cảnh chú hay hoàn cảnh tôi
– ai biết được – hóa ra đây sẽ là lần sau cùng chúng tôi ngồi với nhau bên chiếc
bàn học ngày xưa chăng? Nếu quả vậy thì
cũng còn một an ủi: chiếc bàn học đã có thủy, có chung - chiếc bàn khai tâm và
dưỡng tâm.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét